Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.35 KB, 65 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
LỜI MỞ ĐẦU
Phát huy truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách, lá rách ít
đùm lá rách nhiều”. CTXH nói chung và CTĐX xuất nói riêng cho những người
chịu thiệt thòi, không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống luôn
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. CTĐX được xác định là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm dảm bảo tính cân đối giữa phát triển
kinh tế và phát triển xã hội. Là một lĩnh vực của đời sống xã hội, CTĐX mang
những đặc trưng cơ bản: tổng hợp chính trị - kinh tế - xã hội - quốc phòng - an
ninh; trực tiếp giúp đỡ hàng triệu người và gia đình mỗi khi gặp khó khăn hoạn
nạn.
Ở một đất nước mà hàng năm luôn phải hứng chịu hậu quả của nhiều đợt
thiên tai, bão lũ, hạn hán; hàng triệu người rơi vào hoàn cảnh thiếu đói, mất
người thân, mất tài sản, mất nhà ở, mất phương tiện sản xuất…thì CTĐX là một
hoạt động không thể thiếu được. Để giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội
cần đăc biệt có chính sách hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, cứu đói,
giúp nhân dân sớm ổn định đời sống và sản xuất.
Giai đoạn 2000 - 2005 là giai đoạn mà mỗi năm trung bình có từ 4 - 6 cơn
bão lớn kèm theo mưa, lũ cộng với rất nhiều đợt hạn hán, sạt lở đất làm chết
hàng trăm người, cuốn trôi tài sản và nhà ở của hàng nghìn gia đình gây cảnh
thiếu đói ở nhiều vùng, địa phương. Trước tình hình đó, công tác CTĐX nhìn
chung đã được tổ chức thực hiện tương đối tốt, đạt được nhiều thành tựu to lớn,
song vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần phải tiếp tục được nghiên cứu và
khắc phục trong thời gian tới.
Giai đoạn tới, 2006 - 2010 là giai đoạn được dự báo là tình hình thời tiết sẽ
có nhiều biến động bất thường, công tác cứu trợ cần phải được tổ chức kịp thời
và hiệu quả hơn nữa. Do đó, Đề tài “Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu
trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010” xin mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp nhằm khắc phục những hạn chế, góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác
CTĐX ở Việt Nam. Mặc dù đã được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các Thây cô
1


1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
giáo và cán bộ hướng dẫn thực tập nhưng do phạm vi hiểu biết còn hạn chế, đề
tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy em rất mong nhận được những
góp ý của các Thầy cô giáo để đề tài có thể hoàn thiện hơn.
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng phân tích các vấn đề thực
trạng của chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách CTĐX kết hợp với số liệu và
thông tin của ngành Lao động - Thương binh - Xã hội.
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Vai trò của CTXH đột xuất trong phát triển kinh tế xã hội ở
Việt Nam.
Chương II: Thực trạng và kết quả công tác CTXH đột xuất trong thời
gian qua 2000 – 2005.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh công tác
CTXH đột xuất trong thời gian tới 2006 – 2010.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Cứu trợ xã hội
Cứu trợ xã hội là một trong những hoạt động có từ lâu trong lịch sử nhân
loại, thể hiện bản chất nhân đạo vốn có của con người trong việc xử lý các mối
quan hệ xã hội. CTXH là một trong những nội dung cơ bản của chính sách xã
hội. Vì vậy CTXH bao giờ cũng được đề cập tới, khi ít khi nhiều trong chính
sách của hầu hết các quốc gia trong mọi thời đại. Sự phát triển phong phú của
công tác CTXH là thước đo trình độ văn minh và tiến bộ của một chế độ xã hội.

CTXH có nguồn gốc ngữ nghĩa từ 2 nhóm từ ghép là Cứu tế xã hội và Trợ
giúp xã hội.
* Cứu tế xã hội:
Trong tiếng Hán, chữ tế có nghĩa là giúp, cứu tế xã hội là cứu giúp cho các
thành viên trong xã hội khi họ gặp phải rủi ro hoặc bất hạnh nào đó mà cuộc
sống bị đe doạ nghiêm trọng, nếu không có sự cứu tế thì họ và gia đình có thể bị
nguy hại đến cuộc sống, có thể dẫn đến cái chết (chết đói, chết bệnh…). Cứu tế
xã hội, vì vậy mang tính tức thời, tính “cấp cứu” nhằm giúp cho đối tượng tạm
thời thoát khỏi tình cảnh hiểm nghèo. Cứu tế xã hội có thể bằng tiền hoặc hiện
vật, trong nhiều trường hợp, cứu tế bằng hiện vật có ý nghĩa thiết thực hơn. Cứu
tế xã hội chủ yếu giúp cho những đối tượng trong một hoàn cảnh nào đó không
thể tự lo được cuộc sống cho bản thân và gia đình (trong một thời điểm hoặc một
khoảng thời gian nào đó). Ví dụ, sự cứu giúp của xã hội cho những người già cô
đơn không còn khả năng lao động, không có bất kỳ nguồn thu nhập nào để trang
trải cuộc sống thường ngày. Hoặc những người bị thiên tai mất hết hoa màu, tài
sản và các phương tiện sinh sống, cộng đồng và xã hội phải cứu tế cho họ ngay
3
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
tại thời điểm đó, nếu không cuộc sống của họ sẽ bị đe doạ nghiêm trọng, họ có
thể bị chết đói, chết khát hoặc chết vì dịch bệnh.
Như vậy, cứu tế xã hội có thể hiểu là sự giúp đỡ nhất thời bằng tiền hoặc
hiện vật cho những đối tượng gặp rủi ro, bất hạnh đột xuất hoặc không thể tự lo
liệu được cuộc sống, nhằm giúp họ thoát ngay ra khỏi tình trạng nguy kịch, đời
sống bị đe doạ nghiêm trọng.
* Trợ giúp xã hội:
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm bằng tiền, hiện vật hoặc các điều kiện
vật chất và tinh thần khác của cộng đồng và xã hội cho các đối tượng khi họ gặp
phải khó khăn hoặc sa sút nào đó. Mặc dù họ vẫn cố gắng để tự lo liệu cuộc
sống, nhưng nếu không có sự giúp đỡ thì cuộc sống của họ ngày càng trở nên

