Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Thực trạng chống lạm phát của chính phủ VN trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.31 KB, 33 trang )


1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt.

1.2 Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh
hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả
định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một
CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản
ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc
cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá
cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI,
thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm
phát đã xảy ra).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi


nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không

2

bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa
chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là
tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc,
từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm
Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá
nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá
nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
- Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ
cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17
tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay
đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các
chi phí tiêu dùng cá nhân".

1.3 Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các

nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba
mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở
mức độ một con số hàng năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là

3

lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước
duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát cao: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con
số hàng năm (từ 10% - 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã.
Thật ra, cũng có một số nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao
gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số (như 100%, 200% ). Lạm phát phi mã gây ra nhiều
tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con
số hàng năm trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là
tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như
căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử
lạm phát của thế giới đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920 –
1923, ở Nga sau Cách mạng tháng 10, ở Trung Quốc sau thế chiến thứ hai…
* Ngoài ra, người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ
lệ tăng giá và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn
sau:
Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một
bộ phận của khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh
tế. Theo các nhà kinh tế, lạm phát nằm ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí
còn cho rằng lạm phát khi đó còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Sở dĩ
như vậy là do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối
lượng tiền phát hành vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường hợp

này lạm phát gây nguy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế.

1.4 Nguyên nhân của lạm phát
Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm
khác nhau do tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau:



4

1.4.1 Lạm phát do cầu kéo
Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu
dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu.
Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông
tiền tệ (V) tăng. Số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn hết và
thường xảy ra hơn hết là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Số thiếu hụt này được tài trợ
bằng nhiều cách: phát hành trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và nay mượn ở ngân hàng
trung ương. Một khi ngân hàng trung ương tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước tức là
ngân hàng trung ương đã trực tiếp làm tăng khối cung tiền. Vay mượn của nước ngoài
cũng làm tăng khối tiền tệ. Khối tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra áp
lực lạm phát. Tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị khủng
hoảng, kinh tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị
xói mòn, từ đó gây ra tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá.
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. Vấn đề
đặt ra là tại sao chi phí tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một
nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất
lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do các công
đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng

vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ cho lạm phát
không giảm xuống quá nhanh vì các hợp đồng lương của công đoàn thường là dài hạn và
khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như
dầu mỏ, sắt thép… cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên,
dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán.
1.4.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công,
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng
tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân

5

đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều
phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của
thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Cũng cần
lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ
chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để
thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp này cũng làm nảy sinh
hiện tượng lạm phát.
1.4.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
* Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà nước
như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất… làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất
cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân
sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền.
Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương
dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.
* Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị
trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới…















6

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHỐNG LẠM PHÁT
CỦA CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Diễn biến tình hình lạm phát ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Kết thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI tháng
12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và Việt Nam đã
không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông qua: “CPI thấp hơn tốc độ
tăng trưởng kinh tế”; đặc biệt, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng tới 18,92%, riêng
lương thực tăng 15,4% và thực phẩm tăng 21,2%.
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,6%, tháng 1/2008 tăng 2,38% và dự báo
tăng cao hơn trong tháng 2/2008.
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 8,44% trong năm 2007 và Chính phủ đặt mục
tiêu tăng 9,0% trong năm 2008. (Tỷ lệ tăng trưởng phải cao hơn tốc độ lạm phát).
Bước sang năm 2008, tình hình lạm phát càng diễn biến phức tạp hơn, chỉ số giá
tiêu dùng ngày càng tăng cao. Trong đó:
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 2.38% so với cuối năm 2007

- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 2 tăng 6.02% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 tăng 9.09% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng 11.6% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 tăng 15.96% so với cuối năm 2007





(Nguồn: Tổng cục thống kê)


7

Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, chỉ có giá bưu chính viễn thông do
kỹ thuật công nghệ tiến bộ nhanh, do có cạnh tranh mạnh giữa các doanh nghiệp, nên giá
liên tục giảm (tháng 4 giảm 0,06%, 4 tháng giảm 9,15%, sau 1 năm giảm 12,17%), còn tất
cả các nhóm khác giá đều tăng. Điều đó chứng tỏ yếu tố tiền tệ vẫn còn tác động mạnh
đến lạm phát, nên mới làm cho giá của tất cả các nhóm hàng đều tăng. Tốc độ tăng cuối
tháng 3.2008 so với cuối tháng 12.2007 của dư nợ tín dụng cao gấp đôi của huy động vốn
(10,8% so với 5,48%) đã chứng tỏ tiền từ ngân hàng ra lưu thông tăng cao hơn tiền từ lưu
thông vào ngân hàng, tạo áp lực cho lạm phát.
Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ, thì giá lương thực tăng cao nhất (tháng 4 tăng
6,11%, 4 tháng tăng 25,12%, sau 1 năm tăng 38,21%), tiếp đến là giá thực phẩm (tương
ứng là 2,22%, 15,59%, 33,63%), ăn uống ngoài gia đình (tương ứng là 2,02%, 16,52%,
30,43%). Tính chung nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao (tương ứng là 3,11%,
18,01%, 34,11%). Nhóm hàng này tăng cao không chỉ bởi khó khăn ở trong nước (do
thiên tai, thay đổi khí hậu tòan cầu, diện tích đất canh tác giảm, dịch bệnh lớn, chi phí đầu
vào cao), mà còn do giá thế giới tăng cao kéo giá trong nước lên theo (giá gạo xuất khẩu 4
tháng năm nay tăng 54,7% so với cùng kỳ năm trước). Do nhóm hàng này chiếm tỷ trọng

