Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng pháp lệnh lý lịch tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 200 trang )


BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ










ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
XÂY DỰNG PHÁP LỆNH LÝ LỊCH TƯ PHÁP








7533
22/10/2009





HÀ NỘI – NĂM 2007

2
BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ










ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

XÂY DỰNG PHÁP LỆNH LÝ LỊCH TƯ PHÁP

Ban chủ nhiệm:
Chủ nhiệm: TS. TRẦN THẤT
Thư ký: ĐỖ THỊ THUÝ LAN
DƯƠNG BẠCH LONG









HÀ NỘI - NĂM 2007

3

DANH SÁCH CÔNG TÁC VIÊN CHỦ CHỐT CỦA ĐỀ TÀI


1. TS. Trần Thất Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp
2. Nguyễn Thị Minh Phương Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp
3. Hoàng Ngọc Thành Toà án nhân dân tối cao
4. Hoàng Quyền Môn Cục hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an
5. Th.s Phạm Trọng Cường Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp
6. Th.S Trịnh Thị Bích Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh
7. Đặng Trung Hà Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
8. Đỗ Thị Thúy Lan Vụ Hành chính tư
pháp, Bộ Tư pháp
9. Dương Bạch Long Viện Khoa học Pháp lý
10.Th.s Đỗ Hoàng Yến Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, BTP
11.Th.s Nguyễn Thanh Trúc Vụ Pháp luật Hình sự Hành chính, BTP



4
MỤC LỤC



Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN I
BÁO CÁO TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
8


11

PHẦN THỨ NHẤT
. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN XÂY DỰNG LUẬT LÝ
LỊCH TƯ PHÁP
I. KHÁI NIỆM LÝ LỊCH TƯ PHÁP
1. Khái niệm lý lịch tư pháp:
2. Phân biệt lý lịch tư pháp với hồ sơ căn cước can phạm
II. PHẠM VI QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP
III. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP
IV. MÔ HÌNH QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
1. Quản lý lý lịch tư pháp của Cộng hoà Pháp
2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản:
3. Mô hình quản lý lý lịch tư pháp của một số nước theo hệ thống pháp luật
Ănglô Xắcxông
3.1. Quản lý lý lịch tư pháp tại Hoa Kỳ:
3.2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Vương quốc Anh
PHẦN THỨ HAI.
THỰC TIỄN QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI VIỆT NAM
I. LỊCH SỬ VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI VIỆT
NAM

1. Lịch sử công tác quản lý lý lịch tư pháp tại Việt Nam
1.1. Quản lý lý lịch tư pháp thời kỳ Pháp thuộc và miền Nam Việt Nam trước
năm 1975
1.2. Quản lý lý lịch tư pháp từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm
1955
1.3. Quản lý lý lịch tư pháp từ 1956
đến 1993
1.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay



12

12

12

14

15
17

20


20

21

23


23

25

27

27


27

27


28


29

29

5
2. Thực tiễn công tác quản lý lý lịch tư pháp hiện nay:
2.1. Một số lĩnh vực liên quan đến công tác lý lịch tư pháp
2.1.1. Hệ thống tàng thư nghiệp vụ cảnh sát của ngành công an
2.1.2. Công tác hồ sơ và trích lục án của các Toà án nhân dân
2.2. Công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số
07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 8/2/1999
II. HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ LÝ

LỊCH TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄ
N ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về lý lịch tư pháp.
1.1. Các văn bản pháp luật về tổ chức và quản lý lý lịch tư pháp
1.2. Quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan đến yêu cầu cấp Phiếu
lý lịch tư pháp.
2. Đánh giá việc áp dụng pháp luật về lý lịch tư pháp trong thời gian qua
III. NHỮNG YÊU CẦU KHÁCH QUAN XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ
PHÁP
PH
ẦN THỨ BA. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP
1. Quán triệt và kịp thời thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về lý lịch tư pháp
2. Bảo đảm tính pháp chế, thống nhất giữa các quy định của Luật Lý lịch tư
pháp với các quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác của
Qu
ốc hội
3. Kế thừa những thành tựu đạt được trong thực tiễn về tổ chức và quản lý lý
lịch tư pháp, có tham khảo pháp luật về lý lịch tư pháp và kinh nghiệm của nước
ngoài
II. ĐỀ XUẤT VỀ PHẠM VI QUẢN LÝ, ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ
PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP
1. Phạm vi quản lý lý lịch tư pháp:
2. Đố
i tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật Lý lịch tư pháp
2.1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật Lý lịch tư pháp:
2.2. Khái niệm lý lịch tư pháp
2.3. Đối tượng quản lý của lý lịch tư pháp:
31


31

31

33

34


35

35
36

39

43

45


50

50

50


51




52




53

53

57

57

57

57


6
3. nh hng mụ hỡnh t chc, qun lý lý lch t phỏp
4. C ch cp nht v cung cp thụng tin v lý lch t phỏp
4.1. C ch cp nht v cung cp thụng tin:
4.2. Cung cp thụng tin v lý lch t phỏp
4.3. Cỏch thc cung cp thụng tin v lý lch t phỏp:
4.4. Lu tr thụng tin v lý lch t phỏp:
4.5. Ghi chộp v x lý thụng tin
4.5.1. Loi b thụng tin lý lch t phỏp ca ngi ó cht.

4.5.2. Loi b thụng tin lý l
ch t phỏp ghi nhn mt ti phm ó c lut
xoỏ b.
5. Cp Phiu lý lch t phỏp
58

60

60

62

63

65

66

66


66

XUT NI DUNG C BN CA D THO LUT Lí LCH T PHP

69


Phần II
các chuyên Đề NGHIấN CU



80
1

Một số vấn đề chung về lý lịch t pháp
Ban chủ nhiệm Đề tài
81
2
Lịch sử và thực trạng quản lý lý lịch t pháp ở nớc ta và những yêu cầu
khách quan xây dựng Luật lý lịch t pháp
TS. Trần Thất, Vụ trởng Vụ Hành chính t pháp, Bộ T pháp
88
3
Hệ thống pháp luật về lý lịch t pháp và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
Nguyễn Thị Minh Phơng - Vụ Hành chính t pháp, Bộ T pháp
100
4
Lý lịch t pháp trong với công tác xét xử của Toà án nhân dân
Hoàng Ngọc Thành - Toà án nhân dân tối cao
114
5
Thực trạng công tác tàng th nghiệp vụ cảnh sát của ngành công an và kiến
nghị xây dựng hệ cơ sở dữ liệu lý lịch t pháp
Hoàng Quyền Môn - Cục hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an
128
6
Thực tiễn công tác cấp Phiếu lý lịch t pháp tại thành phố Hồ Chí Minh
Th.s Trịnh Thị Bích - Sở T pháp thành phố Hồ Chí Minh
142


7
7
Sự cần thiết ban hành Luật lý lịch t pháp
Th.s Phạm Trọng Cờng - Vụ Hành chính t pháp, Bộ T pháp
149
8
Đề xuất mô hình tổ chức và quản lý lý lịch t pháp tại Việt Nam
Đỗ Thị Thuý Lan - Vụ Hành chính t pháp, Bộ T pháp
158
9
Cơ chế cập nhật và cung cấp thông tin về lý lịch t pháp trách nhiệm của
các cơ quan hữu quan trong việc cung cấp và khai thác thông tin về lý lịch t
pháp
Dơng Bạch Long - Viện Khoa học pháp lý, Bộ T pháp
167
10
Mô hình tổ chức và quản lý lý lịch t pháp của một số nớc trên thế giới
kinh nghiệm áp dụng vào Việt Nam để xây dựng Luật lý lịch t pháp
Đặng Trung Hà - Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ T pháp
183




