Lời mở đầu
Thị trờng lao động trong công nghiệp là một bộ phận quan trọng hợp thành
thị trờng yếu tố sản xuất kinh doanh công nghiệp. Hàng hoá sức lao động trong thị tr-
ờng đó cũng rất phong phú đa dạng từ trình độ công nhân, kỹ s đến nhân viên quản
lí,...
Trong tiến trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đến một giai đoạn nhất
định nào đó khi mà quy mô của việc kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp quá lớn không
thể chỉ đợc thực hiện bởi một ngời chủ sở hữu, khi đó sẽ hình thành một bộ phận lao
động tách riêng ra làm công tác quản lí, và đến khi đợc chủ sở hữu giao cho đứng
đầu và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp, những nhân viên quản
lí ấy sẽ đợc gọi là giám đốc.
Khi đó thị trờng lao động sẽ xuất hiện một loại hàng hoá cao cấp đó là sức
lao động của nhà quản lí cấp cao giám đốc. Thị trờng lao động cung cấp một
trong ba yếu tố tất yếu của quá trình sản xuất, do đó lực lợng giám đốc cũng là một
bộ phận không thể phủ nhận trong những giai đoạn nhất định của quá trình phát
triển. Tính tất nhiên đó đến lợt mình lại dẫn đến một hệ quả khác đó là việc hình
thành một nghề mới trong xã hội nghề giám đốc.
Việt Nam chắc chắn sẽ không nằm ngoài quy luật này bởi lẽ có một hiện
thực khách quan đó là không chỉ nớc ta mà hầu hết những nớc khác sớm hay muộn
sẽ tiến lên một nền sản xuất lớn. Vì vậy, việc xác định viễn ảnh cho thị trờng sức lao
động đặc biệt này là một việc làm có ý nghĩa để thực hiện những tác động tích cực từ
phía các doanh nghiệp cũng nh từ phía nhà nớc và xã hội, thực hiện những bớc
chuẩn bị cần thiết cho việc hình thành một đội ngũ giám đốc có phẩm chất và năng
lực cao phục vụ hiệu quả cho phát triển các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Về nghề giám đốc, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả
trong nớc và nớc ngoài nh: Nghề tổng giám đốc của nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hiệu quả hoạt động quản lí doanh nghiệp công nghiệp cua tác giả Đinh Tiến Dũng,
cùng nhiều bài đăng trên nhiều tờ báo khác nhau. Tuy nhiên các công trình ấy
mới chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu về cá nhân ngời giám đốc mà không đề cập tới họ
1
nh một cộng đồng nghề nghiệp có tính đặc thù với những đặc tính về quy mô, trình
độ, mối quan hệ và vai trò quan trọng của họ, đặc biệt trong phát triển kinh tế Việt
Nam. Có thể nói cho tới thời điểm này cha có một công trình chính thức nào đề cập
cụ thể đến đề tài này.Vì vậy đây chính là điểm mới của đề án này.
Với những ý nghĩa quan trọng nh vậy, hy vọng rằng đề án này sẽ đóng góp
phần nào vào việc xây dựng nhận thức đúng đắn về những ngời làm nghề giám đốc
và vạch ra đợc một số phơng hớng phát triển nghề này.
Nhân đây em xin bày tỏ lời cảm ơn tới Thạc sĩ Trơng Đức Lực- giáo viên bộ
môn Kinh tế công nghiệp, Khoa Quản trị kinh doanh, Trờng Đại học Kinh tế quốc
dân vì sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy trong quá trình hớng dẫn em hoàn thành đề án
này.
Hà Nội ngày tháng năm2004
2
I. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển
nghề giám đốc ở Việt Nam
I.1 Khái niệm và thành phần đội ngũ giám đốc:
I.1.1 Khái niệm về giám đốc:
Giám đốc là những ngời đứng đầu một doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động của doanh nghiệp đó. Họ chính là những lãnh đạo cấp cao nhất trong
điều hành doanh nghiệp.
I.1.2 Thành phần đội ngũ giám đốc
Trên cơ sở phân định giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, điều hành, giám
đốc đợc chia làm 2 loại chính, đó là: giám đốc kiêm chủ sở hữu doanh nghiệp và
giám đốc làm thuê.