khó khăn và dễ rơi vào cảnh bần cùng. Trợ giúp xã hội nhằm tạo cho đối tượng
có cơ hội khắc phục và giảm bớt hậu quả rủi ro tự vươn lên đảm bảo cuộc sống
của mình, sớm hoà nhập trở lại với đời sống chung của cộng đồng.
Như vậy có thể nói, trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước vừa có tính
tức thời, vừa có tính lâu dài, mà lâu dài là chủ yếu, cho các thành viên của mình
khi họ gặp phải rủi ro, bất hạnh nào đó trong cuộc sống. Trong thực tế, hầu hết
các hoạt động của CTXH là hoạt động trợ giúp xã hội (về cả phạm vi và quy mô
giúp đỡ). Chính vì vậy, nhiều khi trợ giúp xã hội được hiểu đồng nghĩa với
CTXH.
Tóm lại:
- CTXH hiểu một cách tổng quát nhất là sự giúp đỡ của Nhà nước, cộng
đồng và xã hội, bằng các biện pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên
của cộng đồng khi họ gặp phải những khó khăn, rủi ro hoặc bất hạnh trong cuộc
sống do những nguyên nhân khác nhau.
- CTXH là một trong những bộ phận hợp thành hệ thống chính sách xã hội
của Nhà nước. Đó là những chế độ chính sách, biện pháp nhằm chăm sóc, cứu
giúp những người, hoặc một bộ phận dân cư gặp rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống
dẫn đến một phần hoặc toàn bộ sức lao động, hoặc mất một phần hoặc toàn bộ
4
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
tài sản…có thêm điều kiện vượt qua khó khăn, tự mình đảm bảo cuộc sống, hoà
nhập cộng đồng.
CTXH gồm ba bộ phận công tác lớn:
1- CTTX: đối tượng chủ yếu là người già cô đơn, trẻ em mồ côi, trẻ em lang
thang, người tàn tật.
2- CTĐX: đối tượng là những người gặp thiên tai, địch hoạ, gặp rủi ro trong
cuộc sống, những người bị thiếu đói giáp hạt (chủ yếu là hậu quả của thiên tai).
3- Tổ chức cải hoá nhằm nâng đỡ tạo điều kiện cho những người lầm lỡ,
không may sa vào các tệ nạn xã hội như: mại dâm, nghiện hút, xin ăn…trở lại

cuộc sống bình thường.
2. Cứu trợ đột xuất và công tác cứu trợ đột xuất
2.1. Khái niêm
Cứu trợ đột xuất là sự giúp đỡ các điều kiện sinh sống của Nhà nước,
cộng đồng và xã hội cho những thành viên khi họ gặp phải những khó khăn và
rủi ro bất ngờ như thiên tai, địch hoạ, hoả hạn, tại nạn…làm cuộc sống tạm
thời bị đe doạ, nhằm giúp họ nhanh chóng khắc phục những khó khăn, rủi ro,
ổn định cuộc sống và hoà nhập trở lại cộng đồng. CTĐX bao gồm các chính
sách chế độ, biện pháp nhằm cứu giúp những thành viên trong cộng đồng mỗi
khi gặp rủi ro bất hạnh trong cuộc sống, có thêm điều kiện vượt qua khó khăn
sớm ổn định cuộc sống sản xuất.
Công tác cứu trợ đột xuất: bao gồm tổng hợp tất cả các hoạt động liên
quan đến CTĐX cho các đối tượng, từ khâu xây dựng chính sách, huy động
nguồn lực đến khâu tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách. Trong công tác
CTĐX thì khâu huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện cứu trợ được coi là
khâu có ý nghĩa quan trọng nhất, kết quả của nó có ý nghĩa quyết định đến
thành công hay thất bại của công tác CTĐX.
2.2. Đối tượng của cứu trợ đột xuất.
5
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
Đối tượng của CTĐX rất rộng, là tất cả mọi thành viên trong xã hội, không
phân biệt vị thế và thành phần của họ. Nhưng những đối tượng này chỉ được trợ
giúp khi họ gặp phải những rủi ro bất hạnh trong cuộc sống do những nguyên
khác nhau, mà nếu không có sự CTĐX (tức thời) thì cuộc sống hiện tại của họ sẽ
bị đe doạ nghiêm trọng.
CTĐX thường áp dụng cho các đối tượng sau:
- Những người bị thiên tai, hoả hoạn…làm mất một phần hoặc toàn bộ nhà
ở, hoa màu, tài sản và các phương tiện sinh sống.
- Những người bị thiếu lương thực trong thời kỳ giáp hạt, do sống ở những

vùng điều kiện tự nhiên không thuận lợi hoặc những người bị mất mùa đột xuất
mà không có nguồn hỗ trợ nào khác, bị lâm vào cảnh thiếu đói.
- Những người bị tai nạn chiến tranh hoặc tai nạn xã hội, tạm thời bị mất
nguồn sinh sống…
Như vậy, đối tượng của CTĐX có thể bao gồm cả nhưng người thuộc diện
CTTX ở một số thời điểm hoặc một hoàn cảnh nào đó. Ngược lại, những đối
tượng thuộc diện CTĐX, sau thời điểm xảy ra “rủi ro” quá lớn, họ không còn
khả năng tự đảm bảo cuộc sống được nữa, khi đó họ có thể trở thành đối tượng
của CTTX. Cách phân chia đối tượng của CTTX và CTĐX chỉ mang tính tương
đối và CTTX và CTĐX chỉ nêu nên mục đích và phương thức giúp đỡ của xã hội
cho những người gặp khó khăn, rủi ro bất hạnh mà thôi.
2.3. Nội dung của cứu trợ đột xuất
Với cách hiểu về CTĐX như trên, có thể thấy CTĐX sẽ bao gồm những
nội dung chủ yếu sau:
1- Cứu trợ về đời sống nhân dân (ăn, mặc, ở…) sau thiên tai.
Công việc cứu trợ về đời sống cho nhân dân sau thiên tai là một trong
những nội dung công việc khá quan trọng của CTĐX. Nó giữ vai trò trợ giúp về
đời sống cho nhân dân vùng thiên tai (về cả vật chất và tinh thần), tạo điều kiện
6
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
ban đầu để người dân có thể nhanh chóng ổn định lại cuộc sống, tiếp tục lao
động, sản xuất.
2- Cứu giúp nhân dân bị tai nạn ở những vùng xảy ra chiến tranh.
Mặc dù chiến tranh đã lùi xa chúng ta hơn 30 năm nhưng công việc CTĐX
cho nhân dân ở những vùng xảy ra chiến tranh vẫn luôn luôn được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm, sẵn sàng mỗi khi có tình huống xảy ra. Đây là một
hoạt động vô cùng quan trọng mà vai trò của nó chắc không ai có thể phủ nhận
được, nó không những có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có cả ý nghĩa
về chính trị và an ninh - quốc phòng.