8
PHẦN MỞ ĐẦU
Công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc triển khai thực hiện chủ trương này

được đánh dấu bằng Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung
ương 3 và Nghị quyết trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết đại hội Đảng lần
thứ IX, X và
đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW này 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Thực hi
ện Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-
NQ/TW, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật đã được đặc biệt chú
trọng, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân.
1) Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lý lịch tư pháp là "bộ nhớ" về các án tích của những cá nhân đã từng
can án hình sự. Trong sự đổi mới và phát triển của nước ta hi
ện nay, hoạt
động quản lý lý lịch tư pháp có vai trò rất quan trọng không chỉ trong công
tác điều tra, truy tố, xét xử và hoạch định chính sách phòng, chống tội phạm
mà còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động quản lý trật tự xã hội, quản lý con
người của Nhà nước ta được chặt chẽ, hiệu quả. Mặt khác, lý lịch tư pháp
còn là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, th
ực tiễn hoạt động quản lý trên lĩnh vực này đã và đang
bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế cơ bản sau:
- Thứ nhất, chúng ta chưa có một tổ chức tập trung thống nhất trực
tiếp quản lý lý lịch tư pháp. Hiện nay do yêu cầu cụ thể của từng ngành mà
thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp đang bị phân tán ở nhiều cơ quan
khác nhau: Toà án, Ki
ểm sát, Công an nhưng không có một cơ quan nào
quản lý đầy đủ các thông tin này.

- Thứ hai, hoạt động quản lý lý lịch tư pháp hiện nay chưa đảm bảo
được mục đích cơ bản và chủ yếu là nhằm hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và
quản lý nhà nước. Đây được coi là mục tiêu cơ bản, quan trọng hàng đầu của
hoạt động quản lý lý lịch tư pháp. Việc cấp Phiế
u lý lịch tư pháp hiện nay
theo quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT/BTP-BCA của Bộ Tư
pháp – Bộ Công an ngày 08/02/1999 chỉ là một phần công việc của quản lý
lý lịch tư pháp. Về phương diện quản lý nhà nước, việc tổ chức và quản lý lý
lịch tư pháp là rất cần thiết. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, hệ thống hình
phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều hình phạ
t mà người phạm tội

9
không bị giam giữ nhưng cần được theo dõi, quản lý chặt chẽ (ví dụ: cải tạo
không giam giữ, quản chế…), nhưng hiện nay chúng ta chưa có cơ chế chặt
chẽ nhằm quản lý, theo dõi các đối tượng này.
- Thứ ba, lý lịch tư pháp là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo
quy định của pháp luật. Xóa án tích là một chính sách thể hiện tính nhân đạo
sâu sắc của Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay, việc thực hiện chính sách này
ch
ưa thực sự được coi trọng.
Nguyên nhân cơ bản của những khó khăn, tồn tại nêu trên là do chưa
có cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động quản lý lý lịch tư pháp. Việc ban
hành Thông tư liên tịch số 07 nói trên mới chỉ có tính chất giải pháp tình thế,
tạm thời. Để giải quyết vấn đề này, việc ban hành văn bản pháp lý có giá trị
cao như Luật, Pháp lệnh là hết sức cần thi
ết.
Tại Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/11/2004 của Quốc hội về
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005, Pháp lệnh lý lịch tư pháp
đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005 (chương

trình chính thức). Tuy nhiên, để bảo đảm tính pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tại Nghị quyết số 49/2005/QH11 ngày 11/9/2005 của Quốc hội, Dự án Pháp
lệnh lý lịch tư pháp đã được quyết
định nâng lên thành Luật lý lịch tư pháp
và được đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội
nhiệm kỳ khóa XI (2002-2007). Để triển khai Nghị quyết nêu trên, ngày
11/01/2006 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số
987/2006/NQ-UBTVQH11, theo đó Dự án Luật lý lịch tư pháp được đưa vào
Chương trình chuẩn bị của năm 2006.
Theo Quyết định số 71/QĐ-BTP ngày 01/02/2005 của Bộ trưởng Bộ
T
ư pháp về việc ban hành Kế hoạch nghiên cứu khoa học, công nghệ của Bộ
Tư pháp năm 2005, thì Đề tài khoa học cấp Bộ "Cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng Pháp lệnh Lý lịch tư pháp” được triển khai nghiên cứu từ tháng
4/2005. Tuy nhiên trong bối cảnh để tạo tiền đề cho việc triển khai xây dựng
Luật lý lịch tư pháp theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006,
Ban chủ nhiệ
m Đề tài đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu "Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng Luật Lý lịch tư pháp”.
2) Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài được xác định là: "Hình thành cơ sở lý luận và
thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng Luật lý lịch tư pháp như: khái niệm, ý
nghĩa, vai trò của lý lịch tư pháp trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; sự

cần thiết, cấp bách phải xây dựng Luật lý lịch tư pháp.

Đưa ra các kiến nghị làm cơ sở cho việc xây dựng Luật: đối tượng,
phạm vi điều chỉnh, bố cục của Luật; mô hình tổ chức, quản lý lý lịch tư
pháp, cơ chế cập nhật thông tin và cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp".


10
3) Phương pháp nghiên cứu của Đề tài
Việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, hệ quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Các
phương pháp nghiên cứu khoa học sẽ được áp dụng một cách linh hoạt trong
quá trình tiếp cận từng nội dung nghiên cứu cụ thể như so sánh, thống kê,
phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học…
Các phương pháp nghiên cứu c
ụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu tại chỗ, gồm có: Nghiên cứu các văn bản,
các quy định pháp luật, thông tin, tư liệu về lý lịch tư pháp;
- Tiến hành khảo sát trực tiếp ở một số địa phương về công tác quản lý
và cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo Thông tư liên tịch số 07;
- Tổ chức tọa đàm khoa học với quy mô thích hợp để đánh giá, tổng kết
tình hình và xác định đị
nh hướng nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Đề tài.
4) Nhu cầu kinh tế - xã hội, địa chỉ áp dụng
Đề tài nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của các cơ quan nhà nước,
người làm công tác soạn thảo, xây dựng pháp luật về lý lịch tư pháp, đặc biệt
là những người trực tiếp tham gia soạn thảo, góp ý, thẩm định, thẩm tra Dự
án Luật lý lịch tư pháp và các nhà nghiên cứu lý luận, các nhà lập pháp
trong việc xây dự
ng pháp luât về lý lịch tư pháp.
Đề tài cũng là nguồn tham khảo hữu ích đối với những người làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các học viện, trường đại học về pháp
luật lý lịch tư pháp và các nhà hoạt động thực tiễn cũng như mọi đối tượng
có nhu cầu tìm hiểu sâu về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
xây dựng và hoàn thiện pháp lu
ật về lý lịch tư pháp.
5) Các nội dung nghiên cứu chính của Đề tài

Đề tài sẽ tập trung làm rõ các vấn đề chủ yếu như: Lý thuyết về lý lịch
tư pháp, kinh nghiệm quản lý lịch tư pháp của một số nước trên thế giới, lịch
sử và thực trạng quản lý lý lịch tư pháp ở nước ta và những yêu cầu khách
quan phải xây dựng Luật lý lịch tư pháp; định hướng xây dự
ng Luật lý lịch tư
pháp; đề xuất phạm vi quản lý, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật lý
lịch tư pháp; mô hình tổ chức, cơ chế cập nhật, xử lý và cung cấp thông tin
về lý lịch tư pháp, giá trị pháp lý của thông tin về lý lịch tư pháp.
Sau đây là nội dung tổng thuật kết quả nghiên cứu của Đề tài.