Đề án này xem xét giám đốc với t cách là một nghề nghiệp, điều đó cũng có
nghĩa là xem trong trạng thái tách rời với quyền sở hữu doanh nghiệp và chỉ còn hoạt
động với tính chuyên nghiệp của mình. Vì vậy sẽ không đi sâu vào nghiên cứu xem
họ hoạt động nh thế nào khi bị gắn vào quyền sở hữu, mà mặc nhiền coi họ là những
ngời lao động làm công ăn lơng. Với lập trờng nh vậy, theo thống kê ở Mỹ hiện nay
có ít nhất bảy loại, hay 7 mô hình tổng giám đốc (7 loại giám đốc) đó là:
1) Tổng giám đốc chủ quản nghiệp vụ của công ty có các chức năng hoàn
chỉnh: đó là chức vụ công tác của tổng giám đốc theo quan niệm truyền thống.
Tổng giám đốc này chịu trách nhiệm trớc hội đồng quản trị (hoặc chủ tịch hội
đồng quản trị) và báo cáo công tác trớc hội đồng này. Một số giám đốc các ngành
chức năng ở dới chịu trách nhiệm trớc tổng giám đốc và báo cáo cho tổng giám
đốc.
2) Tổng giám đốc chủ quản nghiệp vụ nhiều ngành nghề với t cách pháp
nhân của công ty có nhiều ngành nghề: Mô hình này khác với mô hình trên ở chỗ,
các tổng giám đốc các nghiệp vụ khác và giám đốc các ngành chức năng khác
phải chịu trách nhiệm trớc tổng giám đốc và báo cáo công tác cho tổng giám đốc.
Ngoài ra, tổng giám đốc chủ quản nghiệp vụ của nhiều ngành nghề, thờng không
chịu trách nhiệm xem xét kế hoạch và nội dung kinh doanh ngắn hạn của các
nghành trong doanh nghiệp.
3
3) Tổng giám đốc tập đoàn doanh nghiệp. Tổng giám đốc của mô hình
doanh nghiệp này còn phải chịu trách nhiệm và báo cáo với tổng giám đốc cấp
trên. Dới tổng giám đốc tập đoàn doanh nghiệp còn có những tổng giám đốc
nghiệp vụ khác chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với tổng giám đốc tập đoàn
doanh nghiệp. Tổng giám đốc một tập đoàn doanh nghiệp điển hình sẽ phải báo
cáo công tác cho tổng giám đốc chủ quản nghiệp vụ và là pháp nhân của công ty
nhiều ngành nghề. Ngoài ra, còn có sáu đến bảy tổng giám đốc công ty chi nhánh
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác cho tổng giám đốc tập đoàn doanh nghiệp.
So với tổng giám đốc chủ quản nghiệp vụ, thì tổng giám đốc tập đoàn doanh
nghiệp có ít trách nhiệm hơn với những ngời bên ngoài doanh nghiệp.
4) Tổng giám đốc công ty chi nhánh: Về rất nhiều mặt thì công tác của
tổng giám đốc mô hình này tơng tự nh tổng giám đốc truyền thống ( loại thứ
nhất). Tuy nhiên, tổng giám đốc này phải chịu trách nhiệm và báo cáo lên một
tổng giám đốc, mà không báo cáo lên chủ tịch hội đồng quản trị hoặc hội đồng
quản trị. Giống nh tổng giám đốc tập đoàn doanh nghiệp, tổng giám đốc công ty
chi nhánh có ít trách nhiệm về kế hoạch sách lợc dài hạn hơn so với giám đốc chủ
quản nghiệp vụ, và cũng có ít quan hệ ngang với ngời bên ngoài doanh nghiệp;
nhng lại có rất nhiều trách nhiệm kinh doanh ngắn hạn. Công việc quan trọng nhất
của chức vụ tổng giám đốc công ty chi nhánh là chịu trách nhiệm về lỗ lãi của
những hạng mục mình phụ trách.
5) Tổng giám đốc công ty con: Chức vụ tổng giám đốc mô hình này giống
nh mô hình tổng giám đốc công ty chi nhánh. Nhng trong doanh nghiệp của tổng
giám đốc công ty con, số lợng nhân viên ít hơn và quan hệ nghiệp vụ ngành ngang
lại tơng đối nhiều. Công việc của tổng giám đốc này phần lớn là báo cáo lên trên
và ít có trách nhiệm đối với tổng thể doanh nghiệp. Trên một chừng mực nhất
định, tổng giám đốc công ty con phải dựa vào sự giúp đỡ của doanh nghiệp (hoặc
tập đoàn doanh nghiệp) về nhân sự, pháp luật, kế toán, quan hệ công cộng và tài
chính ngân hàng.