3- Hỗ trợ khi có đói giáp hạt (phần lớn là do hậu quả thiên tai)…
Trước đây trong thời kỳ chiến tranh, đói giáp hạt là một hiện tượng phổ
biến, là hậu quả của nhiều biến cố (cả chiến tranh, cả thiên tai), chiếm đến phần
lớn công việc của CTĐX. Từ khi chiến tranh kết thúc, đói giáp hạt là vẫn một
hiện tượng tuy không còn phổ biến nhưng vẫn thường xuyên xảy ra một cách cục
bộ ở nơi này hay nơi khác trên đất nước ta mà phần lớn là đói giáp hạt do hậu
quả của thiên tai. Chính vì vậy hỗ trợ khi có đói giáp hạt vẫn là một nội dung
công việc của CTĐX.
2.4. Nguyên tắc của cứu trợ đột xuất
CTĐX cần coi trọng các nguyên tắc:
1- Nắm chắc tình hình, luôn có kế hoạch dự phòng sát với từng vùng, từng
địa phương.
2- Việc cứu trợ phải nhanh chóng, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chính sách
đến tận tay người cần cứu trợ.
3- Cứu trợ tập trung vào những vùng tổn thất nặng, cứu trợ cho những
người không có khả năng tự cứu mình, không bình quân dàn đều; cứu trợ để
nâng đỡ vượt qua khó khăn, không cứu trợ để ỷ lại.
7
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
4- Là trách nhiệm của cả 3 phía: Nhà nước, cộng đồng xã hội và người cần
cứu trợ, trong đó chú ý phát huy sức mạnh cộng đồng, cứu trợ kịp thời tại chỗ
ngay sau khi có thiên tai…
2.5. Nguồn kinh phí và quá trình tổ chức thực hiện.
Trước đây và thậm chí cho tới nay, nguồn kinh phí để thực hiện CTĐX phần
lớn là từ ngân sách nhà nước và một phần là do sự đóng góp của cộng đồng và
xã hội.
Cụ thể:
- Ngân sách nhà nước cân đối hàng năm; ngân sách tỉnh, huyện tự cân đối;
- Do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ;

- Trợ giúp của nước ngoài, tổ chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho địa phương
hoặc thông qua chính phủ, các đoàn thể xã hội.
Trường hợp các nguồn kinh phí trên không đủ để thực hiện cứu trợ xuất thì
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ
tướng Chính phủ, xem xét quyết định.
Trong tương lai, phần đóng góp, huy động từ cộng đồng và xã hội có xu
hướng tăng lên nhằm giảm gắng nặng cho ngân sách nhà nước. Bởi vì càng ngày
đời sống nhân dân càng được nâng lên; cộng thêm công tác tuyên truyền, vận
động phát huy truyền thống lá tương thân tương ái, lành đùm lá rách của dân tộc
được thực hiện tốt.
Về quá trình tổ chức thực hiện, căn cứ theo những nguyên tắc của hoạt động
cứu trơ, CTĐX là một công việc đòi hỏi nhanh chóng, kịp thời. Đòi hỏi sự phối
hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau; giữa các Bộ, ngành với
nhau, thống nhất từ Trung ương tới các cấp cơ sở vùng bị thiệt hại. Theo đó, quá
trình tổ chức thực hiện được tổ chức như sau:
8
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
- Chính quyền cấp cơ sở nơi có thiên tai xảy ra căn cứ vào chỉ đạo cấp trên
tiến hành xác định, lập danh sách đối tượng; kế hoạch và tình hình huy động
nguồn lực trình cấp trên xem xét, giải quyết.
- Theo báo cáo cấp cơ sở, cấp trên xem xét, lập kế hoạch và tổ chức thực
hiện.
Cụ thể, về quá trình tổ chức thực hiện sẽ được trình bày rõ ở Chương II của
Chuyên đề này.
II. VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta.
Nước ta là một nước xã hội chủ nghĩa. Tất cả mọi hoạt động của Đảng và
Nhà nước đều nhằm xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất

của lợi ích thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất. Mọi nỗ lực của
Đảng đều nhằm mục đích sao cho nhân dân ngày càng có cuộc sống tốt hơn.
Khi một bộ phận dân cư gặp khó khăn, hoạn nạn, Nhà nước tổ chức cứu giúp
nhân đảm bảo công bằng xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn coi đó là trách
nhiệm cũng như nghĩa vụ của mình. Bởi vậy có thể nói, CTĐX chính là một
hoạt động thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta.
2. Phù hợp với truyền thống của người Việt Nam.
Người Việt Nam từ bao đời nay đã có truyền thống tương thân tương ái, “lá
lành đùm lá rách, là rách ít đùm lá rách nhiều”, “một miếng khi đói bằng một gói
khi no”…cứu giúp nhau mỗi khi một hay một số thành viên của mình gặp khó
khăn.
Mỗi khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra thì tất cả cộng đồng đều chung tay, góp
sức giúp nhau khắc phục hậu quả, sớm ổn định sản đời sống và sản xuất. Và
càng ngày thì truyền thống này càng được phát huy thể hiện những nghĩa cả cao
đẹp và tình thần đoàn kết dân tộc của dân tộc ta. Điều này được thể hiện khá rõ
9
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
qua những thành công của hàng loạt các chương trình như: tấm lòng vàng, quỹ
từ thiện, ủng hộ đồng bào bão lụt…
Bởi vậy, CTĐX là hoạt động vừa thể hiện truyền thống của người Việt
Nam vừa là hoạt động nhằm phát huy những truyền thống này. Nhờ hoạt động
cứu trợ này lòng tin, tính đoàn kết trong nhân dân ngày càng được tăng cường
và củng cố.
3. Phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục hậu quả thiên tai
Đúng như khái niệm về cứu trợ đột xuất đã trình bày ở trên, CTĐX là sự
giúp đỡ các điều kiện sinh sống của Nhà nước, cộng đồng và xã hội cho những
thành viên khi họ gặp phải những khó khăn và rủi ro bất ngờ như thiên tai,
địch hoạ, hoả hạn, tại nạn…nhằm giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả
thiên tai, ổn định cuộc sống và hoà nhập trở lại cộng đồng. Khi thiên tai, địch