11








PHÇN I



BÁO CÁO TỔNG THUẬT
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI










12
PHẦN THỨ NHẤT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN XÂY DỰNG
LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

I. KHÁI NIỆM LÝ LỊCH TƯ PHÁP
1. Khái niệm lý lịch tư pháp:
Thông thường để tìm hiểu nội dung một khái niệm, trước hết chúng ta
tiếp cận ngay với nội dung ngữ nghĩa của các từ dùng để biểu đạt khái niệm
đó. Sau đó, để hiểu một cách đầy đủ, cụ thể
và sâu sắc hơn, người ta không
chỉ dừng lại ở nội dung ngữ nghĩa mà phải tìm hiểu, nghiên cứu những nội
dung thực tế, cụ thể được khát quát, phản ánh trong khái niệm.
Theo cách vừa nêu trên, trước hết chúng ta hãy tiếp cận với khái niệm
“lý lịch tư pháp” bằng chính các từ ngữ biểu đạt khái niệm này. Có thể phân
tích khái niệm “lý lịch tư pháp” thành các nội dung cơ bản sau đây:
- Nói đến lý lị
ch bao giờ cũng gắn với một đối tượng cụ thể. Đối tượng
cụ thể ở đây trước hết và phổ biến là những cá nhân. Đối tượng cụ thể cũng
có thể là một tổ chức. Ví dụ: một doanh nghiệp, một tổ chức chính trị xã
hội (nếu như quan niệm quản lý lý lịch tư pháp của cả các tổ chức).
- Lý l
ịch thường được hiểu là ghi chép lại (thường dưới dạng một hồ sơ)

những sự kiện chủ yếu trong quá khứ và hiện tại của một đối tượng.
- Lý lịch tư pháp chỉ ghi chép những sự kiện quan hệ đến đối tượng mà
những sự kiện đó có ý nghĩa về mặt tư pháp. Vấn đề đặt ra là hiểu thế nào về
nh
ững sự kiện có ý nghĩa về mặt tư pháp? Điều này lại tùy thuộc vào mục
đích, phạm vi và nội dung quản lý lý lịch tư pháp của từng quốc gia.
Để tìm hiểu khái niệm lý lịch tư pháp một cách đầy đủ và cụ thể hơn,
chúng ta hãy nghiên cứu khái niệm này ở một số nước trên thế giới.
Thuật ngữ "lý lịch tư pháp" không phải được sử dụng một cách giố
ng
nhau ở các nước khác nhau. Nhưng có thể nói rằng trong các thuật ngữ khác
nhau theo cách gọi của mỗi nước đều hàm chứa những nội dung tương tự. Ví
dụ: trong tiếng Anh có từ "crimimal record", trong tiếng Đức có từ
"strafregister", trong tiếng Tây Ban Nha có từ "registro de penados", trong
tiếng Italia có từ "casellario giudiziale".
Thuật ngữ "casier judiciaire" trong tiếng Pháp (được dịch là lý lịch tư
pháp) có lẽ xuất hiện ở Pháp sớm nhất cách đây chừng 150 năm. Trong tiếng

13
Pháp từ “casier” có nghĩa là cái tủ hoặc cái giá nhiều ngăn. Bản thân từ
“casier” trong tiếng Pháp là muốn diễn tả hoạt động, nội dung công việc của
thiết chế lý lịch tư pháp là sắp xếp, phân bổ ra nhiều ngăn khác nhau. Thuật
ngữ thứ hai “judiciaire” có nghĩa là tư pháp. Như vậy, theo cách gọi của tiếng
Pháp từ "casier judiciaire" gợi cho ta hình dung về những ngăn tủ có chứa
đựng những hồ sơ (những t
ập fiche) về tư pháp. Nói một cách hình ảnh đó là
bộ nhớ về án tích của những người đã từng can án.
Việc ghi nhớ án tích của những kẻ phạm tội không phải chỉ có trong
luật hình của thế giới hiện đại và chỉ lưu giữ bằng các phiếu (fiche) của lý
lịch tư pháp. Ngay từ thời trung cổ, luật hình của nhiều nước đã quy định việc

ghi nhớ án tích c
ủa kẻ phạm tội bằng cách thích chữ vào mặt hoặc chặt các
ngón tay, ngón chân hoặc cắt tai của kẻ phạm tội, tuỳ theo từng loại tội. Hình
thức thích chữ vào mặt thường được áp dụng đối với tội đại hình với hình
phạt lưu đày. Trong trường hợp này việc thích chữ vào mặt có ý nghĩa để
đánh dấu nhiều hơn là hình phạt. Còn hình thức chặt ngón tay, ngón chân
thường đượ
c áp dụng đối với loại tội như trộm cắp. Hình phạt này vừa có ý
nghĩa là hình phạt vừa có ý nghĩa là để ghi nhớ án tích của kẻ phạm tội.
Lý lịch tư pháp thành văn (được ghi và quản lý bằng văn bản) ra đời
thay thế cho hình thức đánh dấu, ghi nhớ tội phạm như trên của thời trung cổ.
Lý lịch tư pháp thành văn có những ưu điểm nổi b
ật sau:
- Lý lịch tư pháp thành văn không làm đau đớn và nhục nhã thân thể
của can phạm.
- Trong lý lịch tư pháp thành văn có thể cho ta biết một cách đầy đủ,
chi tiết về can phạm như: họ tên, tuổi, nơi sinh, nơi cư trú, quan hệ thân thích,
tội danh, hình phạt, Toà án đã xét xử, thời gian thi hành hình phạt, can phạm
đã có bao nhiêu tiền án Những thông tin này là hết sức cần thiết không
những đối với công tác tư pháp (bao gồ
m cả điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án), mà đối với cả công tác quản lý hành chính nhà nước và quản lý xã
hội.
Lý lịch tư pháp thành văn phổ biến nhất lúc đầu và ngày nay vẫn còn
được áp dụng ở một số nước, đó là hình thức Sổ bộ ghi chép các bản án mà
Toà án đã tuyên hàng năm. Căn cứ vào sổ bộ của Toà án, người ta có thể truy
tìm được án tích của một người nào đó. Tuy nhiên hình thức sổ bộ
vẫn còn
những điểm hạn chế cơ bản.
Thứ nhất, sổ bộ là cuốn sổ chung trong đó ghi chép án tích của nhiều

người hơn nữa sổ bộ lại thay đổi theo hàng năm. Do đó, khi muốn tra cứu án
tích của một người nào đó, ta phải lần tìm, tra cứu trong tất cả những quyển