lớn nhất trong tổng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư (42,85%), nên đã tác động lớn
đến tốc độ tăng giá chung. Đối với nhóm hộ nghèo, tỷ trọng này còn cao hơn (trên 60%)
và cao gấp đôi nhóm người giàu, nên tốc độ tăng giá cao của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống càng làm cho nhóm hộ nghèo khổ hơn.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật
liệu xây dựng) giá cũng tăng rất cao (tháng 4 tăng 2,62%, 4 tháng sau tăng 10,84%, sau 1
năm tăng 22,59%) càng làm cho mong muốn cải thiện về nhà ở của những người có nhu
cầu thực, nhất là những người có thu nhập thấp trở lên xa vời. Điển hình, giá sắt thép vào
ngày 1/6/2008 là 16.200.000VND/tấn, đến ngày 14/6/2008 tăng lên 17.500.000VND/tấn,
và hiện nay (25/6/2008) giá sắt thép tăng lên 18.700.000VND/tấn.
Nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giá tăng cao (tháng 4 tăng 2,33%, 4 tháng tăng
9,83%, sau 1 năm tăng 15,39%) chủ yếu do tác động của giá xăng dầu tăng cuối tháng 2,
từ đó làm ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của hàng lọat các ngành công nghiệp
khác do sự gia tăng các chi phí liên quan đến sự tăng giá của các nhiên liệu.

8

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

2.2 Một số nguyên nhân gây ra lạm phát ở nước ta
2.2.1 Lạm phát do chi phí đẩy:
Năm 2007 Việt Nam nhập khẩu : 60,83 tỷ USD bằng 83% GDP. Riêng với ngành
chế biến, Việt Nam gần như là công xưởng gia công cho nước ngoài, bởi nguyên liệu
chính cho các ngành giầy da, dệt, may mặc, nhựa, hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu, đặc
biệt 100% nhiên liệu lỏng đã chế biến (xăng dầu) phải nhập khẩu. Vì vậy giá cả phụ thuộc
rất nhiều vào phía đối tác. Trong tình hình, giá cả thế giới đang tăng cao, không tránh
khỏi chi phí sản xuất, gia công của các doanh nghiệp trong nước cũng tăng cao.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hàng hóa xuất khẩu của nền kinh tế trong 5
tháng qua mang về 23,39 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Song giá trị
nhập khẩu lại tăng tới 67%, đưa nhập siêu lên 14,4 tỷ USD.

Trong năm 2007, chênh lệch cán cân xuất - nhập khẩu của nền kinh tế là 12,4 tỷ
USD, và được coi là mức rất cao so với các năm trước.

9

Các mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong các tháng vẫn là máy móc và nguyên
nhiên liệu đầu vào cho sản xuất, trong đó máy móc thiết bị chiếm 5,7 tỷ USD, xăng dầu
4,85 tỷ USD và sắt thép 4,1 tỷ USD. Ngoài ra, vải, điện tử - linh kiện và chất dẻo cũng là
các mặt hàng "ngốn" nhiều ngoại tệ.
Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng giá trị nhập khẩu, ôtô, urê và sắt thép đang dẫn đầu
với mức tăng lần lượt 292%, 184,3% và 137,8%.
Trong 5 tháng đầu năm, mặt hàng thu về nhiều ngoại tệ nhất vẫn là dầu thô, với 4,5
tỷ USD. dệt may, giày dép, thủy sản tiếp tục là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, với giá
trị lần lượt đạt 3,2 tỷ USD, 1,7 tỷ USD và 1,4 tỷ USD.
2.2.2 Lạm phát do cầu kéo:
Bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến quan hệ cung- cầu , quan hệ đến tiền - hàng
với các giải pháp tăng cung (tăng thêm khối lượng hàng hóa, chủng loại hàng hóa), đồng
thời phân phối hàng hóa đến người sử dụng kịp thời, đúng lúc, đúng địa chỉ , giảm lượng
tiền mà xã hội sử dụng vào mục đích tiêu dùng.
* Về cung – cầu hàng hóa, năm 2007, với mức tăng trưởng GDP: 8,48% không
phải là mức tăng trưởng thấp, nếu không muốn nhấn mạnh đây là thành tựu đáng tự hào
của Việt Nam (theo ADB, mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc: 11,2%, Singapore:
7,5%, Philippin: 6,6%, Indonesia: 6,2%, Malaysia: 5,6%, Thai Lan: 4,0%); Giá trị sản
xuất của ngành trồng trọt tăng nhưng sản lượng lương thực lại giảm. Ngành chăn nuôi,
sản lượng thịt lợn (nguồn tiêu dùng lớn nhất về thịt) xuất chuồng tăng không đáng kể
(khoảng 1%) trong khi tăng bình quân các năm trước từ 5 – 7%. Như vậy khối lượng hàng
hoá cung cấp cho thị trường có bị giảm sút hoặc không tăng, trong khi nhu cầu tiêu dùng
tăng. Mặt khác, cung năm 2007 cũng bị ảnh hưởng nhiều do thiên tai, dịch bệnh đã làm
thiệt hại nhiều tới sản xuất, tới đời sống nhân dân nói chung, nhất là nhân dân vùng bị
thiên tai, dịch bệnh nói riêng, theo tính toán thiệt hại này vào khoảng 1% GDP (1% này là

tính chưa đủ, vì 1% là thiệt hại làm giảm cung khoảng 1% GDP, nhưng những thiệt hại ấy
lại gắn liền tới đời sống và sản xuất của nhân dân, cần sớm được khôi phục, cần bù đắp
như trước khi bị thiên tai, do vậy, cầu cũng tăng lên 1%) – đây là điều các nhà hoạch định
không tính đến.