6) Tổng giám đốc của mô hình sản phẩm,kinh doanh, tiêu thụ: Mô hình
này thờng có số lợng nhân viên dới quyền không nhiều, nhng lại có nhiều quan hệ
nghiệp vụ ngành ngang. Hầu nh tất cả các nhân viên tiêu thụ sản phẩm đều chịu
4
trách nhiệm và báo cáo công tác với tổng giám đốc này và tổng giám đốc này
chịu trách nhiệm điều hành quan hệ giữa chuyên viên phụ trách sản xuất sản phẩm
đó ( hoặc một số ngành ). Chức vụ tổng giám đốc này về cơ bản cũng không chịu
trách nhiệm quy hoạch sách lợc lâu dài.
7) Tổng giám đốc mô hình kinh doanh: Đây là mô hình tổng giám đốc mà
mọi ngời đã quen thuộc. Tổng giám đốc này về cơ bản không chịu trách nhiệm
quy hoạch mà chủ yếu phụ trách hoạt động sản xuất kinh doanh ngắn hạn. Hầu
nh toàn bộ những nhân viên sản xuất, chế tạo, tiêu thụ, dịch vụ đều chịu trách
nhiệm trớc vị tổng giám đốc này; tổng giám đốc mô hình kinh doanh cũng có một
số quan hệ nghiệp vụ ngành ngang, nhng không cần thiết phải duy trì chặt chẽ
trong quan hệ nghiệp vụ ngành ngang giống nh giám đốc mô hình sản phẩm, tiêu
thụ. Một tổng giám đốc kinh doanh điển hình có thể là giám đốc một nhà máy
hoặc một số nhà máy, chỉ chịu một phần trách nhiệm đối với lợi nhuận; các
đơn vị nhân sự, kế toán và đơn vị khác phải báo cáo công tác cho Tổng giám đốc
mô hình kinh doanh.
Đây là những mô hình điển hình, ngoài ra còn nhiều biến thể của các mô
hình này
Từ những phân tích trên ta thấy kết cấu lao động trong nghề giámđốccũng
khá phức tạp. Đang có 2 xu hớng lớn ảnh hởng tới sự phân hoá này đó là: Một mặt
ngày càng có nhiều doanh nghiệp mới xuất hiện với quy mô vừa và nhỏ không chỉ
ở các nớc đang phát triển mà còn rất phổ biến ở cả những nớc phát triển, mặt khác
cũng có một xu hớng đối trọng là việc ra đời những tập đoàn kinh tế hùng mạnh
kinh doanh đa ngành nghề cùng với xu hớng toàn cầu hoá mạnh mẽ. Hớng phát
triển thứ nhất thúc đẩy việc phát triển những giám đốc theo mô hình truyền thống-
tức là giám đốc của những công ty kinh doanh đơn ngành. Còn xu hớng thứ hai lại
tạo động lực cho sự trởng thành của những mô hình giám đốc còn lại vì khi những
công ty này vơn ra những thị trờng ngoại quốc họ không thể tránh khỏi việc tuyển
dụng giám đốc chi nhánh, giám đốc công ty con, giám đốc công ty nhiều ngành
nghề, giám đốc mô hình sản phẩm, kinh doanh tiêu thụ, giám đốc mô hình kinh
doanh và trên hết là những tổng giám đốc tập đoàn.
5
I.2 Vai trò của đội ngũ giám đốc
Vai trò của lao động quản lí nói chung trong đó có giám đốc đã đợc các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mac Lênin đề cập từ rất sớm. Đặc biệt là Các Mác,
ông đã đa ra một luận đề nổi tiếng về tính tất yếu, bản chất kinh tế và chức năng
của lao động quản lí trong tế khi ông viết chơng Hiệp tác trong bộ T bản. Ông
viết: Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
một quy mô tơng đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận
động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc
lập của nó. Một ngời độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì phải có nhạc trởng.
Theo ông hoạt động quản lý tất yếu nảy sinh từ các quá trình lao động xã hội
trực tiếp và nó là yếu tố nội tại của chính quá trình lao động đó cho dù nó không
trực tiếp tạo ra sản phẩm.