14
sổ bộ xem người đó có án tích không. Điều đó lại càng khó khăn hơn khi can
phạm thay đổi chỗ ở dẫn tới việc thay đổi Toà án có thẩm quyền xét xử.
Thứ hai, thường sổ bộ chỉ ghi chép được những thông tin ban đầu (tức
là những bản án, quyết định ban đầu của Toà án mà không ghi nhận được
những thông tin bổ sung như: các quyết định về ân xá, xóa án, tổng hợp hình
phạt c
ủa nhiều bản án Do đó, những thông tin trong sổ bộ không phản ánh
được diễn biến của can phạm sau khi kết thúc trình tự tố tụng. Mặt khác
những thông tin về tiền án, tiền sự không những chỉ cần đối với cơ quan toà
án mà nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp cũng
cần biết những thông tin này ở những mức độ khác nhau để phục vụ cho công
tác quản lý, tổ chức nhân sự của cơ quan mình.
Để khắc phục những nhược điểm nói trên của hình thức sổ bộ hồ sơ, lý
lịch tư pháp theo kiểu “casier judiciaire” ra đời theo sáng kiến của một vị
thẩm phán người Pháp. Đặc điểm của lý lịch tư pháp theo kiểu “casier
judiciaire” là việc lập ra 3 loại phiếu (số 1, số 2, số 3) về tiền án, tiền sự đối
v
ới từng cá nhân. Nội dung thông tin ghi chép trong mỗi loại phiếu được
pháp luật quy định một cách cụ thể. Lý lịch tư pháp theo kiểu “casier
judiciaire” là hình thức cải tiến nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng
phong phú, đa đạng, tỷ mỷ, chặt chẽ của hoạt động tư pháp và hoạt động
quản lý.
Như vậy, lý lịch tư pháp được hiểu một cách chung nhất, khái quát nhất
là hồ sơ về
phương diện tư pháp của một đối tượng cụ thể. Định nghĩa này tuy
còn rất chung chung nhưng có tác dụng định hướng, khoanh vùng giới hạn để

chúng ta đi sâu tìm hiểu, xác định những nội dung cụ thể của lý lịch tư pháp để
từ đó đến một định nghĩa toàn diện hơn, cụ thể hơn.
2. Phân biệt lý lịch tư pháp với hồ sơ căn c
ước can phạm
Lý lịch tư pháp (casier judiciaire) và căn cước can phạm (jiche de
renscignement) là hai loại hồ sơ chủ yếu tạo thành hồ sơ hình sự của một cá
nhân. Hai loại hồ sơ này có những nội dung trùng nhau nhưng không phải là
một và không thể thay thế cho nhau. Để làm rõ sự khác nhau về nội dung và
ý nghĩa của hai loại hồ sơ này, chúng tôi xin trình bày sơ bộ nội dung của căn
cước can phạm.
Căn cước can phạm là m
ột loại hồ sơ phục vụ cho công tác điều tra.
Thông thường ở nhiều nước, hồ sơ này do cơ quan cảnh sát tư pháp lập và
quản lý. Khi có một người nào đó bị bắt, cơ quan cảnh sát tiến hành lập căn
cước của người đó. Trong căn cước gồm có: họ tên, ngày, tháng, năm sinh,

15
nơi sinh, nơi cư trú; họ tên của cha, mẹ, vợ (chồng), con; nơi bị bắt, ngày
tháng năm bị bắt, lý do bị bắt (gọi là danh bản). Đồng thời, cảnh sát tiến
hành lấy điểm chỉ vân tay gồm 10 ngón tay và cả hai bàn tay của đương sự
(gọi là chỉ bản). Những thông tin trên đây được lưu tại cơ quan cảnh sát và
lập thành hồ sơ căn cước can phạm của
đối tượng. Trong hồ sơ căn cước can
phạm còn ghi lại toàn bộ tiền án (kể cả những bản án đã được xoá án tích) và
tiền sự của đương sự. Hồ sơ căn cước can phạm với những nội dung như trên
có giá trị cung cấp thông tin về đương sự cho cơ quan điều tra. Nhưng đối với
Toà án, nó chỉ có giá trị tham khảo để hiểu rõ nhân thân bị cáo. Hồ sơ
này về
nguyên tắc không cung cấp cho bất kỳ ai ngoài cơ quan điều tra, truy tố và
xét xử.

So sánh nội dung của lý lịch tư pháp và nội dung của hồ sơ căn cước can
phạm, ta thấy có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
- Lý lịch tư pháp ghi chép không chỉ những vấn đề thuộc phạm vi hình
sự như hồ sơ căn cước can phạm;
- Trong lý lịch tư pháp (phần v
ề hình sự) không ghi toàn bộ các tiền án
và tiền sự như hồ sơ căn cước can phạm. Đối với các bản án, lý lịch tư pháp
chỉ ghi những bản án đã thành nhất định (không còn bị kháng cáo, kháng
nghị). Trong khi đó, hồ sơ căn cước can phạm ghi nhận tất cả án sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm (nếu có).
- Trong trường hợp án đã được xoá theo quy định của luật hình sự v
ề xoá
án tích thì trong lý lịch tư pháp cấp cho đương sự không ghi án đó. Còn trong hồ
sơ căn cước can phạm, án đã được xoá không làm thay đổi hồ sơ.
- Hồ sơ căn cước can phạm, như đã nói ở trên là loại hồ sơ của cơ quan
điều tra, phục vụ cho công tác điều tra. Vì vậy, nó được xếp vào loại tài liệu
mật, không được cung cấp cho bất kỳ cơ quan, tổ chứ
c hoặc cá nhân nào - kể
cả chính bản thân đương sự (trừ một số cơ quan chức năng được quyền biết
như đã nói ở trên). Trong khi đó, lý lịch tư pháp được cấp tương đối rộng rãi
cho đương sự, các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác khi họ có lý do chính
đáng cần được biết về tình trạng tiền án của đương sự.
II. PHẠM VI QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP
Đây là vấn
đề có ý nghĩa rất quan trọng quyết định toàn bộ nội dung,
quy mô, cơ chế quản lý lý lịch tư pháp của mỗi quốc gia. Xét về mặt lịch sử
thì phạm vi và nội dung của lý lịch tư pháp lúc đầu chỉ là những vấn đề mang
tính chất thuần túy hình sự (tức là những án hình). Về sau này, do sự phát
triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên phạm vi quản lý lý


16
lịch tư pháp cũng được mở rộng ra các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình,
thương mại, hành chính… Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc
vào ý chí của mỗi quốc gia và xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, xã hội
và cách làm của mỗi nước. Tuy nhiên, dù mở rộng hay thu hẹp phạm vi này
thì nội dung chủ yếu của lý lịch tư pháp vẫn là những vấn đề về hình sự
(chẳ
ng hạn ở Cộng hoà Pháp hiện nay có 90% thông tin được đưa vào lý lịch
tư pháp là thuộc hình sự
1
). Tuy vậy, ngay cả trong phạm vi hình sự vấn đề lại
được đặt ra ở hai cấp độ tiền án và tiền sự. Ở một số nước theo hình thức sổ
bộ của Toà án thì chỉ ghi nhớ các tiền án của đương sự. Ở Cộng hoà Pháp - là
nước có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp độc lập và hoàn chỉnh nên có ghi
nhớ cả những tiền sự. Tuy nhiên, khái niệm tiền sự trong nhiề
u trường hợp
rất khó định lượng. Hành vi vi phạm nào chưa đến mức bị kết án có thể coi là
tiền sự? Vấn đề này phải được quy định trong văn bản pháp luật. Thông
thường đó là những hành vi tuy chưa đến mức bị kết án nhưng bản thân nó có
ý nghĩa để đánh giá về quá khứ nhân thân của đương sự. Ví dụ: một người đã
có hành vi phạm tội nhưng đượ
c miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình
phạt thì hành vi đó có thể được ghi nhớ vào lý lịch tư pháp. Việc mở rộng
phạm vi của lý lịch tư pháp ra các lĩnh vực ngoài hình sự thường là những
vấn đề liên quan đến việc cấm một số quyền nào đó đối với đương sự. Chẳng
hạn việc cấm có thời hạn hoặc vô thời hạn quyền kinh doanh của m
ột người
nào đó, hoặc việc tước quyền bầu cử hoặc ứng cử vào cơ quan công quyền,
việc tước một số quyền làm cha, mẹ, lệnh trục xuất người nước ngoài… Tất
cả những chế tài này cần phải được đưa vào "bộ nhớ" của lý lịch tư pháp để