10
* Về tiền tệ, năm 2007 ở Việt Nam có một vài đặc điểm cần chú ý đã làm tăng
khối lượng tiền tệ trong dân và tự nó đã làm tăng cầu:
- FDI đạt khoảng 20,3 tỷ USD (gồm trên 17,8 tỷ USD là số vốn đăng ký cho các
dự án mới được cấp giấy phép trong năm 2007 và gần 2,5 tỷ USD là vốn đăng ký bổ sung
các dự án được cấp phép từ các năm trước), tăng 69,3 % so với năm 2006, vượt kế hoạch
56,3% và đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
khoảng 4,6 tỷ USD, tăng 600 triệu USD.
- Đầu tư gián tiếp năm 2007 cũng là năm đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt
Nam tăng vọt, thông qua việc mua các cổ phiếu (năm 2007 ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 4,3
tỷ USD).
- ODA cũng là năm đạt mức khá cao: tính chung hai năm 2006-2007, tổng vốn
ODA dành cho Việt Nam đạt khoảng 8,19 tỷ USD, tuy giải ngân còn chậm, nhưng cũng
đạt hơn 2 tỷ USD, tăng hơn 200 triệu USD.
- Kiều hối (định cư ở nước ngoài, xuất khẩu lao động làm việc ở nước ngoài, )
cũng mang về hơn 5 tỷ USD, số tiền này chủ yếu được thân nhân của kiều bào sử dụng để
tiêu dùng. Chưa kể khoảng 3,3 tỷ USD là phần chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam.
Một nguyên nhân nữa là do lãi suất tiền gửi ngọai tệ hiện nay ở Việt Nam là 6%/tháng,
trong khi ở Mỹ là 2.5%/tháng, do sự chênh lệch đó mà có nhiều kiều bào đã gửi một số
lượng kiều hối tương đối lớn về để đầu tư, nhưng lại khó thu hồi được vì chính sách ngọai
hối của Việt Nam quy định khá chặt chẽ về việc đem lượng kiều hối lớn ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam.
- Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 khỏang 461,9 nghìn tỷ đồng, tăng
+15,8%; riêng, khu vực Nhà nước chiếm 43,3% tổng vốn đầu tư, tăng: + 8,1%, cũng các
chỉ tiêu trên lần lượt với Khu vực ngoài Nhà nước: 40,7% và + 24,8%, với khu vực có

FDI là : 16% và +17,1%. Điều này đã làm tăng một khối lượng tiền tệ trong dân.
- Nhà nước tăng nhanh dự trữ ngoại tệ bằng cách bỏ ra một khối lượng nội tệ để
mua khoảng 9 tỷ USD. Thu nhập bình quân của người dân nói chung ở Việt Nam tăng
khoảng 6% (tất nhiên có khoảng chênh lệch lớn giữa các nhóm dân cư).



11
2.2.3 Nguyên nhân khác:
* Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm nay (và
tiếp tục tăng trong năm sau). Mặc dù có nhiều khả năng giá điện sản xuất sẽ không tăng
nhưng việc điều chỉnh này vẫn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng giá chung.
* Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam
hiện đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám
sát tình hình dao động giá thế giới. Năm ngoái, giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6
lần, và sẽ nhạy cảm hơn trong năm nay.
* Tình hình thời tiết bất thường (rét đậm, rét hại kéo dài 35 ngày ở miền Bắc), hạn
hán, lũ lụt, bão lớn và nguy cơ trở lại của dịch cúm gia cầm, dịch heo tai xanh sẽ là
những nhân tố tiềm ẩn có thể gây nên cơn sốc giá, đặc biệt là mặt hàng lương thực, thực
phẩm (hiện chiếm hơn một nửa giá hàng hoá dùng để tính CPI).
* Bên cạnh đó, sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế Việt Nam trong 2-3 năm
trở lại đây đã thu hút sự quan tâm của người dân đến nhiều lĩnh vực đầu tư mới : chứng
khóan, bất động sản, vàng Khác với việc sản xuất ra một lọai sản phẩm có thể kiếm được
lợi nhuận do giá trị của nó tạo ra; bản chất của các lọai đầu tư trên vốn dĩ chỉ là hình thức
chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác, mà không nảy sinh bất kỳ sự gia tăng giá trị nào. Và
do vậy, khi người dân vay tiền ngân hàng để đi đầu tư, kết quả sau một thời gian không
sinh lợi nhuận, họ lại đem cầm cố, thế chấp. Hệ quả là tính thanh khỏan ở các ngân hàng
thấp, nên hàng lọat các ngân hàng đã gia tăng tiền gửi tiết kiệm bằng cách tăng lãi suất
tiền gửi, và để có đủ khả năng trả tiền cho người gửi khi đến hạn thì buộc lòng các ngân
hàng phải tăng tiền lãi cho vay, điều đó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp nhiều trở ngại; một

là nhà đầu tư dù muốn đầu tư nhưng cũng không thể kham nổi lãi suất đó, từ đó sẽ làm đó
thị trường tài chính bị đóng băng; hai là nhà đầu tư sẵn sàng vay với lãi suất đó để sản
xuất, như vậy chi phí tăng, buộc lòng các nhà đầu tư phải tăng giá thành sản phẩm, và vô
hình chung sẽ càng làm cho giá cả hàng hóa tăng cao hơn.
* Hiện nay, hàng lọat các ngân hàng được thành lập, đặc biệt là các ngân hàng
thuộc sự quản lý của các tập đòan lớn, chúng sẽ là một ngòi nổ có thể khiến cho việc giải
quyết tình trạng lạm phát hiện nay gặp nhiều trở ngại hơn. Nguyên nhân là khi các tập
đòan này mở các ngân hàng của riêng mình thì việc cho chính bản thân họ vay sẽ không

12
gặp nhiều trở ngại như khi đi vay tại các ngân hàng khác, khiến cho tình trạng họat động
của ngân hàng đó gặp rủi ro cao. Và khi ngân hàng đó rơi vào tình trạng phá sản thì sẽ
kéo theo nhiều ngân hàng khác, kết quả sẽ làm cho hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng
khó khăn, từ đó có thể làm cho nền kinh tế bị suy thóai trầm trọng.