hoạ chưa xảy ra, CTĐX giúp cho các đối tượng (cộng đồng) tăng khả năng
phòng ngừa và đối phó với những hậu quả xấu do thiên tai, địch hoạ gây ra
như: xây dựng hệ thống đê điều, kè cống, trồng rừng chắn gió, di dời dân đến
nơi an toàn; khi thiên tai xảy ra, CTĐX giúp các đối tượng giảm nhẹ ảnh
hưởng của chúng, thoát khỏi nơi nguy hiểm và khi thiên tai đã xảy ra rồi,
CTĐX tham gia hỗ trợ các đối tượng, nhanh chóng ổn định lại cuộc sống, tái
sản xuất trở lại và hoà nhập cộng đồng (trợ giúp tiền, gạo, lương thực - thực
phẩm, quần áo, thuốc men, cây, con giống…). Chính vì vậy, phòng ngừa, giảm
thiểu và khắc phục hậu quả thiên tai là một trong những vai trò hết sức quan
trọng của CTĐX trong phát triển kinh tế - xã hội, giúp cộng đồng nhanh chóng
vượt qua khó khăn trước mắt, ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế.
4. Góp phần giảm bớt khó khăn trước mắt, chênh lệnh mức sống và xoá
đói giảm nghèo.
CTĐX là hoạt động nhằm vào những đối tượng khó khăn nhất trong những
thời điểm nguy kịch nhất. CTĐX nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng
này trong những lúc cần thiết nhất, góp phần giảm bớt khó khăn trước mắt (ngay
tại thời điểm đó), nếu không có hoạt động này thì đời sống của những đối tượng
10
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
này sẽ rơi vào tình trạng mà không ai có thể nói trước được. Qua được lúc khó
khăn nhất cộng với sự nỗ lực của bản thân và sự trợ giúp của Nhà nước qua các
Chương trình khác, nhân dân sẽ nhanh chóng khôi phục lại sản xuất, phát triển
kinh tế gia đình, giảm bớt chênh lệnh mức sống.
Mặt khác, một thực tế là những người phải CTĐX phần lớn là những người
nghèo - đối tượng yếu thế trong xã hội, không có hoặc rất ít khả năng phòng bị
và đối phó với các điều kiện khách quan bất lợi. CTĐX giúp đỡ nhưng đối tượng
này cũng tức là CTĐX đã phần nào thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát
triển kinh tế - xã hội. Nó chỉ là phần nào vì xoá đói giảm nghèo là chương trình
đòi hỏi thực hiện theo một quá trình lâu dài và bền bỉ với sự hỗ trợ và giúp đỡ từ

nhiều phía cộng với nỗ lực của chính bản thân những người nghèo.
5. Góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Qua những vai trò quan trọng của công tác CTĐX đã nói ở trên thì rõ ràng
là: thực hiện CTĐX là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm cứu
giúp những đối tượng khó khăn, tạo cho họ những cơ hội ban đầu để có một cuộc
sống tốt hơn, phát triển kinh tế gia đình. Mỗi “gia đình là tế bào xã hội”, kinh tế
gia đình của các đối tượng này phát triển và giàu lên cũng tức là kinh tế đất nước
phát triển và giàu lên.
Mỗi cá nhân chỉ có thể phát triển được nếu họ có điều kiện sống, sản xuất
tốt, không bị cản trở gì. Thực vậy, “người” có công đầu trong việc tạo cho cá
nhân nhũng điều kiện này chính là CTĐX.
Bởi vậy có thể nói, công tác CTĐX là hoạt động góp phần tích cực vào sự
phát triển kinh tế - xã hội.
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC CỨU
TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT.
11
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
CTĐX là một trong những mảng công tác quan trọng của hoạt động BTXH,
cũng như trong hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam. BTXH cho những người
chịu thiệt thòi trong cuộc sống luôn luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm.
Coi đó là một nhiệm vụ quan trọng để ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, trước tình hình khó khăn
của đất nước và nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng tới
công tác CTXH. Người coi nạn đói cũng như nạn dốt và nạn ngoại xâm là ba thứ
giặc tệ hại nhất cần phải thanh toán và Bộ Cứu tế xã hội đã được thành lập phụ
trách hoạt động CTXH (gồm cả CTĐX và CTTX).
Từ đó cho tới nay, công tác CTXH đột xuất luôn được tổ chức thực hiện
ngày càng rộng rãi. Hoạt động của nó luôn luôn được gắn chặt với hoạt động của
các Bộ, ban ngành chuyên môn, đầu tiên là với Bộ Cứu tế xã hội và tiếp theo là

Bộ Lao động và cuối cùng là Bộ LĐTBXH.
CTĐX có hai giai đoạn là cứu trợ ban đầu (trong và sau khi xảy ra thiên tai
phải tìm kiếm người, cưu mang những trường hợp không còn nhà ở, đói, rét,
đảm bảo an toàn cuộc sống…) và cứu trợ giải quyết hậu quả sau các biến cố (hỗ
trợ để giải quyết những hậu quả để lại sau thiên tai, địch hoạ, thông thường là
cứu đói và hỗ trợ khôi phục sản xuất trở lại cho nhân dân những vùng có nạn đói
và mất mùa do hậu quả của thiên tai, địch hoạ).
Những năm trước năm 1975, CTĐX chủ yếu thực hiện hai nhiệm vụ là cứu
trợ khắc phục hậu quả thiên tai và cứu trợ khắc phục hậu quả chiến tranh (địch
hoạ). Nhưng từ năm 1975 đến nay, chiến tranh kết thúc, hoà bình lập lại, hoạt
động CTĐX chủ yếu đi vào thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả thiên tai (bão,
lũ, lụt, hạn hán…).
Cụ thể quá trình hình thành và phát triển của công tác CTĐX được phân
theo các giai đoạn lịch sử như sau:
12
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
1. Giai đoạn 1945 – 1964
Nhiệm vụ chủ yếu của CTĐX trong giai đoạn này là “cứu đói ở miền Bắc
và kháng chiến ở miền Nam”
(1)
. Chính phủ chỉ đạo nhiêm vụ CTXH cho các đối
tượng chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống và những người không may rơi vào
hoàn cảnh thiếu đói do thiên tai bão lụt, mất mùa; trước hết tập trung giải quyết
hậu quả 2 triệu người chết đói ở Bắc Bộ do chính sách bóc lột, vơ vét thóc gạo,
nhổ lúa trồng đay của phát xít Nhật, kế đó lại bị lụt lớn, nạn đói càng tăng thêm,
nhân dân càng khốn khó. Trước tình hình đó ngày 3/9/1945 theo đề nghị của Hồ
Chủ Tịch, Chính phủ đã quyết định phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất
cứu đói. Tiếp đó, ngày 28/9/1945 Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi đồng bào toàn quốc
ra sức cứu đói bằng hình thức “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn

ba bữa. Đem gạo đó để cứu dân nghèo”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ
và Hồ
Chủ Tịch cả nước đã dấy lên phong trào nhường cơm sẻ áo, lập hũ gạo, lập tổ
chức nghĩa thương tiết kiệm để cứu đói dân nghèo. Cùng với việc đó, Đảng và
Nhà nước ta thực hiện một số chính sách xã hội để ổn định một phần đời sống
nhân dân lao động. Thực tế, hàng chục hộ, gia đình nghèo đã được trợ giúp
lương thực - thực phẩm, quần áo… và nạn đói được đẩy lùi.
2. Giai đoạn từ 1965 – 1975
Đây là giai đoạn miền Bắc bị tàn phá nặng nề của chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ. Hàng vạn dân, nhà cửa, ruộng nương tài sản bị huỷ hoại; đau
thương tang tóc đè nặng, con mất cha, vợ mất chồng, côi cụt goá bụa…Thêm
vào đó là ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, nhất là trận lụt năm 1971 ở các tỉnh
vùng Đồng bằng Sông Hồng, gây nên cảnh mất mùa, đói kém. Nhiệm vụ của
công tác CTĐX lúc này là tập trung chủ yếu giúp đồng bào nhân dân chịu ảnh
hưởng của thiên tai đói kém; những vùng chịu ảnh hưởng của bom đạn Mỹ gây
nên nhằm ổn định đời sống nhân dân; tiếp tục tăng gia sản xuất và chiến đấu
chống chiến trang phá hoại bằng không quân của Mỹ, đồng thời vẫn chi viện tối
(1)
(1)Hồ chí Minh toàn tập- nxb Sự thật, T. IV, tr . 65
13
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
đa sức người, sức của cho tiền tuyến lớn ở miền Nam. Thực hiện nhiệm vụ này
Chính phủ đã ban hành Thông tư 08/NV ngày 29/4/1967 về việc cứu tế cho nạn
nhân của thiên tai bão lụt.
Nhìn chung, chính sách CTĐX trong thời kỳ này tập trung chủ yếu
vào trợ cấp (cứu tế) cho những nạn nhân của thiên tai, bão lụt, mất mùa và
những nạn nhân của chiến tranh. Mức trợ cấp xã hội ở cộng đồng trước những
năm 1975 chủ yếu bằng thóc và quỹ được hình thành từ hợp tác xã nông
nghiệp. Chính sách trợ cấp bằng hiện vật và tại chỗ của thời kỳ này có ý nghĩa

quan trọng để bảo đảm cuộc sống cho các đối tượng xã hội ở hậu phương. Mặt
khác nó cũng tác động rất lớn tới sự yên tâm và quyết tâm chiến đấu của lực
lượng vũ trang, thanh niên xung phong và dân công hoả tuyến trên chiến
trường.
3. Giai đoạn từ 1976 – 1985
Đây là thời mà chiến tranh đã kết thúc nhưng hậu quả gần 30 năm mà nó
để lại cho nước ta là vô cùng nặng nề. Thêm vào đó thiên bão lụt, mất mùa,
kinh tế chậm phát triển dẫn đến hàng năm có tới gần 1 triệu người rơi vào
hoàn cảnh thiếu đói gay gắt đặt gánh nặng nên vai những người làm công tác
CTĐX. Về hình thức trợ cấp, thời kỳ này có thêm trợ cấp bằng tiền. Nguồn
thực hiện cứu trợ chủ yếu bằng ngân sách nhà nước đồng thời rất chú trọng
phát huy sức mạnh của cộng đồng, dựa vào truyền thống nhân ái và sức mạnh
của quần chúng nhân dân.
4. Giai đoạn từ 1986 đến nay
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa, rất nhiều vấn đề mới đã nảy sinh, công tác
BTXH nói chung và CTĐX nói riêng cũng có sự đổi mới về nhận thức trong
hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện. Nếu như giai đoạn 1945 - 1985
chính sách CTĐX chỉ tập trung vào trợ giúp, cứu tế nhằm mục tiêu ổn định
đời sống cho các đối tượng, thì giai đoạn từ 1986 đến nay đã thực hiện đầy đủ
14
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
cả hai chức năng: trợ giúp để ổn định và trợ giúp để tự lo, trong đó trợ giúp để
tự lo có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hệ thống chính sách đã có bước phát
triển mới, nếu như trước năm 1986 chủ yếu là các văn bản đơn hành thì đến
giai đoạn này đã mang tính hệ thống, toàn diện và đa dạng hơn. Chính sách về
CTĐX đã được ban hành tại Quyết định số 185/1999/QĐ-TTg ngày 13/9/1999
của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 08/2000/QĐ-TTg ngày 17/01/2000

của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 của
Chính phủ. Theo đó, chính sách CTĐX đã có hai lần thay đổi:
Lần thư nhất: CTĐX cho cứu đói giáp hạt hoặc thiên tai bão lụt chủ yếu
bằng hiện vật (gạo, quần áo, thuốc men…) với mức 5 kg/gạo/người/tháng, thời
gian từ 1 đến 3 tháng. Từ năm 1996 do mức sống của nhân dân đã được nâng
cao, nên mức CTĐX cũng được nâng lên từ 8-10 kg gạo/người/tháng; ngoài trợ
cấp cứu đói còn có các khoản trợ cấp mai táng phí, chữa trị cho người bị thương
nặng, hỗ trợ sửa lại nhà bị sập đổ hư hỏng, trôi mất.
Lần thứ hai: mức CTĐX cho các đối tượng (trừ đối tượng là người lang
thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú) do Chủ tịch UBND
tỉnh/thành phố quyết định tuỳ mức độ thiệt hại và khả năng huy động nguồn lực
chứ không quy định săn như trước nữa.
Trong giai đoạn này cũng có hai sự thay đổi đáng kể trong cơ chế và chính
sách. Đó là thực hiện cơ chế mở, tự quản, giao quyền chủ động cho Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh quyết định một số mức trợ cấp cụ thể cho phù hợp với tình
hình và điều kiện cụ thể của địa phương.
Đến nay, công tác CTĐX do một số cơ quan: Bộ LĐTBXH, Uỷ ban mặt
trận tổ quốc, Hội CTĐ, Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương cùng phối hợp
thực hiện. Trong đó, Bộ LĐTBXH là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước
về CTĐX. Nhiệm vụ chủ yếu là tập trung vào giúp các đối tượng khắc phục hậu
quả thiên tai, cứu đói.
15
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
IV. NHỮNG NHÂN TỔ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI
ĐỘT XUẤT.
1. Điều kiện tự nhiên
Đối với nước ta, điều kiện tự nhiên là yếu tố có ảnh hưởng có ảnh hưởng rất
lớn đến công tác CTĐX. Những điều kiện tự nhiên chủ yếu có ảnh hưởng đến
công tác CTĐX bao gồm: Điều kiện về thời tiết khí hậu và điều kiện về địa hình.