giám sát việc thực hiện. Thực ra việc phân loại thông tin theo lĩnh vực hình
sự, dân s
ự, hành chính, thương mại… cũng chỉ mang tính chất tương đối. Nó
không phải là một nguyên tắc.
Để xác định rõ nội dung nào cần được ghi nhớ trong lý lịch tư pháp,
thông thường pháp luật của một số nước trong khi quy định các chế tài (ngoài
hình sự) đồng thời cũng chỉ rõ việc đó có được ghi vào lý lịch tư pháp hay
không. Còn trong các chế định của luật hình sự, tố tụng hình sự đều quy định
những ti
ền án, tiền sự nào được ghi vào lý lịch tư pháp. Hơn nữa, các Toà án
khi đưa ra các bản án, quyết định về một vụ việc cụ thể cũng nêu rõ trong bản
án hoặc quyết định đó việc được miễn hay phải ghi vào lý lịch tư pháp.
Ngoài cách phân loại thông tin theo lĩnh vực nói trên người ta còn phân
loại theo thông tin ban đầu và thông tin bổ sung. Thông tin ban đầu là những
bản án hay quyết định ban đầu về một vụ việc cụ th
ể. Chẳng hạn, mỗi người bị
Toà án phạt tù về một tội nào đó thì bản án này sẽ được gửi cho cơ quan lý lịch

1
Lý lịch tư pháp – NXB Chính trị Quốc gia, HN năm 1997 (tr 20)

17
tư pháp để ghi nhớ bản án đó. Nếu trong bản án này có cả hình phạt bổ sung
như phạt tiền hoặc quản chế sau khi mãn hạn tù… thì những thông tin này
cũng là loại thông tin ban đầu. Thông tin bổ sung là loại thông tin phản ánh
diễn biến về sau của vụ việc. Ví dụ: trong quá trình thi hành án phạt tù, đương
sự lại được hưởng ân xá thì quyết định về ân xá đối với đương sự cũng được
gửi cho cơ
quan lý lịch tư pháp vì vấn đề này có liên quan đến việc xoá án tích
trong lý lịch tư pháp của đương sự. Việc tiếp nhận các thông tin bổ sung vào lý

lịch tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng nhưng thông thường nó hay bị lãng quên
hoặc cập nhật không đầy đủ.
III. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ LÝ LỊCH
TƯ PHÁP
Lý lịch tư pháp như đã nêu ở trên, có thể được hiểu là hồ sơ về phương
diện tư pháp của mỗi cá nhân (thậm chí cả tổ chức) nhưng nó có ý nghĩa
không chỉ trong lĩnh vực công tác tư pháp mà cả trong nhiều lĩnh vực quản lý
khác. Sau đây, chúng tôi xin đề cập đến một số khía cạnh tiêu biểu:
Thứ nhất, lý lịch tư pháp là nguồn cung cấp những tư liệu chính thức
về quá khứ nhân thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố và xét xử

xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với họ trong khi giải quyết
những vụ việc cụ thể. Xét theo góc độ này thì những tình tiết mà cơ quan lý
lịch tư pháp cung cấp có giá trị chứng cứ về tái phạm hay không tái phạm. Lý
lịch tư pháp được sử dụng như một công cụ hữu ích để xác định về nhân thân
con người. Một người chưa có tiền án, tiền sự khi phạ
m tội thì khác hẳn một
người đã bị kết án mà chưa được xoá án tích. Chính vì vậy, ở các nước có hệ
thống quản lý lý lịch tư pháp, khi Viện công tố chuẩn bị truy tố một bị can
nào đó thường phải gửi một phiếu yêu cầu đến cơ quan quản lý lý lịch tư
pháp để yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp nhằm xác nhận về tình trạng tiền
án củ
a bị can và trong hồ sơ truy tố có kèm theo cả Phiếu lý lịch tư pháp đó
để làm bằng chứng về tái phạm.
Có thể nói, ở Việt Nam, lý lịch tư pháp có ý nghĩa quyết định trong
việc xác định bị cáo có tội hay không có tội. Trong công tác xét xử các vụ án
hình sự, việc xác định nhân thân của một con người có ý nghĩa rất quan trọng
khi Toà án quyết định một người là có tội hay không có tội, bởi vì có nhiều
điều lu
ật của Bộ luật Hình sự quy định điều kiện bắt buộc để một hành vi cấu

thành tội phạm là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi ” hay “đã
bị kết án về tội ”. Để thực hiện tốt công tác xét xử và tránh những sai sót
không đáng có, thì việc kiểm tra hồ sơ giấy tờ nhằm xác định nhân thân của
bị can, bị cáo có ý nghĩa hết sứ
c quan trọng. Nếu hồ sơ vụ án mà các giấy tờ,

18
tài liệu được sử dụng làm chứng cứ xác định nhân thân của bị can, bị cáo
không đầy đủ, thì thông thường, thẩm phán chủ tọa phiên toà thường áp dụng
quy định tại Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự để ra quyết định trả hồ sơ cho
Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung. Trong những trường hợp, các tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ vụ án có mâu thu
ẫn với nhau, nếu cơ quan quản lý lý
lịch tư pháp có kết luận chính xác về nhân thân một con người, thì Toà án có
thể yêu cầu cơ quan này cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo cho
Toà án để phục vụ cho công tác xét xử vụ án mà không cần ra quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung. Chính vì vậy, nếu tổ chức tốt hệ thống quản lý lý lịch
tư pháp sẽ giúp rất nhi
ều cho các cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra,
truy tố và xét xử.
Thứ hai, lý lịch tư pháp giúp cho công tác thi hành án thực hiện một
cách đầy đủ, chính xác các bản án và quyết định của Toà án. Một đặc điểm
của công tác thi hành án của ta hiện nay là chưa có một cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quản lý toàn bộ việc thi hành tất cả các bản án và quyết định của
Toà án. Thẩm quyền này được giao cho các cơ quan khác nhau. Cụ thể là:
- Hình phạt trục xuất, phạt tù có thời hạn, tù chung thân do cơ quan
công an đảm nhiệm;
- Việc thi hành án phạt tiền hoặc tịch thu tài sản (trong hình sự) do cơ
quan thi hành án dân sự thi hành. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên trong việc thi hành án;

trong trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thì cơ quan công an và
các cơ quan hữu quan khác có nhiệm vụ phối hợp;
- Hình phạt tù cho hưởng án treo; cả
i tạo không giam giữ cũng như các
hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân,
cấm đảm nhiệm một số chức vụ hoặc cấm làm một số nghề được giao cho Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức, nơi người bị kết án
cư trú hoặc nơi thi hành án đảm nhiệm.
- Việc thi hành quyết đị
nh và bắt buộc chữa bệnh do các cơ sở chuyên
khoa y tế thi hành.
- Việc thi hành các bản án về quyết định của Toà án quân sự do các tổ
chức trong quân đội đảm nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.
- Người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ
cư trú hoặc làm việc quản lý.