2.3 Tác động của lạm phát đến các mặt đời sống xã hội
2.3.1 Thị trường tài chính
Kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành ngay một lúc tới
20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, không được vay tái cấp vốn, với mục tiêu kiềm chế
lạm phát, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã có phản ứng tức thì, nhạy cảm
tới biện pháp mạnh tay và cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, đó là thị trường chứng
khoán sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ hết sức nóng.
Thị trướng chứng khoán hiện đang giảm liên tục, các phiên giao dịch cũng ít dần,
làm cho tình hình ngày càng xấu đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ tăng lên, thặng dư tài
khoản thanh toán giảm, thặng dư cán cân thanh toán giảm.
Từ đầu năm đến nay, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia
nhập WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó
khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối cảnh
thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan.
Do Việt Nam muốn giữ được một tỉ giá tương đối cạnh tranh, vì vậy Ngân Hàng

Nhà nước đã phải mua tiền vào, làm tăng dự trữ ngoại tệ, nhưng mặt khác cũng làm cho
lượng cung ứng tiền về lớn, dẫn đến cân đối cung - cầu ngoại tệ thay đổi, gây áp lực lạm
phát.
Để giải quyết vấn đề ấy, Ngân Hàng Nhà nước đã hút tiền về bằng cách áp dụng
chính sách thị trường mở, bán tín phiếu, tăng dự trữ bắt buộc của các Ngân Hàng Thương
Mại. Nhưng biện pháp này có tổn phí khá cao và khiến cho lãi suất bị đẩy lên. Vì vậy, sẽ
ảnh hưởng đến tăng trưởng do lãi suất cao.
Bên cạnh đó, nếu có sự can thiệp của chính sách tiền tệ bằng cách mua tiền vào thì
phải tăng cường được hiệu lực của các công cụ tiền tệ và vai trò độc lập hơn của NHTƯ

13
trong quyết định các chính sách của mình để vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của tỉ giá,
đồng thời giảm tổn phí cho các biện pháp trung hoà hoá tiền tệ
Hơn nữa, sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã làm giảm sự cạnh tranh của hàng xuất
khẩu, do đó làm giảm cầu xuất khẩu làm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất hàng xuất khẩu,
làm ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai. Theo ADB, các chỉ số của thị trường tài
chính được tính toán và được dự báo qua các năm:

MỘT SỐ CHỈ SỐ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM, 2006 - 2009
2006 2007 2008 2008
Lạm phát giá tiêu dùng (%)
Chỉ số lạm phát bình quân kỳ
Chỉ số lạm phát cuối kỳ

7.5
6.6

8.3
12.6


18.3
15.6

10.2
7.6
Tăng trưởng thực GDP (%) 8.2 8.5 7.0 8.1
Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 23.0 21.3 18.7 23.5
Cán cân vãng lai (% của GDP) -0.3 -8.0 -10.3 -9.4
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Ước tính và dự báo của cán bộ ADB)

Theo dự báo của ADB thì cán cân vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt cao trong
năm 2008, và có xu hướng giảm vào năm 2009. Điều này cũng có thể được lý giải bằng
việc sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã ngày càng làm cho việc xuất khẩu của Việt Nam
ngày càng khó khăn hơn, do đó làm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.
Báo cáo của Goldman Sachs dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể giảm
trong năm 2008 và 2009 lần lượt là 7,3% và 7,8%, so với mức tăng trưởng 8,5% trong
năm ngoái. Chỉ số CPI cũng được dự báo ở mức 19% và 10% cho cả năm nay và năm
sau, so với mức 8,3% của năm 2007.
Các chuyên gia của Goldman Sachs cũng nhận định, tình trạng kinh tế tăng trưởng
quá nóng tại Việt nam là điều hiển nhiên do nhiều yếu tố.

14
Giải thích về tình trạng lạm phát tăng cao tại Việt Nam, báo cáo của Goldman
Sachs cho rằng, lượng cung tiền tăng mạnh chính là nguyên nhân chủ đạo gây ra tình
trạng này.
Tình trạng này bắt đầu hiện từ năm 2006 và tăng tốc vào đầu năm 2007. Cùng với
đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng từ mức 29% lên 54%. Goldman Sachs đưa ra
hai lý do chính khiến gây ra việc tín dụng tăng trưởng mạnh đó là: luồng vốn chảy vào
Việt Nam tăng đột biến và sự mở rộng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng
thương mại và ngân hàng nước ngoài.