1.1. Đặc điểm về thời tiết khí hậu
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa,
khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thì mưa quá to,
lũ lụt lớn; mùa khô thì khô quá mức, hạn hán kéo dài; hàng năm phải hứng
chịu đến 70% số cơn bão của khu vực (trung bình từ 4 đến 6 cơn/năm).
Đặc biệt trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến có xu hướng khó
lường một mặt do thay đổi khí hậu toàn cầu, mặt khác do rừng bị tàn phá nặng
nề, môi trường sinh thái chuyển biến theo hướng xấu nên thiên tai xảy ra ngày
càng nhiều hơn, với cường độ và mức độ tàn phá ngày càng lớn gây mất mát lớn
về người và tài sản cũng như các công trình công cộng. Đối tượng phải CTĐX
hàng năm rất lớn và đa dạng. Công tác CTĐX mặc dù luôn coi trọng khâu nắm
tình hình để tổ chức thực hiện nhưng trước những diễn biến đó công tác CTĐX
cũng gặp nhiều khó khăn và thường ở trong tình trạng bị động.
1.2. Đặc điểm về địa hình
Nước ta với diện tích không lớn nhưng trải dài từ Bắc xuống Nam. Địa hình
hẹp và tương đối phức tạp hàng năm đều có thiên tai xảy ra ở nhiểu địa phương,
đặc biệt là ở khu vực miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và ĐBSCL
gây thiệt hại nặng về người, tài sản, mùa màng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của nhân dân và sự phát triển kinh tế của đất nước.
Miền Bắc thì đồi núi hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn thường xuyên bị
ảnh hưởng của lũ quét, lũ ống và sạt lở đất. Miền Trung, địa hình nhỏ hẹp, đất
đai cằn cỗi, là khu vực hàng năm phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất của bão lũ và
16
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
hạn hán. Miền Nam, đặc biệt là khu vực ĐBSCL địa hình thấp, thường xuyên bị
mưa lũ, ngập úng, cơ sở hạ tầng phòng hộ thì yếu kém.
Với điều kiện địa hình như vậy nên cộng tác cứu trợ mỗi khi triển khai
thường gặp nhiều khó khăn, không chủ động, đáp ứng không kịp thời yêu cầu
của nhân dân.

Như vậy có thể nói đối với nước ta, điều kiện tự nhiên là nhân tố có tác
động rất lớn tới công tác CTĐX - chủ yếu là tác động tiêu cực. Những tác động
này đã và sẽ làm cho công tác CTĐX gặp nhiều khó khăn. Do đó mà trong thời
gian tới Bộ LĐTBXH cũng như các cơ quan chức năng khác cần phối hợp chặt
chẽ với chính quyền các địa phương để chủ động nắm tình hình và khuyến nghị
với Chính phủ các chính sách về đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, khắc phục những
khó khăn về điều kiện địa hình; phát triển kinh tế cho các vùng có địa hình hiểm
trở và phức tạp, tạo điều kiện tốt nhất cho các hoạt động cứu trợ và tăng khả
năng tự phòng chống thiên tai cho các địa phương này.
2. Các điều kiện về kinh tế - xã hội
Cũng như những điều kiện về tự nhiên, các điều kiện kinh tế - xã hội của
nước ta cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến công tác CTĐX. Nếu như điều
kiện tự nhiên là những nhân tố có tác động khách quan thì điều kiện kinh tế - xã
hội lại là những nhân tố có ảnh hưởng một cách chủ quan tới công tác CTĐX mà
chúng ta hoàn toàn có thể điều tiết được chúng. Các điều kiện kinh tế - xã hội ở
đây chủ yếu là: Điều kiện về cơ sở hạ tầng; quá trình đô thị hoá, phong tục tập
quán; cơ chế, chính sách đầu tư; chính sách hỗ trợ sản xuất…
2.1. Cơ sở hạ tầng
Trong những năm qua mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng rất nhiều
tới vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo; nhiều
Chương trình, dự án đã được xây dựng và thực hiện (Chương trình 133, 135…)
bước đầu về cơ bản đã thu được những thành quả đáng kể, nhưng do nguồn vốn
còn hạn chế, quá trình tổ chức thực hiện, quản lý còn chưa tốt cho nên tới nay cơ
17
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
sở hạ tầng phần lớn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã
hội. Do cơ sở hạ tầng chưa phát triển theo yêu cầu nên kinh tế nhiều vùng vẫn
còn nghèo, khả năng tự ứng phó với các điều kiện tự nhiên không có. Do đó, khi

thiên tai, địch hoạ xảy ra thì để lại những tổn thất rất nặng nề và công tác tổ chức
di dời và cứu trợ gặp rất nhiêu khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả của công tác
cứu trợ.
2.2. Quá trình đô thị hoá
Do yêu cầu của quá trình phát triển, CNH, HĐH và đô thị hoá là quá trình
tất yếu diễn ra ở các quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển. Trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, vấn đề đô thị hoá đã trở thành một hiện tượng
kinh tế - xã hội bức xúc. Rõ ràng không ai có thể phủ nhận được lợi ích của quá
trình quá trình CNH, HĐH. Nhờ có quá trình CNH, HĐH mà bộ mặt của nhiều
vùng đã đổi thay từng giờ, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhưng
cũng phải thừa nhận rằng, đi đôi với những lợi ích mà nó mang lại cũng có
những mặt trái, đó là: quá trình CNH, HĐH tất yếu kéo theo quá trình đô thị hoá,
đô thị hoá càng tăng thì đất đai cho sản xuất nông càng bị thu hẹp. Ở một quốc
gia mà hơn 80% dân số sống dựa vào nông nghiệp thì đất đai cho sản xuất nông
nghiệp là hết sức quan trọng – đất đai gắn liền với cuộc sống của người nông
dân. Việc mất đất canh tác là một hẫng hụt lớn đối với người nông dân, nhất là
đối với những gia đình từ nhiều đời nay đã gắn bó với ruộng đồng, với nghề
nông. Trong khi họ lại chưa chuẩn bị gì để bước vào đời sống kinh tế đô thị, với
các nghề phi nông nghiệp, đòi hỏi trình độ văn hoá, tay nghề và có thể cả vốn
lớn. Đất đai bị thu hẹp làm cho những người nông dân (nghèo) chỉ còn được
trông chờ vào một diện tích nhỏ sản xuất cho nên khi có thiên tai xảy ra thì
những hộ gia đình của bộ phận dân cư này có nguy cơ mất trắng toàn bộ diện
tích sản xuất càng cao dẫn đến nguy cơ thiếu đói (giáp hạt) càng lớn, Nhà nước,
cộng động xã hội lại phải cứu trợ. Tuy nhiên những hiệu ứng xấu này cho tới nay
vẫn được đánh giá là nhỏ hơn hiệu ứng tích cực mà nó tạo ra. Nhưng nói như vậy
không có nghĩa là chúng ta cứ kệ cho nó diễn ra một cách tự nhiên mà ngược lại
18
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
chúng ta phải luôn có các biện pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những hiệu