Cũng trong chơng Hiệp tác, khi phê phán quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa,
C.Mác đã chững minh tính nghề nghiệp chuyên biệt của lao động quản lí. Ông
nhấn mạnh lao động quản lí không phải bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu. Trong
điều kiện chuyên môn hoá phát triển dới chế độ t bản chủ nghĩa, lao động quản lý
cũng trở thành một dạng lao động làm thuê.
Khi một chủ sở hữu đã quyết định đi thuê giám đốc thì sau đó ngời đợc thuê
sẽ toàn quyền lãnh đạo doanh nghiệp với điều kiện duy nhất là làm ra lợng lợi
nhuận mong muốn. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi vị giám đốc đó có vai
trò vô cùng to lớn với sự thành bại của doanh nghiệp. Vai trò to lớn đó đợc cụ thể
nh sau
1) Vai trò khống chế: giám đốc cùng các phụ tá của mình là ngời xây dựng nên
những quy định, quy chế của doanh nghiệp để đảm bảo tính có thể kiểm soát đợc
của các hoạt động trong doanh nghiệp. Giám đốc có trách nhiệm điều chỉnh các
hoạt động vào trong phạm vi nhứng khuôn khổ này. Mục tiêu này có thể thực hiện
bằng cách tuân thủ chặt chẽ những quy tắc nhng trong nhiều trờng hợp lại phải
thực hiện hết sức linh hoạt. Vì vậy trọng tâm của vai trò khống chế là khả năng kết
hợp giữa mềm và rắn.
6
2) Vai trò thúc đẩy sự hợp tác: lợi ích của lao động quản lí làm cho năng suất của
doanh nghiệp tăng lên nhiều lần so với phép cộng đơn giản năng suất của từng
công nhân. Lợi ích đó chính là sản phẩm của khả năng phân công bố trí lao động
phù hợp với công việc, khả năng và sở thích cũng nh tiềm năng hợp tác với nhau
của ngời lao động để họ kết hợp với nhau ăn ý nhất, đem lại hiệu quả cao nhất.
3) Vai trò khích lệ, cổ vũ nhân viên hăng hái tiến lên: nguời giám đốc bằng tài năng
của mình thuyết phục ngời lao động, trở thành thần tợng của họ, đồng thời bằng
những chính sách khuyến khích về vật chất cũng nh tinh thần khơi nguồn động lực
làm việc của họ. Sở dĩ có vai trò này vì nhìn chung, một ngời lao động có thể sử
dụng 20% đến 30% năng lực lao động của mình, nhng nếu đợc khích lệ đầy đủ họ
có thể bỏ ra 80% đến 90% năng lực đó và nguồn năng lực này sẽ đợc toàn dụng
nều ngời lao động đợc khuyến khích, động viên và giáo dục.
4) Vai trò chỉ huy: đây là một trong năm chức năng quản trị cơ bản. Đây chính là
việc ngời giám đốc bằng mệnh lệnh cũng nh nhiều biện pháp khác đảm bảo cho
mọi hành động của ngời dới quyền đều phải nhất trí và hớng vào một mục tiêu đã
đề ra.
5) Vai trò về mặt tổ chức trong việc bao quát toàn cục và vai trò quyết sách với
tầm mắt nhìn xa trông rộng : cả hai vai trò này đều thể hiện tầm bao quát rộng
lớn của giám đốc cả về mặt không gian và thời gian và điều này chỉ có ở gì mà
không phải một ai khác trong doanh nghiệp . Với vai trò này giám đốc phải thông
hiểu rõ hoạt động của doanh nghiệp về mọi mặt từ tài chính, nhân sự đến sản xuất
kinh doanh đồng thời giám đốc là ng ời chịu trách nhiệm hoạch định kế hoạch,
chiến lợc phát triển lâu dài của doanh nghiệp
Giám đốc là ngời quyết định hiệu quả kinh doanh cũng nh sự thành bại của doanh
nghiệp trong cạnh tranh, họ là lực lợng xung kích trong sự nghiệp đổi mới về kinh tế,
phát triển sản xuất kinh doanh.
Với vai trò quan trọng nh vậy và với xu hớng tách rời quyền sở hữu và quyền điều
hành đã chứng minh cho tơng lai phát triển của nghề này.