Để giữ VND không bị trượt giá, Ngân hàng Nhà nước đã mua USD về và như thế
bơm thêm VND vào hệ thống tiền tệ. Để tránh thừa VND, Ngân hàng Nhà nước đã phát
hành tín phiếu bắt buộc và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng, nhưng vẫn
còn một lượng tiền dư thừa lớn trong nền kinh tế.
Ngoài việc đẩy mạnh cho vay để chiếm thị phần, các ngân hàng cũng tìm mọi cách
để tăng dư nợ nhằm đảm bảo tỷ lệ bắt buộc 3% đối với cho vay cầm cố chứng khoán vào
thời điểm cuối năm 2007.
Theo các chuyên gia của Goldma Sachs, chính sách tiền tệ đóng một vai trò quan
trọng trong việc kiểm soát lạm phát.
Kể từ tháng 6 năm ngoái, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều công cụ chính
sách tiền tệ để chặn lạm phát như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sử dụng nghiệp vụ repo, phát
hành tín phiếu, tăng lãi suất, nới biên độ tỷ giá VND/USD…
Tuy nhiên, từ nay trở đi, Ngân hàng Nhà nước sẽ không còn nhiều công cụ chính
sách để áp dụng. Và báo cáo cho rằng, hai công cụ sẽ có nhiều khả năng được sử dụng
nhất là tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng.
Việc Ngân hàng Nhà nước dỡ bỏ trần lãi suất huy động, ấn định lãi suất tối đa
18%/năm của ngày 17/5 được Goldman Sachs đánh giá là một bước đi tích cực trong việc
chống lạm phát và giảm nhẹ áp lực tiền tệ.
Tuy nhiên, với tình trạng thắt chặt thanh khoản trong các ngân hàng hiện nay kể từ
khi Ngân hàng Nhà nước phát hành 20.000 tỷ tín phiếu bắt buộc trong tháng 3 khiến xuất
hiện một nhân tố rủi ro trong hệ thống.

15
Bản báo cáo cho rằng, đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước nên tính đến chuyện cung
cấp thanh khoản cho các ngân hàng, thay vì tiếp tục tìm cách hút bớt thanh khoản trong
ngắn hạn.
Báo cáo cũng dự đoán VND sẽ tiếp tục mất giá so với USD trong thời gian tới.
Ngân hàng Nhà nước sẽ không sử dụng sử công cụ tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Thứ
nhất, VND chưa bị định giá quá thấp so với USD. Thứ hai, Chính phủ tiếp tục muốn đẩy
mạnh xuất khẩu và thu hút vốn FDI.

2.3.2 Doanh nghiệp
Để bù đắp quỹ lương tăng do lạm phát, các công ty phải tăng cường cắt giảm chi
phí từ hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, sa
thải những nhân viên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lạm phát thúc đẩy các
doanh nghiệp để giảm chi phí, quản lý tốt hơn quá trình hoạt động kinh doanh.
Một vài dẫn chứng điển hình của các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin
và viễn thông “chống chọi“ với lạm phát:
* Các công ty viễn thông:
Giá hàng hóa leo thang, chỉ số CPI cả năm dự báo đạt con số 20%, khiến các hãng
viễn thông cũng lo ngại, việc cắt giảm chi tiêu của người dân có thể ảnh hưởng tới nhu
cầu xài di động.
Mấy tháng gần đây, chương trình khuyến mãi, giảm giá của các hãng di động Việt
Nam không còn rầm rộ như trước, mức tiền mà doanh nghiệp tặng vào tài khoản cho mỗi
thuê bao cũng không còn hấp dẫn như hồi năm ngoái. Chi phí đầu vào tăng, cùng với tốc
độ trượt giá chung của nhiều nhóm hàng dịch vụ, các nhà khai thác viễn thông bắt đầu
cảm nhận lạm phát đã lan đến cửa nhà mình.
Điều khiến các hãng viễn thông lo lắng nhất hiện nay đó là nhu cầu xài di động của
khách hàng có thể thay đổi do họ phải cắt giảm chi tiêu, hạn chế những cuộc gọi không
cần thiết. Theo đó, lưu lượng cuộc gọi và tốc độ phát triển thuê bao cũng có khả năng
giảm theo.
VinaPhone nhẩm tính, từ đầu tháng 5 đến nay, lượng thuê bao phát triển mới của
hãng bắt đầu giảm nhẹ dù công ty vẫn duy trì chương trình khuyến mãi tặng tiền vào tài
khoản cho khách hàng và nhân đôi số tiền cho các chủ nạp. Hiện nay mỗi ngày

16
VinaPhone phải cố gắng tối đa mới phát triển được 30.000-35.000 thuê bao, trong khi con
số của tháng 1 và 3 vào khoảng 50.000-55.000.
Các chuyên gia kinh tế nhìn nhận, đối với 3 doanh nghiệp lớn như VinaPhone,
MobiFone và Viettel có thể bị ảnh hưởng ít nhiều từ yếu tố lạm phát song không nhiều.
Nặng nề nhất có thể kể đến đó là mạng di động HT Mobile khi nhà khai thác này vừa