ứng tiêu cực này.
Như vậy có thể thấy, quá trình đô thị hoá là nhân tố tuy phần lớn có tác
động tích cực đến công tác CTĐX. Công nghiệp hoá, hiên đại hoá và đô thị hoá
làm cho kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được đầu tư, cải tạo và nâng cấp; tăng
khả năng tạo nguồn và tự phòng chống rủi ro cho nhân dân làm cho công tác
CTĐX được dễ dàng và thuận lợi hơn nhưng mặt khác chúng ta cũng phải có
biện pháp để dè chừng quá trình này không để nó diễn ra một cách tự phát. Tuy
nó chỉ là những hiệu ứng tiêu cực nhỏ nhưng chỉ từng đó thôi cũng đã đủ để làm
cho các nhà quản lý phải đau đầu.
2.3. Phong tục tập quán
.......Nước ta đất trật, người đông; sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP. Người dân Việt Nam đã quen với thói quen sản xuất nhỏ, tự cung
tự cấp, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Với
phong tục, thói quen sản xuất như vậy lại trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt,
bất thường, cơ sở hạ tầng yếu kém nên khi xảy ra thiên tai thì người dân rất dễ
có khả năng mất hết, mất trắng mùa màng và hoàn toàn có thể rơi vào tình
trạng thiếu đói chứ chưa kể bình thường đã có nhiều người ở nhiều vùng, địa
phương thường xuyên bị thiếu đói giáp hạt do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Chính vì vậy, phong tục tập quán lạc hậu đang là yếu tố cản trở sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, đồng thời làm tăng gánh nặng cho công tác cứu trợ.
2.4. Cơ chế, chính sách đầu tư
Trong những năm qua với sự nỗ lực đầu tư của Chính phủ cho các xã
nghèo, vùng nghèo, nhiều Chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã được
thực hiện (Chương trình 327, 135, 133,…) tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực
nông thôn đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách đầu tư cho
các vùng này còn nhiều hạn chế; so với khu vực thành thị, khu vực nông thôn
vẫn chưa được đầu tư đúng mức để đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các
vùng, chênh lệch mức sống còn lớn, khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng
19
19

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
gia tăng. Thêm vào đó là quá trình đầu tư chưa gắn với một quy hoạch hợp lý.
Chính vì vậy, ở khu vực nông thôn, biên giới, hải đảo vẫn thường xuyên phải
đối mặt với những khó khăn, nghèo đói; nguy cơ đói giáp hạt, khả năng phòng
chống với các diễn biến của thiên tai thấp. Những điều này cũng dẫn đến hậu
quả là làm tăng gánh nặng cho công tác cứu trợ.
2.5. Chính sách hỗ trợ sản xuất
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gây gắt, cộng thêm điều
kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt, trong khi ở các nước phát triển Chính phủ
đã có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân trong sản xuất nông nghiệp, thập chí bảo
hộ sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy mà người nông dân của họ ít phải đối mặt với
khó khăn và có khả năng chịu đựng cao mỗi khi xảy ra khó khăn, công tác cứu
trợ ít phải thực hiện. Còn ở nước ta một quốc gia đang phát triển - gần 80% dân
số phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, đời
sống nhân dân còn nhiều khó khăn thì Chính phủ lại chưa có được những chính
sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp thích đáng, thêm vào đó là những diễn biến
phức tạp của điều kiện tự nhiên cho nên đời sống của nhân dân (nông thôn) rất
khó khăn, hàng năm số người bị thiếu đói giáp hạt còn rất cao. Mỗi năm ngân
sách nhà nước phải chi đến hàng nghìn tỷ đồng cho việc cứu trợ (đột xuất) cho
những đối tượng này, làm tăng nguồn ngân sách cứu trợ, ảnh hưởng đến chất
lượng cứu trợ.
2.6. Kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và những mặt
trái của của nó.
Từ khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình hình kinh tế, xã hội
đã có nhiều biến đổi sâu rộng.
Tuy gọi là nền kinh tế thị trường những thực chất vẫn là một nền kinh tế
đang trong giai đoạn chuyển đổi, chưa hoàn thiện. Do đặc điểm này mà hầu hết
các chính sách, cả chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều mang một đặc
điểm chung và thiếu tính thực tiễn và chưa đồng bộ.

20
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
Kinh tế càng phát triển, sự phân hoá và cách biệt mức sống giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng, các địa phương, giữa các khu vực và ngành kinh tế,
cũng như giữa các tầng lớp dân cư xã hội ngày một sâu sắc. Tình trạng “kẻ ăn
không hết, người lần không ra” không phải không phổ biến trong bức tranh đời
sống xã hội nước ta hiện nay. Phân hoá giàu nghèo có xu hướng làm tăng đối
tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, dễ gặp rủi ro khi có những biến cố đột xuất như
thiên tai, địch hoạ và cuối cùng là làm tăng số đối tượng CTĐX.
Cùng với sự phân hoá và cách biệt mức sống giữa các tâng lớp dân cư, kinh
tế thị trường cũng làm cho phong tục, tập quán, lối sống của người dân có nhiều
thay đổi. Trước kia, người dân sống với nhau trong tình làng nghĩa xóm “tối lửa
tắt đèn có nhau” thì ngày nay có lúc, có nơi mọi người đối xử vói nhau bằng
những thái độ thờ ơ, độ lạnh nhạt,…
Với những biểu hiện mặt trái hết sức tiêu biểu của kinh tế thị trường như
vậy nên mỗi khi trong cộng đồng có một hoặc một số cá nhân không may rơi vào
tình trạng khó khăn, bần cùng, cần giúp đỡ thì kết quả là họ không nhận được sự
giúp đỡ gì hoặc nhận được nhưng sự giúp đỡ chỉ là qua loa, hình thức. Đây cũng
chính là những cản trở đối với công tác CTĐX. Khi xảy ra những hiện tượng như
trên, hoạt động cứu trợ sẽ không nhận được sử ủng hộ nhiệt tình từ phía cộng
đồng, xã hội, CTĐX sẽ bị thiếu thốn cả về nhân lực và vật lực (nguồn kinh phí),
hiệu quả công tác CTĐX sẽ bị hạn chế.
Tóm lại:
Qua phân tích ở trên có thể thấy công tác CTĐX chịu tác động của rất nhiều
nhân tố, có nhân tố chủ quan, có nhân tố khách quan.
Tất cả các nhân tố tác động tới công tác CTĐX nêu trên (cả nhân tố điều
kiện tự nhiên và nhân tố kinh tế - xã hội) có nhân tố tác động tích cực, có nhân tố
tác động tiêu cực nhưng nếu chúng ta biết điều hoà chúng thì hiệu quả mà nó
đem lại sẽ rất lớn. Ngược lai, nếu không được điều hoà tốt thì nó sẽ gây những