19
Việc quy định nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án như
vậy là xuất phát từ những đặc thù của từng loại án nhưng cũng có điều bất
tiện là không có một cơ quan thống nhất giám sát chung. Trong trường hợp
này vai trò của quản lý lý lịch tư pháp là rất cần thiết để giúp cho việc kiểm
tra, giám sát của các cơ quan tổ chức nói trên đối với người thụ án. Mặt khác,
thông tin của lý lịch tư pháp còn giúp cho các cơ quan thi hành án biết rõ
được quá khứ nhân thân của người thụ án, những đặc điểm phạm tội của
họ… để có biện pháp giáo dục cải tạo họ một cách thích hợp. Chính vì lý lịch
tư pháp có mối quan hệ mật thiết với công tác thi hành án như vậy nên ở một
số nước quan niệm cho rằng công tác quản lý lý lịch tư pháp như là một bộ
phận c
ủa công tác thi hành án.

Thứ ba, lý lịch tư pháp là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế … xem xét đạo đức
tư cách của công dân trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể. Những thông
tin trong lý lịch tư pháp của công dân tuy chưa phải là toàn bộ những gì cần
thiết để đánh giá đạo đức tư cách của một công dân nhưng đó là những thông
tin quan tr
ọng, cơ bản nhất không thể thiếu được. Nếu một công dân có nhiều
tiền án thể hiện trong lý lịch tư pháp thì không ai có thể đánh giá họ là công
dân gương mẫu. Ngược lại, một người có lý lịch tư pháp trong sạch thì không
ai có thể nhận xét người đó là công dân tồi. Chính vì vậy, ở nhiều nước trên
thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây, cũng đưa ra những quy
định pháp luậ
t về việc công dân phải xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp trong
khi làm các thủ tục như:
- Xin được tuyển dụng vào làm công chức Nhà nước;
- Xin ký hợp đồng lao động với các cơ quan, doanh nghiệp;
- Xin phép thành lập doanh nghịêp;
- Xin nhận con nuôi hoặc giám hộ;
- Xin nhập cảnh, định cư…
Hoặc bản thân cơ quan nhà nước phải tự kiểm tra lý lịch tư pháp của
công dân trong khi giải quyết các việc như: lập danh sách các cử tri và danh
sách các ứng cử viên vào các cơ quan công quyền, gọi công dân nhập ngũ…
Thứ tư, lý lịch tư pháp là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy
định của pháp luật hình sự. Xoá án tích (đương nhiên được xoá án hoặc do
Toà án quyết định) là một loại chế định hầu như pháp luật nước nào cũng có.
Chế định này có ý nghĩa trước hết là về mặt pháp lý. Bởi vì, nguyên tắc pháp
lý cơ bản nhất của chế
định xoá án tích là ở chỗ: người được xoá án tích được

20

coi như chưa can án. Điều này có nghĩa là cơ quan quản lý lý lịch tư pháp
trong khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp của công dân không được tính đến những
án trước đây tuy công dân đã phạm nhưng đã được hưởng chế độ xoá án tích.
IV. MÔ HÌNH QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1. Quản lý lý lịch tư pháp của Cộng hoà Pháp
Lý lịch tư pháp, theo quan niệm của Pháp trước hết là m
ột tập phiếu lý
lịch tư pháp ghi nhận về những người bị kết án. Mục đích chính của lý lịch tư
pháp là chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại các tiền án của một người.
Tại Pháp, cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia chịu sự quản lý trực tiếp của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thuộc Vụ pháp luật hình sự và ân xá nhưng cơ quan
lý lịch t
ư pháp hoạt động một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Các thông tin được ghi nhận vào lý lịch tư pháp được quy định tại Bộ
luật Tố tụng hình sự bao gồm: quyết định ban đầu; các quyết định bổ sung,
sửa đổi hoặc xoá bỏ chúng. Ngoài ra pháp luật Pháp còn quy định những
thông tin khác cũng được ghi nhận vào lý lịch tư pháp như: bản án, quyết
định của cơ quan có thẩm quyền của nướ
c ngoài, các quyết định của cơ quan
hành chính đặc thù Tuy nhiên, các thông tin được ghi vào lý lịch tư pháp tại
Pháp vẫn chủ yếu là những thông tin về hình sự - là những bản án do Toà án
hình sự tuyên (90%).
Lý lịch tư pháp được lập ra trước hết nhằm phục vụ cho cơ quan tư
pháp. Ngoài ra, các cơ quan hành chính nhà nước và các cá nhân cũng có
quyền yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào cơ
quan yêu cầu mà có thể xin cấp loại Phiếu lý lị
ch tư pháp tương ứng. Cơ quan
lý lịch tư pháp quốc gia Pháp có quyền cung cấp 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp
sau:

- Phiếu số 1 chỉ được cấp cho cơ quan tư pháp, theo yêu cầu của thẩm
phán xét xử hay Viện công tố. Phiếu số 1 ghi lại toàn bộ các quyết định của Toà
án liên quan đến đương sự. Các cơ quan tư pháp có thể sử dụng phiếu này trong
tất cả các giai đoạn tố t
ụng. Đối với các cơ quan tư pháp, phiếu số 1 là nguồn
thông tin quan trọng về nhân thân của đương sự.
- Phiếu số 2 chủ yếu được cấp cho các cơ quan hành chính nhà nước.
Phiếu số 2 là bản trích lại thông tin từ phiếu số 1. Những xử phạt vi phạm
hành chính, những án tích nhẹ nhất và những bản án được tuyên đối với trẻ vị
thành niên thì không được ghi lại trên phiếu số 2. Phiếu số 2 giúp cho các c
ơ
quan quản lý hành chính tìm hiểu để tuyển dụng người làm việc hoặc giải

21
quyết các thủ tục khác như: xin phép kinh doanh, gọi nhập ngũ, lập danh sách
cử tri Nhưng không phải bất kỳ cơ quan hành chính nào cũng có thể yêu
cầu cấp Phiếu số 2. Khi gửi phiếu yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp
Phiếu số 2, phải nêu rõ lý do và căn cứ điều luật nào để được quyền yêu cầu.
- Phiếu số 3 là Phiếu được cấp cho chính đương sự khi có yêu cầu.
Trong Phiếu số 3 chỉ ghi lại những án tích chưa được xoá nhưng không phải
bất kỳ án tích nào chưa được xoá cũng đều ghi vào. Thông thường chỉ những
án nghiêm trọng hoặc tuy không nghiêm trọng những án tích đó lại trực tiếp
liên quan đến mục đích của việc xin phiếu số 3 sẽ được ghi vào Phiếu. Đương
sự có thể trực tiếp đến hoặc gửi thư yêu cầu qua bưu đi
ện tới cơ quan lý lịch
tư pháp quốc gia để xin cấp phiếu số 3. Phiếu số 3 chỉ cấp cho chính bản thân
đương sự, không cho phép cấp qua người thứ ba và được miễn phí.
2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản
Tại Nhật Bản, lý lịch tư pháp là lý lịch phạm tội của từng cá nhân, ghi
nhận các phán quyết xác định có tội do Toà án tuyên đối với người đó (các