bước vào giai đoạn chuyển đổi công nghệ. Giá vật tư leo thang, thiết bị, nhân công đắt
đỏ sẽ khiến cho chi phí đầu tư của họ sẽ bị đội lên.
* Công ty công nghệ thông tin:
Trong bối cảnh cơn bão giá đang hoành hành, các công ty phần mềm một mặt tăng
lương, một mặt thì “thắt lưng buộc bụng” chống chọi với lạm phát. Theo phản ánh của
các DN phần mềm như công ty Misa, Past, Tinh Vân và FPT, từ đầu năm tới nay, lương
cho nhân viên tăng khoảng 15-20% so với năm 2007
Tập đoàn FPT từ đầu năm đã ra hẳn một quyết sách gọi là “C10” với mục tiêu cắt
giảm 10% chi phí hoạt động nhằm chống chọi với lạm phát. Để thực hiện mục tiêu này,
FPT một mặt đẩy cao việc thực hiện mục tiêu doanh số, lợi nhuận, một mặt hạn chế tuyển
người mới, thuyên chuyển các vị trí không đáp ứng yêu cầu, cắt giảm các hoạt động
không trực tiếp tạo ra lợi nhuận và tăng cường tiết kiệm. Theo một lãnh đạo của FPT,
trong chiến dịch cắt giảm chi phí, FPT đặc biệt nhấn mạnh đến vấn để sử dụng hiệu quả
nguồn nhân lực, coi đó là chìa khoá chống lạm phát. Tính trung bình, chi phí cho một
nhân viên làm phầm mềm mỗi năm lên tới 8.000 USD.
Không ra quyết sách quyết liệt như FPT, công ty Tinh Vân thường xuyên tổ chức
ngày văn hoá trong công ty với khẩu hiệu “thắt lưng buộc bụng” nhằm kêu gọi nhân viên
tiết kiệm, chung tay chống lạm phát. Ngoài việc cắt giảm chi phí hoạt động thường xuyên,
theo ông Phan Quang Minh, Trưởng phòng phát triển kinh doanh công ty Tinh vân, lạm
phát đang làm thay đổi chính sách nhân sự của công ty. “Từ năm 2007 về trước, Tinh Vân
tìm đủ mọi cách để níu chân những người xin ra đi nhưng nay thì khác. Những người xin
đi sẽ được bộ phận nhân sự đánh giá lại, nếu là vị trí không thật xuất sắc thì không tìm
cách giữ chân” ông Minh nói.
Ông Lữ Thành Long, tổng giám đốc công ty Misa cho biết: từ khi lạm phát tăng
cao, các hoạt động không cấp bách như đổi xe hơi đều bị cắt giảm. Bên cạnh đó, Misa đã

17
tính lại tỉ lệ tăng trưởng và lợi nhuận để hạn chế thấp nhất sự tác động của bão giá và lạm
phát tới đời sống nhân viên. Tuy nhiên, bên cạnh tác động tiêu cực, theo ông Long, lạm
phát là cơ hội cho Misa rà soát lại các quy trình nghiệp vụ để tăng cường hiệu quả và

năng suất lao động.
2.3.3 Nông dân, người lao động nghèo
Giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ
tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung
(năm 2007 tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với
tăng 6,02%). Nhóm hàng này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ
tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ
tăng giá chung.
Đây không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà còn là vấn đề của toàn thế giới. Giá gạo
xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước tăng tới 21,7%,
trong những ngày tháng 3 này còn cao gấp rưỡi, gấp đôi. Giá lúa mì nhập khẩu năm 2007
tăng 60% so với năm 2006, 2 tháng đầu năm nay tăng 55,9%. Tốc độ tăng giá lương thực,
thực phẩm của Trung Quốc tháng 2.2008 so với cùng kỳ năm trước cũng đã rất cao (giá
lương thực tăng trên 18%, giá thực phẩm tăng tới 29%). Giá lương thực, thực phẩm của
các nước phát triển cũng tăng hai chữ số.
Nguyên nhân do tác động xấu của thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng và gia súc,
do tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho diện tích đất canh tác bị
thu hẹp gây rất nhiều khó khăn cho việc sản xuất của nông dân.
Hơn nữa, nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số cả nước, cũng tức là chiếm
gần ba phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước. Trong thời kỳ bao cấp, quá nửa dân số
sống dưới mức đói nghèo, nên lạm phát cao đã làm cho mọi người cùng bị khổ. Bây giờ
chênh lệch giàu/nghèo lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ trọng chi tiêu cho lương thực,
thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu, thì lạm phát cao sẽ làm cho
người nghèo bị khổ hơn, trong khi người nghèo sống ở nông thôn chiếm tới trên 90% tổng
số người nghèo của cả nước. Như vậy, xét về cả hai mặt (người tiêu dùng và người tiêu
dùng nghèo) thì nông dân đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lạm phát cao đã làm cho nông
dân, nhất là nông dân nghèo càng bị khổ.

18
Nông dân là thế, còn đối với công nhân – những người làm công ăn lương, cũng

phải chịu hoàn cảnh khó khăn không kém. Tốc độ tăng lương cực kỳ chậm, nhưng giá cả
mỗi bữa ăn, chi phí sinh hoạt ngày càng tăng cao chóng mặt. Hiện đã có nhiều vụ đình
công do công nhân đòi tăng lương trong thời bão giá này. Và hơn hết, nếu chính phủ
không sớm đưa ra những biện pháp cụ thể để ổn định đời sống công nhân và nông dân thì
nước ta rất khó có thể đoàn kết toàn dân để chống chọi với căn bệnh lạm phát này.
2.3.4 Sinh viên
Đời sống sinh viên ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn khi mà giá cả leo thang. Các
chi phí sinh hoạt hằng ngày tăng cao: tiền ăn, ở, đi lại, sách vở càng làm cho giới sinh
viên càng nhiều lo âu.
Một vài dẫn chứng thực tế về đời sống sinh viên trước cơn bão giá:
+ Giá nhà cho thuê loại trung bình tại khu trung tâm TP HCM cũng nhiều phen
"nhảy múa" từ đầu năm đến nay. Tại một con hẻm trên đường Lý Tự Trọng, quận 1,
phòng nhỏ có diện tích chừng 10-12 m
2
, sử dụng toilet công cộng nhưng gia chủ đã tăng
từ 650.000 lên thành 850.000 đồng một phòng, từ đầu tháng 6. Thậm chí, đối với những
người ở ghép, chủ nhà còn áp dụng biện pháp nâng giá thuê lẻ thêm 50.000-100.000 đồng
mỗi người một tháng.
+ Giá điện, nước và phí gửi xe tại các khu nhà trọ cũng vênh với giá trị thật gấp 2-
3 lần. Đơn cử, giá điện tại khu nhà trọ Trần Văn Đang, quận 3, đang được các chủ nhà trọ
thu 2.500 đồng một kw. Nhiều người thuê nhà trọ tại quận Phú Nhuận, Gò Vấp đang bị
thu tiền điện với mức 3.000 đồng một kw. Trên thực tế, giá điện bình quân của nhà nước
tính theo bậc thang tăng dần 50-401 kw là 550-1.780 đồng một kw.
+ Giá nước sinh hoạt "đánh" lên đầu người ở trọ đang là 9.000-10.000 đồng một
m
3
hoặc khoán theo mức sử dụng 30.000-40.000 đồng một người. Trong khi đó, giá nước
sạch hiện tại của Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn đang là 2.700-8.000 đồng một m
3
.