cản trở rất lớn đối với công tác CTĐX (ở tất cả các khâu). Trong những nhân tố
đó thì điều kiện tự nhiên và vấn đề cơ sở hạ tầng có lẽ là những nhân tố tác động
21
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
mạnh nhất công tác CTĐX. Sự tác động tổng hợp của những nhân tố này có xu
hướng làm tăng số đối tượng và mức độ trầm trọng của đối tượng.
Trong thời gian tới, dự báo điều kiện thời sẽ có nhiều biến động khó lường
và nhân tố điều kiện tự nhiên vân sẽ là nhân tố có tác động mạnh và gây nhiều
khó khăn cho công tác CTĐX. Bởi vậy cần có những biện pháp để theo sát, nắm
chắc diễn biến của tình hình thời tiết từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục
thích hợp, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra. Còn với nhân
tố Cơ sở hạ tầng, tuy còn nhiều bất cập nhưng do yêu cầu của quá trình phát triển
nên trong thời gian tới yếu tố này sẽ ngày càng được cải thiện tạo nhiều thuận lợi
cho hoạt động cứu trợ.
22
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT
GIAI ĐOẠN 2000 - 2005
I. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG
TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT
Đảng ta xác định: CTXH là một trong những bộ phận hợp thành của hệ
thống chính sách xã hội nhằm thực hiện chủ trương “tăng trưởng kinh tế đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội”
(2)
. Đó là tổng hợp những giải pháp, biện pháp
cho nhóm người yếu thế do các nguyên nhân như thiên tai, địch hoạ, bệnh tật, rủi
ro, bất hạnh … để họ có thể vượt qua khó khăn, bảo đảm cuộc sống bình thường.

Đây là một nhiệm vụ có tính cấp bách kể cả trước mắt và lâu dài, mặt khác cũng
là một nhiệm vụ thường xuyên.
CTĐX là một nội dung hoạt động của công tác CTXH ,và CTXH là một
trong những nội dung quan trọng của hoạt động BTXH cho những người chịu
thiệt thòi, yếu thế trong xã hội. BTXH là một lĩnh vực rộng lớn của chính sách
xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đảng ta xác định:
BTXH là vấn đề bức thiết, liên quan đến cuộc sống của một bộ phận dân cư, gắn
(2)
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia
(3) Một số vấn đề về chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay – Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội
23
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
(3)
. BTXH cũng là nhằm vào
phát triển con người. Phát triển con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, đặt con người ở vị trí trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng cá
nhân và cả cộng đồng dân tộc. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, tiền đề thực hiện
chính sách xã hội. Ngược lại giải quyết tốt các vấn đề xã hội là điều kiện cơ bản,
là yêu cầu không thể thiếu đối với mục tiêu phát triển kinh tế. Đối với bộ phận
dân cư yếu thế, thiệt thòi cần phải có những chính sách xã hội thích hợp, hỗ trợ
hoà nhập cộng đồng.
Từ khi thực hiện cải cách nền kinh tế năm 1986 đến nay Đảng ta luôn coi
trọng việc thực hiện và phát triển các hoạt động BTXH - ASXH.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng VI có viết: từng bước xây dựng chính sách
BTXH xã hội chủ nghĩa đối với toàn dân, theo phương trâm Nhà nước và nhân
dân cùng làm dân cùng làm, mở rộng và phát triển các công trình sự nghiệp
BTXH tạo nhiều hệ thống và hình thức BTXH cho những người có công với
cách mạng và những người gặp khó khăn. Phải thường xuyên nghiên cứu bổ

sung chính sách, chế độ BTXH phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, quản lý xã hội.
Tiếp theo, trong Văn kiện Đại hội Đảng IX Đảng ta xác định: thực hiện
chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng
đồng, bao gồm bảo hiểm lao động đối với người lao động thuộc các thành phần
kinh tế, CTXH những người gặp rủi ro, bất hạnh. Chính sách xã hội được tiến
hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy
động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân,
24
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Lê Huy Đức
các tổ chức xã hội. Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí
tượng thuỷ văn và vật lý địa cầu; có kế hoạch và biện pháp tích cực chủ động
phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn…thực hiện tốt công tác CTXH, công
tác CTXH phải ngày càng kịp thời, thiết thực và hiệu quả hơn.
Với những quan điểm và chủ trương nêu trên có thể thấy, Đảng và Nhà
nước ta đã chỉ đạo tập trung phát triển chính sách CTXH (trong đó có CTĐX)
nói riêng và hệ thống chính sách BTXH trong hệ thống chính sách xã hội nói
chung theo các định hướng sau:
Thứ nhất, gắn liền chủ trương phát triển kinh tế và phát triển xã hội, lấy
kinh tế làm nền tảng để phát triển các chính sách xã hội. Từng bước tập trung ưu
tiên nguồn lực giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Thứ hai, đẩy mạnh xã hội hoá công tác CTXH trong việc huy động nguồn
lực, tổ chức thực hiện các giải pháp. Trong bối cảnh có nhiều khó khăn về kinh
tế, ưu tiên ngân sách cho đầu tư phát triển. Chủ trương xã hội hoá công tác cứu
trợ là một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Hướng chính sách là chỉ trợ cấp cho những đối tượng mà cộng đồng không giúp
đỡ được thì Nhà nước mới trợ giúp.
Thứ ba, phân cấp trong tổ chức thực hiện chính sách và các chương trình
CTXH.

CTĐX không phải là Nhà nước tổ chức đền bù tất cả những mất mát, thiệt
hại do thiên tai, địch hoạ… gây ra, mà là sự hỗ trợ một phần cho đối tượng đang
gặp khó khăn có điều kiện vươn lên. Với nguyên tắc:
- Khó khăn nhiều giúp nhiều, khó khăn ít trợ giúp ít, lấy sự cưu mang đùm
bọc cộng đồng là trước hết.
- Tính chất của công tác CTXH đột xuất phải bảo đảm ba yếu tố cơ bản là:
kịp thời, nhanh chóng và chính xác; không bỏ sót nhầm lẫn hoặc tràn lan.
25
25

×