7
I.3 Nhìn lại lịch sử nghề giám đốc trên thế giới
I.3.1 Lịch sử ra đời:
Theo những phân tích và chứng minh của C.Mac đội ngũ giám đốc là một bộ
phận của lao động xã hội, một bộ phận lao động đặc biệt phát sinh từ yêu cầu chung
của lao động hiệp tác, gắn với bất kỳ một loại lao động hiệp tác nào.
Hoạt động của những nhân viên quản lí, của giám đốc ngày càng phát triển
cùng với nhịp độ xã hội hoá ngày càng cao các quá trình sản xuất, kinh tế và trở
thành một nghề chuyên biệt, một dạng lao động chuyên biệt trong hệ thống phân ông
lao động xã hội, góp phần tạo ra của cải( hiện vật và giá trị ) của xã hội.
Đối tợng của lao động quản lý là những doanh nghiệp đã đạt tới quy mô nào
đó, và tiền lơng của nhân viên quản lí nằm trong chi phí sản xuất. Sức lao động quản
lý cũng trở thành hàng hóa và thị trờng này ngày càng phát triển cùng với sự phát
triển của chủ nghĩa t bản hay nói rộng ra là nền kinh tế thị trờng.
Một bằng chứng cụ thể chứng minh cho những nhận định ở trên đó là những
điều kiện để hình thành nên nghề giám đốc đã đợc kiểm nghiệm ở nớc Mĩ. ở đó, vào
thập niên 90 của thế kỉ 18, trong nền kinh tế đã xuất hiện một chức năng kinh tế mới
đó là dựa vào việc quản lí để điều phối lu lợng sản phẩm và phân phối tài nguyên, và
sự ra đời của một loại ngời mới- con ngời kinh tế thực hiện chức năng kinh tế ấy, đó
là giám đốc ăn lơng. Sự đổi mới kĩ thuật, nhân khẩu tăng lên nhanh chóng và trên một
diện rộng, thu nhập đầu ngời tăng lên, khiến quá trình sản xuất và phân phối thêm
phức tạp, đồng thời, nó cũng làm tăng tốc độ và số lợng vật t trong hai quá trình đó.
Cơ chế thị trờng thông thờng không còn đủ khả năng để điều tiết có hiệu quả những l-
u lợng vật chất đó nữa. Do đó, kỹ thuật mới và thị trờng đợc mở rộng, lần đầu tiên, sự
cần thiết phải có sự điều phối của quản lí ra đời. Để thực hiện chức năng này, các chủ
t bản thành lập các doanh nghiệp có nhiều đơn vị và thuê các giám đốc để quản lí các
công việc mà họ cần. Doanh nghiệp gồm nhiều đơn vị là một hiện tợng hiện đại. Năm
1840, ở Mĩ cha có các doanh nghiệp loại này. Quy mô hoạt động kinh tế lúc đó cha
đủ mức có thể làm cho việc điều phối bằng quản lí có thể tạo nên năng suất cao hơn
điều phối của thị trờng. Do đó việc điều phối bằng quản lí lúc ấy cha có lợi. Lúc ấy
cha có nhu cầu và cơ hội để thành lập các doanh nghiệp nhiều đơn vị.
8
Nghề giám đốc ra đời cùng với sự hình thành các doanh nghiệp hiện đại, đó là
các doanh nghiệp gồm nhiều đơn vị, đặc biệt là các doanh nghiệp công thơng.
Về mặt sản xuất, một số giám đốc hiện đại xuất hiện sớm nhất tại các ngành
công nghiệp và doanh nghiệp sau đây:
Ngành có tính chất công nghệ cho phép nó có thể tiến hành một số quá trình
sản xuất trong một nhà máy đơn nhất.
Những ngành có khả năng sử dụng năng lợng có hiệu suất cao, hoặc do cải tiến
thiết kế thiết bị và nhà máy cải tiến quy trình quản lí nên sản lợng gia tăng
mạnh mẽ, những ngành này cũng xuất hiện những giám đốc hiện đại sớm nhất.
Một bằng chứng dễ thấy là: trớc Chiến tranh thế giới thứ I, các doanh nghiệp
Mĩ thờng chỉ sản xuất một loại sản phẩm, do đó chỉ có một mô hình tổng giám đốc.
Trong thời gian thế chiến II, 95% giám đốc doanh nghiệp thuộc mô hình đơn nhất.
Nhng sau đó cùng với sự bùng nổ của các công ty Mĩ- trở thành các công ty lớn, công
ty xuyên quốc gia thì các mô hình giám đốc còn lại cũng lần lợt ra đời, điều đó đồng
nghĩa với một lực lợng giám đốc hùng mạnh không chỉ là ngời Mĩ mà còn ở châu âu
và một số nớc khác.