2.4 Các giải pháp chống lạm pháp của chính phủ thông qua các chính sách tiền tệ và
các tác động của các giải pháp này
Trong thời điểm lạm phát tăng cao từng ngày, chính phủ đã đề ra rất nhiều biện
pháp nhằm kiềm chế lạm phát. Mỗi thời điểm khác nhau, các chính sách này có những tác

19
động nhất định đến tình hình thị trường tài chính. Sau đây là một số biện pháp chính phủ
đã thực hiện trong các giai đoạn khác nhau nhằm kiềm chế lạm phát:
2.4.1 Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích
cực như: giảm thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá, cho các doanh nghiệp nhập khẩu và
sử dụng nguyên, nhiên liệu nhập khẩu
Tác động: đây cũng được coi là nguyên nhân chính đẩy CPI lên. Các biện pháp
liên quan đến lạm phát chi phí đẩy, trong thực tế ít hiệu lực, vì khi giảm thuế nhập khẩu
còn có độ trễ nhất định về thời gian (không phải giảm thuế nhập khẩu, các sản phẩm được
sản xuất từ các nguyên liệu nhập khẩu này có thể giảm giá ngay được), mặt khác Nhà
nước không kiểm soát được các Doanh nghiệp có giảm giá đúng với mức độ giảm thuế
nhập khẩu, trong khi đó lại có doanh nghiệp tuy được hưởng chính sách giảm thuế nhập
khẩu, nhưng giá sản phẩm sản xuất ra không những không giảm mà lại còn tăng; và trên
một mức độ nhất định, Nhà nước hơi quá kỳ vọng vào biện pháp này, trong khi đã không
tính toán được mức độ sẽ giữ giá hoặc giảm giá không phải chỉ với một nhóm sản phẩm
mà toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, dùng biện pháp bù giá, đây là biện pháp không lâu dài,
không có tính cơ bản vì không phù hợp với kinh tế thị trường, không làm trên phạm vi
rộng (ngân sách Nhà nước không đủ sức làm việc này), thay vì bằng trợ cấp cho nhân
dân các vùng thiên tai, dịch bệnh,
2.4.2 Các biện pháp thắt chặt tiền tệ
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các
ngân hàng thương mại phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt điều hành chính
sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước:
1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, mở rộng thêm phạm vi

tiền gửi dự trữ bắt buộc và Ngân Hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng phải
thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000
tỷ đồng các ngân hàng thương mại phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho ngân hàng nhà
nước.
2. Ngày 15/2/2008 ngân hàng nhà nước công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ
đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc. Ba ngân hàng thương mại Nhà nước có quy
mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai ngân hàng thương mại cổ

20
phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các ngân hàng thương
mại cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng
nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên
doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ vậy, các ngân hàng phải mua 20.300
tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng
tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.
Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị
trường mở với ngân hàng nhà nước để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này ngân
hàng nhà nước nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các ngân hàng thương mại khi
thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái
cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại ngân hàng nhà nước. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới
364 ngày, hay gần 1 năm.
3. Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của ngân hàng nhà nước tăng cao hơn
trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn
tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
4. Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày
1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các ngân
hàng thương mại, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03
trước đây.
Tác động:
* Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất

Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương mại đã
căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều
ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi
suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy, quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín
phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía
cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem
tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng khoán đầu
năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị đánh giá là quá nóng và
bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ.

21
Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà
đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai
tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào
giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm
lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi
phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và
khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của
Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau WTO, khả
năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà ta có thể xem thường,
không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ
mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng
giá.
Trong cuộc đua tranh tăng lãi suất, ngày 20/2/2008, ngân hàng thương mại Cổ
Phần Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới được coi như “một quả bom”
dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là
12%/năm. Không chịu thua, ngày 21/2/2008 ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà
Nội (SHB) đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm
cho kỳ hạn 1 tháng. Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn (SCB) đưa ra mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới

13,5%/năm. Một số ngân hàng thương mại còn đưa ra mức lãi suất thoả thuận tới 1,2%
đến 1,3%/tháng đối với khách hàng gửi tiền với khối lượng lớn, hay giữ chân khách hàng
rút tiền tới hàng tỷ đồng. Đây được coi là mức lãi suất “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho
nhiều người nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ
vỡ gần 6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, trong thời điểm lạm phát lên tới 200% -
300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta. Còn ngân hàng thương mại Cổ Phần An Bình
thì tăng cao lãi suất nhưng chủ yếu ở kỳ hạn ngắn: 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần… Lãi suất tiền
gửi VND kỳ hạn 4 tuần lên tới 7,8%/năm.
Tiếp theo, một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm khi
lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt. Đặc biệt