tiền án). Lý lị
ch tư pháp là tư liệu quan trọng không thể thiếu giúp cho quá
trình kiểm sát và xét xử được chính xác.
Mục đích của lý lịch tư pháp được quy định rõ trong Luật Hình sự, Luật
Tố tụng hình sự và Luật Ân xá của Nhật Bản, là nhằm phục vụ cho hoạt động
điều tra, xét xử và thi hành án của các cơ quan tư pháp. Cá nhân không có quyền
yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Trong một số trường hợp đặc bi
ệt, luật sư
cũng có quyền yêu cầu cung cấp lý lịch tư pháp nhưng chỉ được sử dụng trong
quá trình tố tụng. Quy định mang tính hạn chế này xuất phát từ nguyên tắc bảo
đảm bí mật đời tư của công dân.
Viện Kiểm sát là cơ quan có chức năng quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật
Bản. Hệ thống Viện Kiểm sát bao gồm Viện Kiểm sát tối cao (Supreme
Procuracy), Viện Ki
ểm sát vùng (High Procuracy), Viện Kiểm sát địa
phương (tỉnh) và Viện Kiểm sát khu vực (Summary Procuracy) .
Lý lịch tư pháp của người có hộ tịch tại Nhật Bản được quản lý tại
Viện kiểm sát địa phương, nơi đương sự có hộ tịch gốc
2
. Trong trường hợp
đương sự chuyển hộ tịch thì nơi quản lý lý lịch tư pháp sẽ được thay đổi theo.
Viện Kiểm sát thành phố Tokyo (cấp tỉnh) là nơi quản lý lý lịch tư pháp của
những người không có hộ tịch gốc tại Nhật Bản hoặc có hộ tịch gốc không rõ
ràng và người nước ngoài. Ngoài việc quản lý lý lịch tư pháp của cá nhân, thì

2
Tại Nhật Bản, hộ tịch gốc của một người căn cứ vào nơi sinh của người đó. Trong trường hợp một người
chuyển nơi cư trú, thì hộ tịch cũng có thể thay đổi – chuyển đến nơi cư trú mới.

22

Viện Kiểm sát địa phương còn quản lý cả lý lịch tư pháp của các pháp nhân
có đăng ký kinh doanh.
Ngoài việc quản lý lý lịch tư pháp thuộc hệ thống Viện Kiểm sát nói
trên, Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã (là đơn vị hành chính thuộc cấp
tỉnh) cũng quản lý một số thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp của người
phạm tội. Những thông tin này được gọi là “Danh sách người phạm tội”.
Danh sách này được xây dựng trên cơ s
ở các thông báo liên quan đến tiền án
của người phạm tội do Viện Kiểm sát gửi tới. Việc quản lý Danh sách người
phạm tội tại Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã nhằm mục đích thực hiện
công tác hành chính như chứng minh căn cước hoặc biên soạn danh sách cử
tri, cho phép hoặc xoá bỏ đăng ký kinh doanh… Giống như quản lý lý lịch tư
pháp của Viện Kiểm sát, Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã, nơi quản lý
Danh sách người phạm tội cũng không cung cấp các thông tin liên quan đến
lý lịch tư pháp cho cá nhân nhằm đảm bảo quyền giữ bí mật đời tư của công dân.
Cơ chế cung cấp và cập nhật các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp
tại Nhật Bản cũng được quy định cụ thể. Sau khi Toà án tuyên án (đã có hiệu
lực pháp luật), Viện kiểm sát tương ứng với Toà án đã tuyên bản án có trách
nhiệm gửi thông báo bằng vă
n bản cho Sở Cảnh sát (đã chuyển vụ án), Viện
Kiểm sát địa phương và Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã nơi đương sự có
hộ tịch gốc về kết quả xét xử của Toà án. Thông báo này bao gồm khoản mục
về căn cước của đương sự như “họ tên, ngày tháng năm sinh, hộ tịch gốc” và
khoản mục về phán quyết xác định có tội gồm “ngày tuyên án, ngày có hiệu
lự
c, Toà án đã tuyên, tội danh, loại hình phạt, tình trạng thi hành án….”. Căn
cứ vào những khoản mục về căn cước của đương sự trong Giấy thông báo,
Viện Kiểm sát sẽ cập nhật những thông tin về tiền án mới (đối với những
người đã có tiền án) hoặc tiến hành lập lý lịch tư pháp mới của đương sự (đối
với những trường hợp chưa có lý lịch t

ư pháp).
Mục đích của quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản là nhằm phục vụ cho
hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án của các cơ quan tư pháp. Do đó, lý
lịch tư pháp được sử dụng để các cơ quan tư pháp “so chiếu tiền án”. Khái
niệm “so chiếu tiền án” được hiểu là khi các cơ quan tư pháp (Viện Kiểm sát,
Toà án) có yêu cầu tra cứu lý lịch tư pháp của một cá nhân để ph
ục vụ trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bằng việc tra cứu lý lịch tư pháp tại hệ
thống Viện Kiểm sát, cơ quan tư pháp có thể biết được tình trạng tiền án của
cá nhân đó. Việc so chiếu tiền án thông qua hệ thống máy tính được thực hiện
rất đơn giản và nhanh chóng. Tại các máy tính ở Viện Kiểm sát địa phương,
chỉ cần đưa vào máy tính các dữ liệu về thông tin c
ơ bản của đối tượng muốn
tra cứu như “họ tên, ngày tháng năm sinh” (các dữ liệu này đã được mã hoá),

23
chúng ta sẽ nhận được ngay thông tin về lý lịch tư pháp của người đó. Nếu có
tiền án, máy tính sẽ cho kết quả là “Bản điều tra tiền án” với những thông tin
cụ thể như tội danh, Toà án đã xét xử vụ án, ngày xét xử, ngày án được xác
định…; nếu không có tiền án, máy tính sẽ báo kết quả là “không có tiền án”.
3. Mô hình quản lý lý lịch tư pháp của một số nước theo hệ thống
pháp luật Ănglô Xắcxông
3.1. Quản lý lý lịch tư pháp tại Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ không có một văn bản pháp lý riêng quy định về việc tổ chức
hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc quản lý và cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Tuy nhiên, hệ thống dữ liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp ở Hoa Kỳ cũng
khá phong phú. Do đặc điểm của quốc gia liên bang, các dữ liệu về lý lịch tư
pháp của công dân Mỹ được lưu trữ ở các cơ sở dữ liệu của liên bang cũng
như các cơ sở dữ liệu của từng bang. Ngoài ra, căn cứ theo quy định của các
đạo luật liên quan đến tự do thông tin của Hoa Kỳ, nhiều tổ chức tư nhân

cũng đã tập hợp những thông tin công khai của chính quyền và xây dựng
những cơ sở dữ liệu thông tin của riêng mình nhằm mụ
c đích cung cấp cho
những người có nhu cầu.
- Ở cấp độ liên bang: có hai hệ thống dữ liệu có liên quan đến lý lịch
tư pháp, đó là Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của Cục điều tra liên
bang Mỹ FBI và Hệ cơ sở dữ liệu của Toà án.
Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm lưu trữ các thông tin về tội phạm
như
các lệnh truy nã, các quyết định bắt giam, thi hành hình phạt, các quyết
định phóng thích nạn nhân Hệ thống này phục vụ chủ yếu cho công tác đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, các thông tin trong dữ liệu cũng được
lưu trữ dưới các tiêu chí nhằm phục vụ cho các cơ quan điều tra, công tố.
Việc sử dụng cơ sở dữ liệu vào mục đích cấp lý lịch tư pháp chỉ là mục đích
th
ứ yếu.
Hệ cơ sở dữ liệu của Toà án lưu trữ các bản án, thống kê tội phạm. Đây
cũng là một nguồn cơ sở dữ liệu lưu trữ các thông tin liên quan đến các chế
tài, hình phạt và biện pháp tư pháp do Toà án tuyên và cũng có thể được sử
dụng vào mục đích kiểm tra lý lịch tư pháp.
- Ở các bang:
+ Hệ thống cơ sở dữ liệu về tộ
i phạm của bang. Hầu hết các bang tại
Hoa kỳ (trừ bang Califonia) đã có hệ cơ sở dữ liệu về tội phạm trong phạm vi
lãnh thổ của bang mình. Hệ thống này cập nhật các thông tin dựa trên các
phán quyết đã được tuyên bởi toà án bang. Hệ thống dữ liệu này là công khai