I.3.2 Những lợi ích do việc hình thành đội ngũ giám đốc mang
lại:
Nghề giám đốc là sản phẩm của phân công lao động xã hội, nhng đến lợt
mình những con ngời đó với tính chuyên nghiệp của mình lại trở thành động lực cho
phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, đẩy năng suất lao động không ngừng tăng
cao, đem lại lợi ích cho toàn xã hội
Lợi ích thiết thực đối với việc điều hành các doanh nghiệp, đặc biệt là với các
ông chủ: Giúp các ông chủ không phải trực tiếp tham gia công tác quản lý doanh
nghiệp mà vẫn thu đợc lợi nhuận thậm chí còn cao hơn khi họ tự quản lí.
Và những ông chủ này có thể dành thời gian cho việc hoạch định các chiến lợc kinh
doanh mới.
Xuất hiện và phát triển các ngành phụ thuộc vào nghề giám đốc nh: hiệp hội,
sách báo, tạp chí, trờng đào tạo, công ty t vấn. Đây là những loại tổ chức và dịch vụ
9
đặc biệt phát đạt ở các nớc công nghiệp phát triển. Nếu đợc đầu t tốt chúng có thể
đem lại những lợi ích không nhỏ.
Tác động có tính chất dây chuyền do những giám đốc tài năng đem lại cho xã
hội: những giám đốc tài năng chính là những lời quảng cáo tốt nhất cho nghề giám
đốc; không những thế họ còn trở thành những thần tợng để từ đó kích thích tinh thần
làm giàu cho bản thân và do đó cho cả xã hội ở nhiều ngời khác.
I.4 Nền kinh tế hàng hoá lớn ở Việt Nam trong t -
ơng lai - điều kiện tất yếu cho sự phát triển của
nghề giám đốc : Theo nghị quyết Đại hội đảng IX, một số quan điểm phát
triển và mục tiêu chiến lợc đó là:
Đến năm 2010 đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng dể
đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại. Kết
cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế đợc tăng cờng, thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa đợc hình thành về cơ bản. Nh vậy, đến năm 2020 cơ sở vật chất kỹ thuật
cho một nền sản xuất lớn sẽ thực sự đợc hình thành.
Đa gdp năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000 và tích luỹ nội bộ nền kinh tế
đạt trên 30% GDP. Đây là những điều kiện cốt yếu, là sự tích luỹ nội lực để đầu t cho
phát triển cho cơ sở hạ tầng mới, cho những dự án sản xuất kinh doanh mới và những
doanh nghiệp mới.
Và để hình thành đầy đủ, nhanh chóng và có hiệu quả công việc chuẩn bị đó
phải tạo điều kiện tốt nhất cho mọi ngời, mọi thành phần kinh tế đợc góp công, góp
của vào tiến trình đó. Vì vậy Đảng ta chủ trơng đờng lối phát triển các thành phần
kinh tế theo hớng: Kinh tế nhà nớc đợc đổi mới và phát triển, chi phối các lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế t bản t
nhân, kinh tế t bản nhà nuớc, kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài đều phát triển mạnh và
lâu dài. Kinh tế t bản t nhân đợc khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô
trong những ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm.
Với những quan điểm này, cha bao giờ trong lịch sử nớc ta lại có chính sách
thông thoáng cho mọi thành phần kinh tế phát triển nh thế. Đây đã, đang và sẽ trở
thành động lực cho sự ra đời của nhiều doanh nghiệp , động lực cho sự mạnh dạn đầu
10
t lớn vào các lĩnh vực mà các chủ doanh nghiệp nhận thấy triển vọng. Những hoạt
động đầu t này là một phần quan trọng kiến tạo nên một nền sản xuất lớn.
Theo quy luật mà nhiều nớc trên thế giới đã trải qua, để đa một nền kinh tế
phát triển thì cần xác định thận trọng và tập trung lực phát triển một số ngành mũi
nhọn có tác dụng nh những đầu tàu kéo nền kinh tế tăng tốc. Và những ngành đã đợc
xác định ở nớc ta trong vòng từ 10 đến 20 năm tới đó là:
Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo
bớc nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trởng vợt trội ở những sản
phẩm và dịch vụ chủ lực. Những ngành hiện đại đó là: Phát triển mạnh các ngành
công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động
hoá; chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế
có tốc độ tăng trởng vợt trội.
Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu
cầu xây dựng trong nớc và có năng lực đấu thầu công trình xây dựng ở nớc ngoài.
Phát triển và nâng cao chất lợng dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách ngày
càng hiện đại, vơn nhanh ra thị trờng khu vực và thế giới.
Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đáp ứng nhu
cầu du lịch trong nớc và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển
du lịch trong khu vực.
Mở rộng dịch vụ tài chính tiền tệ nh tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng
khoán,... đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng các quy chuẩn quốc tế. Từng bớc
hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực.
Đây thực sự là những ngành trọng yếu và có nhiều khả năng phát triển tốt.
Khi các ngành này phát triển chắc sẽ hình thành nhiều doanh nghiệp lớn có phạm vi
hoạt động không chỉ trong nớc mà còn trên phạm vi quốc tế.
Xu hớng phát triển lên một nền sản xuất lớn đó không chỉ diễn ra trong 10
hay 20 năm tới mà theo quy luật về sự tăng lên không ngừng của năng suất lao động
xã hội thì xu hớng ấy là một tất yếu và liên tục diễn ra. Do đó sự phát triển lên một
nền sản xuất lớn ở Việt Nam là một hiện thực khách quan không còn gì phải tranh
cãi.
11
II. Thực trạng của nghề giám đốc ở Việt Nam hiện
nay
II.1 Điểm mạnh, điểm yếu và những khó khăn của
đội ngũ giám đốc chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện
nay
II.1.1Điểm mạnh, điểm yếu và khó khăn:
Đội ngũ giám đốc hiện nay có một số điểm mạnh nh có trình độ văn hoá,
thông minh, nhạy bén, nhanh chóng tiếp cận và vận dụng kiến thức mới. Đây là đặc
điểm chung của lực lợng lao động Việt Nam. Điều đó hàm ý rằng đội ngũ giám đốc
cha có bản sắc của mình trong cộng đồng những ngời lao động. Bên cạnh đó đội ngũ
này còn có một số điểm yếu và gặp một số khó khăn nh trình bày dới đây
Lực lợng giám đốc chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn quá mỏng về số
lợng. Để chứng minh cho điều này xin đa ra đây một vài con số: nớc ta có khoảng 80
triệu dân mà mới có khoảng trên 50.000 doanh nghiệp. Có thể so sánh với nớc Bỉ có
10 triệu dân nhng có tới 700.000 doanh nghiệp; nớc Pháp có 60 triệu doanh nghiệp
dân có tới 2.4 triệu doanh nghiệp; Đài Loan có 22 triệu doanh nghiệpân có 1.2 triệu
doanh nghiệp. ở đây chúng ta không đề cập đến nguyên nhân mà chỉ đa ra con số để
thấy rằng số doanh nghiệp còn ít ỏi nh thế thì chắc chắn số giám đốc cũng tơng xứng
và đặc biệt giám đốc chuyên nghiệp lại càng ít hơn. Theo quan điểm triết học, khi cha
có sự tích tụ đủ về lợng thì cha thể xảy ra sự chuyển hoá về chất. Do đó, với một đội
ngũ nhỏ bé, chắc tính chuyên nghiệp, tính cạnh tranh cha cao và tiếng nói của tầng
lớp ngời mới này cha đợc nhiều ngời quan tâm. Điều này sẽ tiếp tục đợc làm rõ trong
những phần tiếp theo.
Đánh giá không công bằng từ phía xã hội: giám đốc cũng là một bộ phận của
những ngời đợc gọi là doanh nhân. Một phần do t tởng trọng nông ức thơng còn
rơi rớt, phần khác do ảnh hởng xấu của những giám đốc bê bối và do tầm quan trọng
cha đợc chứng minh mà tầng lớp giám đốc cũng nh doanh nhân cha nhận đợc nhiều
thiện cảm từ đông đảo xã hội. Đâu đó còn nhiều cái nhìn tiêu cực, còn có những hành
vi gây cản trở đến hoạt động kinh doanh chính đáng của họ. Phải chăng họ cũng cần
đợc tôn vinh nh những con ngời cao quý khác, mà theo một quan điểm có ba lớp ngời
nh thế, đó là: Cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nớc có đủ tri thức và
12