22
lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục
mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm…
Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại ngân hàng nhà
nước lên tới 10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi
suất bình thường. Thị trường "căng" đến mức ngày 22/2/2008 ngân hàng nhà nước phải
bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số ngân hàng thương mại
trúng thầu, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm
của ngày 21/2/2008.
Tính tổng cộng chỉ trong 1 tuần, ngân hàng nhà nước phải bơm ra tới 39.000 tỷ
đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của ngân hàng nhà
nước từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá
ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các ngân hàng thương mại Nhà
nước, một số ít ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu ngân hàng nhà nước và Tín phiếu Kho bạc
Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó,
còn phần đông các ngân hàng thương mại cổ phần thì không.
Do đó các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại
trên thị trường liên ngân hàng khoản vay của các ngân hàng thương mại đó với lãi suất từ

30% đến 43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của ngân hàng nhà nước. Không
phải làm gì, các ngân hàng thương mại Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình
trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động
tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ
thống ngân hàng thương mại.
Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh
nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có
thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và
việc làm.
* Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm
Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự báo tốc độ
tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Âu và các người khổng lồ

23
mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo hướng giảm đi, chúng ta dễ dàng nhận
ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng trưởng (có lẽ
còn hơi sớm để dùng từ suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định thắt chặt
tiền tệ, như đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn
cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số
ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào),
có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc sau khi thực
hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã bị điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con
số còn 9,6%, còn tăng trưởng Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao?
Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây
cũng là vấn đề xã hội không nhỏ.
* Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp
Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm 2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên
tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là ngân hàng nhà nước
đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm
xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng của thị trường này trong năm

nay. Với một thị trường được xây dựng trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường
khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường
không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị
trường Việt Nam hấp dẫn nữa.
Chúng ta không nên chủ quan cho rằng nếu thị trường chứng khoán giảm giá về
mức hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ thích tham gia vào Việt Nam nhiều hơn. Một số
nghiên cứu trong các năm 2000, 2001 ở các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư
nước ngoài là những người mua bán dựa trên kết quả tốt đẹp (positive feedback trader),
nghĩa là tham gia vào một thị trường khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi hấp dẫn trong quá khứ,
và thoát khỏi nó khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi không cao. Nhìn lại quá trình vốn nước
ngoài đổ vào thị trường chứng khoán nước ta, rõ ràng vốn đổ vào nhiều trong những năm
gần đây khi chúng ta trở thành “ngôi sao đang lên”, còn trước đó, trong những năm trước
2002, nhiều quỹ đầu tư đã rời khỏi Việt Nam sau những giai đoạn thị trường rơi vào trạng
thái trầm lắng. Đó là chúng ta chưa tính đến yếu tố cơ bản là nếu kinh tế suy giảm tăng

24
trưởng, chi phí vay mượn của doanh nghiệp tăng cao, thì liệu cái nhìn của nhà đầu tư
nước ngoài đối với triển vọng dài hạn của chúng ta sẽ bị bào mòn ít nhiều.
* Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá
Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong tình hình lãi suất đô la Mỹ
(USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên đồng USD so với VND. Cho dù
lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới, nhưng tính ra vẫn thấp hơn lãi suất
VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ
nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền đồng đã đến mức báo động ở nhiều ngân
hàng.
Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn
đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển.
2.4.3 Chính phủ ban hành Nghị quyết 10/2008/NQ-CP
Nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững, ngày 17/4/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP

về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó Chính phủ đề ra 8
nhóm biện pháp chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm này như sau:
- Nhóm thứ nhất: Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, Chính phủ đề nghị Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách
tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng
dư nợ tín dụng. Các hoạt động của ngân hàng thương mại về huy động, cho vay, tín dụng
cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định.
- Nhóm thứ hai: Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát
chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi
phí hành chính. Các hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công trình đầu tư
kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành. Bộ Tài chính sẽ đảm
trách việc rà soát, đề xuất biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài
chính thực hiện sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế trong quý IV năm 2008.
- Nhóm thứ ba: Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa. Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát

25
triển nông thôn chủ trì khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, tập trung phát
triển trồng rau màu, chăn nuôi, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ hè thu, tăng nguồn
cung thực phẩm. Từ đó, giá cả lương thực, thực phẩm sẽ sớm được ổn định. Chính phủ
nhấn mạnh việc khắc phục tình trạng thiếu điện, bảo đảm điện cho sản xuất.
- Nhóm thứ tư: Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập
siêu. Theo đó, Bộ Công Thương được giao phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn điều hành và kiểm soát để xuất khẩu gạo năm 2008 ở mức 3,5 - 4 triệu tấn. Bộ
Tài chính cần điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối với
một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, rượu, bia nhưng vẫn
đảm bảo phù hợp cam kết hội nhập.
- Nhóm thứ năm: Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu
dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi

nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các
doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để chấn
chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu
tư bất hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị này.
- Nhóm thứ sáu: Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu
và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Các hành vi
vi phạm pháp luật Nhà nước về giá sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Các tổng công ty nhà nước
phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính
phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ, đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
- Nhóm thứ bảy: Bên cạnh kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ
chỉ rõ cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở
rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Điển hình là từ nay cho đến hết
tháng 6/2008, chưa tăng giá điện, than, xăng, dầu, giữ ổn định giá xi măng, phân bón,
nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa, vé xe buýt, mức thu học phí, viện phí.
Các biện pháp thích hợp tiếp theo sẽ được đề ra tùy thuộc vào diễn biến của lạm phát.
Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính kiểm tra việc xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp
không thu tiền cho đồng bào bị thiên tai, thiếu đói.

×