24
và mọi người đều có thể tiếp cận theo luật về tự do thông tin. Mục đích chính
của hệ cơ sở dữ liệu này là thống kê tội phạm.

+ Hệ thống lưu trữ của Toà án. Các toà án cấp bang đều có ghi chép và
lưu trữ các thông tin có liên quan đến lý lịch tư pháp, không chỉ trong lĩnh
vực hình sự mà còn cả trong các lĩnh vực khác như: các chế tài xử phạt đối
với các tội vi phạm giao thông, việ
c thay đổi họ tên, quyết định ly hôn, vấn
đề phá sản Hệ thống tài liệu này được lưu trữ dưới các hình thức như: biên
bản làm việc của toà án (minute book), tài liệu ghi chép các hoạt động
(registration of action), thông tin về phán quyết (judgment book) và tập các
án lệ (case files)
Ngoài hai hệ thống dữ liệu nêu trên, còn có một số cơ sở dữ liệu khác
cũng lưu trữ các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp như cơ sở dữ liệu củ
a
cơ quan lưu trữ liên bang và các bang. Theo pháp luật của Hoa Kỳ, các dữ liệu
công và các tài liệu khác do cơ quan nhà nước ghi lại sau một thời gian nhất
định đều phải đưa vào hệ thống lưu trữ của liên bang cũng như của bang.
Chính vì vậy, hệ cơ sở dữ liệu của cơ quan lưu trữ rất phát triển, lưu trữ các
thông tin đa dạng từ các quyết định hành chính đến cả
quyết định của các cơ
quan tư pháp.
Ở Hoa Kỳ, vấn đề tiếp cận đối với các cơ sở dữ liệu liên quan lý lịch tư
pháp còn đang gây tranh cãi, phải giải quyết mối quan hệ giữa quyền được
tiếp cận các hệ cơ sở dữ liệu công cộng của quốc gia và quyền giữ bí mật
riêng tư, cấm phân biệt đối xử đối với nh
ững người có án tích.
Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của FBI chỉ cung cấp thông tin
cho một số cơ quan (điều tra, Toà án) và cho chính những cá nhân có yêu cầu
kiểm tra lý lịch tư pháp của mình. Mặt khác, một số bang cũng có những quy
định riêng về một số đối tượng nhất định có thể được tiếp cận vào hệ thống
thông tin này. Vì dụ: các cơ quan tuyển dụng lao động trong lĩnh vự
c dịch vụ

công cộng, chăm sóc trẻ em và chăm sóc sức khoẻ tại nhà, làm việc tại các
trường học và lái xe chuyên chở học sinh tới trường Các tổ chức tư nhân,
các công ty tuyển dụng tư nhân không được phép sử dụng hệ thống cơ sở dữ
liệu này để kiểm tra nhân thân của cá nhân nhằm đảm bảo thực hiện quy định
về cấm phân biệt đối xử. Tuy nhiên các tổ chứ
c này có thể lấy thông tin có
liên quan từ các kênh khác như: cơ sở dữ liệu tội phạm của bang, cơ sở dữ
liệu của toà án, cơ sở dữ liệu của các tổ chức cung cấp dịch vụ (chủ yếu cung
cấp cho các nhà tuyển dụng lao động, ngân hàng )



25
3.2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Vương quốc Anh
Bộ Ngoại giao là cơ quan được giao quản lý và cấp lý lịch tư pháp tại
Anh. Giúp việc cho Bộ Ngoại giao có hai cơ quan trung ương quản lý:
- Văn phòng về lý lịch tư pháp của Scotland. Văn phòng này được
thành lập năm 1960 với nhiệm vụ quản lý và cung cấp các thông tin về lý lịch
tư pháp cho cảnh sát Scotland và cộng đồng nhằm trợ giúp cho hoạt động
ngăn ngừa và phát hi
ện tội phạm, nâng cao an toàn công cộng. Văn phòng
này hiện đang quản lý hệ thống tàng thư căn cước của Scotland và cấp lý lịch
tư pháp cho công dân của Scotland. Văn phòng này là đầu mối cho Hệ thống
liên kết thông tin tội phạm của Scotland (the Integration Of Scottish Criminal
Justice Information Systems).
- Cục lý lịch tư pháp (The Criminal Record Bereau) được thành lập
trên cơ sở của Luật Cảnh sát 1997. Cục cung cấp thông tin liên quan đến lý
lịch tư pháp của các cá nhân cư trú tại Vương quố
c Anh, trừ Scotland.
Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Anh được lưu trữ tại Hệ thống máy

tính của cảnh sát quốc gia (The Police National Computer). Hệ thống này chỉ
lưu trữ các thông tin về hình sự. Về nguyên tắc, các tội danh được lưu trữ
trong hệ thống cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong thời hạn 10 năm nếu người
phạm tội không phạm tội mớ
i trong thời gian đó. Hết thời hạn trên, các án
tích sẽ được xoá khỏi hệ thống máy tính cảnh sát quốc gia trừ một số trường
hợp cụ thể.
Theo pháp luật của Anh, các cá nhân được tiếp cận và đề nghị Cục lý
lịch tư pháp hoặc Văn phòng lý lịch tư pháp Scotland cấp Phiếu lý lịch tư
pháp. Các tổ chức cũng có thể tiếp cận và đề nghị cấp các Phiếu lý lị
ch tư
pháp nếu được đương sự cho phép.
Ở Anh, có 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp với 3 cấp độ khác nhau:
+ Loại Phiếu số 1 (gọi là phiếu cơ bản – Basic Disclosures): là phiếu về
các tội hình sự đã bị kết án (Criminal Conviction Certificate), trong đó ghi
nhận các tội hình sự của đương sự đã bị kết án. Phiếu này không ghi các tội đã
được xoá án tích. Loại phiếu này được cấp cho bất cứ cá nhân nào có yêu cầ
u.
+ Loại Phiếu số 2 (gọi là phiếu nền – Standard Disclosures): là phiếu ghi
nhận bất cứ tội hình sự nào của đương sự, kể cả các tội đã được xoá án tích
cũng như hình phạt cảnh cáo. Loại phiếu này cũng được cấp cho các cá nhân
có yêu cầu. Tuy nhiên, điểm khác biệt với yêu cầu cấp phiếu số 1 là đương sự
phải nộp kèm theo bản tuyên bố của tổ chức, ngườ
i đã yêu cầu đương sự xuất

×