Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Hoàn thiện mô hình quản trị tập đoàn kinh tế tại tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.9 KB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


HỒ THỊ THÙY TRANG







HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TẬP ĐOÀN KINH TẾ TẠI TẬP
ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU
HỘI NHẬP NỀN KINH TẾ QUỐC TẾ


LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH








Hà Nội - 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

HỒ THỊ THÙY TRANG






HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TẬP ĐOÀN
KINH TẾ TẠI TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN
THÔNG VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU
HỘI NHẬP NỀN KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60.34.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.PHẠM THU HƯƠNG


Hà Nội - 2008
MỤC LỤC
Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………
1
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĐKT …………….
4

1.1 Khái niệm và đặc điểm của TĐKT ………………………………………….
4
1.1.1 Khái niệm về TĐKT …………………………………………………
4
1.1.2 Đặc điểm của TĐKT …………………………………………………
6
1.2 Phân loại TĐKT ……………………………………………………………
8
1.2.1 Căn cứ vào phƣơng thức hình thành và nguyên tắc tổ chức …………
8
1.2.2 Căn cứ vào trình độ liên kết và hình thức biểu hiện …………………
9
1.3 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành các TĐKT và vai trò của các
TĐKT đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia …………………………
11
1.3.1 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành các TĐKT ……………
11
1.3.2 Vai trò của các TĐKT đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
14
1.4. Chu kỳ phát triển và xu hƣớng phát triển của các TĐKT ………………
16
1.4.1 Chu kỳ phát triển của các TĐKT ……………………………………
16
1.4.2 Xu hƣớng phát triển của các TĐKT …………………………………
22
1.5 Kinh nghiệm về phát triển TĐKT của một số nƣớc trên thế giới …………
23
1.5.1 Kinh nghiệm về phát triển TĐKT ở Nhật Bản ………………………
23
1.5.2 Kinh nghiệm về phát triển TĐKT ở Hàn Quốc ………………………

27
1.5.3 Kinh nghiệm về phát triển TĐKT ở Trung Quốc ……………………
30
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TẬP ĐOÀN TẠI VNPT ………………………
34
2.1. Giới thiệu về VNPT ……………………………………………………
34
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của VNPT …………………………
34
2.1.2. Ngành nghề kinh doanh chính ………………………………………
37
2.1.3 Mục tiêu hoạt động và ý nghĩa Thƣơng hiệu của VNPT ……………
38
2.2 Thực trạng hoạt động của VNPT khi áp dụng mô hình quản trị TĐKT …
41
2.2.1 Thực trạng họat động của VNPT trƣớc khi áp dụng mô hình quản trị
TĐKT …………………………………………………………………………
41
2.2.2 Thực trạng họat động của VNPT khi áp dụng mô hình quản trị TĐKT
47
2.3 Đánh giá về mô hình quản trị TĐKT đang áp dụng tại VNPT …………
61
2.3.1 Ƣu điểm và những kết quả đạt đƣợc khi áp dụng mô hình quản trị Tập
đoàn tại VNPT …………………………………………………………………
61
2.3.2 Một số vấn đề tồn tại cản trở tới việc triển khai mô hình quản trị Tập
đoàn tại VNPT …………………………………………………………………
79
CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN

THIỆN MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TẠI VNPT TRƢỚC YÊU CẦU HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ ……………………………………………………………
84
3.1 Phƣơng hƣớng phát triển của VNPT ………………………………………
84
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình quản trị tập đoàn tại VNPT …
87
3.3 Một số kiến nghị với Chính phủ và Bộ Thông tin và Truyền thông ………
106
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………
121
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………….
123

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCVT
: Bưu chính Viễn thông
CNTT
: Công nghệ Thông tin
DNNN
: Doanh nghiệp Nhà nước
HĐQT
: Hội đồng quản trị
TĐKT
: Tập đoàn kinh tế
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn

VNPT
: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế ngày nay, cả thế giới đều biết đến những cái tên như
General Motors, IBM, Mobil & Exxon của Hoa Kỳ; LG, Sam sung, Daewoo
của Hàn Quốc; Honda, Missubisi của Nhật Bản Các tập đoàn khổng lồ (hay
còn được gọi bằng những cái tên như Giant, Blue chip, Cheabol, Zaibatsu,
Keiretsu) này đã trở thành biểu tượng sức mạnh kinh tế của các quốc gia. Tập
đoàn kinh tế đã trở thành một hình thức phổ biến, đóng vai trò chi phối và tác
động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế ở nhiều nước. Thực tế đã chứng minh
sức mạnh của tập đoàn trong xu hướng hội nhập và cạnh tranh gay gắt trong
khu vực và trên thế giới.
Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội
nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Do đó, yêu cầu phát triển kinh
tế thời kỳ tới không chỉ là nâng cao tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối
ngoại mà còn cần chủ động tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để đi tắt,
đón đầu tạo ra những bước đột phá về kinh tế, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu so
với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tiễn khách quan này đặt ra yêu
cầu cần sớm hình thành những Tập đoàn kinh tế mạnh trong một số lĩnh vực
mũi nhọn của nền kinh tế. Hiện nay, việc thành lập các tập đoàn kinh tế đang
diễn ra khá sôi động ở nước ta và là một vấn đề được nhiều người quan tâm.
Song, sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở nước ta trong thời gian qua còn
nhiều điều đáng bàn.
Với vai trò là một Tập đoàn kinh tế chủ lực của Nhà nước trong lĩnh

vực Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ Thông tin, việc hoàn thiện mô hình
quản trị tập đoàn kinh tế tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt

2
Nam thành một Tập đoàn kinh tế vững mạnh, là một trong những “quả đấm
thép” đóng góp một phần quan trọng đối với việc tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ
công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, góp phần đưa đất nước phát triển,
hội nhập thành công trong thời đại kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa là
yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa trên người viết xin chọn đề tài: “Hoàn thiện mô hình
quản trị tập đoàn kinh tế tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế” với mục đích kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn để nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn vấn đề quản trị thuộc lĩnh
vực công tác của bản thân.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình
quản trị tập đoàn kinh tế, thực trạng hoạt động của mô hình quản trị Tập đoàn
kinh tế tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, luận văn nêu lên định
hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình quản trị tập đoàn
kinh tế tại tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trước yêu cầu hội nhập
nền kinh tế quốc tế. Nhiệm vụ khoa học của luận văn:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về Tập đoàn kinh tế;
- Đánh giá thực trạng hoạt động của mô hình quản trị tập đoàn kinh tế
tại tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam;
- Nêu lên định hướng và các giải pháp thiết thực hoàn thiện mô hình
quản trị tập đoàn kinh tế tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mô hình quản trị tập đoàn kinh tế và vấn đề hoàn thiện mô hình quản trị
tập đoàn kinh tế tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trong điều kiện

hội nhập nền kinh tế quốc tế.


3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Người viết nghiên cứu đề tài xuất phát từ phương
pháp luận Mác - Lênin mà nội dung chủ yếu của nó bao gồm: chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chững duy vật.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tập hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp,
gắn lý luận với thực tiễn để luận giải và phân tích theo mục đích đề tài, bên
cạnh đó cũng áp dụng các phương pháp thống kê, so sánh và cả bảng biểu, sơ
đồ để minh hoạ.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về tập đoàn kinh tế
- Đánh giá sát thực mô hình quản trị tập đoàn kinh tế tại Tập đoàn Bưu
chính Viễn thông Việt Nam
- Nêu lên được định hướng và các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn
thiện mô hình quản trị tập đoàn tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận.
Riêng phần nội dung có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tập đoàn kinh tế
Chương 2: Thực trạng quá trình xây dựng và hoạt động của mô hình
quản trị tập đoàn tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô
hình quản trị tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam trước yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế.




4
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.1 Khái niệm và đặc điểm của Tập đoàn kinh tế
1.1.1 Khái niệm về Tập đoàn kinh tế
Là một hình thức tổ chức tiên tiến, đại diện cho trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất, Tập đoàn kinh tế (TĐKT) đã trở thành hình thức phổ
biến chi phối trực tiếp và mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế ở nhiều quốc gia
trong giai đoạn hiện nay.
Có rất nhiều quan điểm đánh giá tương đối chính xác về sự ra đời của
các TĐKT, tuy nhiên tựu trung lại có thể khẳng định sự ra đời của TĐKT có
khởi đầu là sự xuất hiện đầu máy tầu hoả chạy bằng hơi nước vào cuối thế kỷ
XVIII, do các nhà tư bản cần lượng vốn lớn để đầu tư và xây dựng các tuyến
đường sắt ở châu Âu. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và phát triển rất
mạnh vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, tạo thành một làn sóng
hợp nhất mạnh mẽ để hình thành nên các tập đoàn tư bản cực lớn. Và thuật
ngữ “Tập đoàn kinh tế” chính thức xuất hiện vào những năm 60 của thế kỷ
XX khi những tập đoàn (Conglomerate) được hình thành từ những đơn vị
kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau tạo ra những tập đoàn lớn, có tiềm
lực và quy mô hùng mạnh nhằm khai thác tối đa hiệu quả của quy mô. Tuy
nhiên, TĐKT chỉ được phát triển nhanh và thuật ngữ “Tập đoàn kinh tế” được
phát triển rộng rãi trong vòng 20 năm nay. Đó là một tổ chức kinh tế quy mô
lớn, tiềm lực kinh tế - tài chính mạnh, cơ cấu phức tạp, hoạt động trong nhiều
lĩnh vực với phạm vi rộng. TĐKT được coi như là một sản phẩm của lực
lượng sản xuất phát triển.
Mặc dù có vai trò như vậy, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về TĐKT. Nguyên nhân cơ bản là do có sự khác nhau về


5
phương thức hình thành, nguyên tắc tổ chức, hoạt động và địa vị pháp lý của
tập đoàn. Có tập đoàn được hình thành trên cơ sở như một hình thức tổ chức
kinh tế lỏng lẻo, ở đó các công ty thành viên ký kết các thoả thuận liên kết
kinh tế với nhau để lập nên một tổ chức trong đó có Công ty mẹ đóng vai trò
chi phối chiến lược chung của tập đoàn, nhưng các công ty thành viên vẫn giữ
nguyên tính độc lập kinh doanh của mình. Có tập đoàn lại được thành lập trên
cơ sở sáp nhập hoặc thôn tính theo kiểu cá lớn nuốt cá bé (take over) hình
thành một tổ chức thống nhất hoạt động theo nguyên tắc “cứng” như một
pháp nhân kinh tế. Cũng có tập đoàn hình thành trên cơ sở các công ty thành
viên thoả thuận thành lập một công ty tài chính riêng và công ty này đóng vai
trò như một công ty mẹ (Holding Company) chỉ đạo và chi phối hoạt động
của các công ty thành viên …. Tuy có sự khác biệt trong quá trình hình thành
và với những tên gọi khác nhau ở các nước khác nhau như: Chaebol (ở Hàn
Quốc), Keiretsu (ở Nhật Bản), Conglomerate(ở Phương Tây) nhưng về cơ bản
khi nói về TĐKT thì phải khẳng định rằng nó là một loại hình tổ chức kinh tế,
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, hoạt động
trong một hoặc nhiều ngành khác nhau vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận; có
thể trên một hoặc nhiều nước tuỳ thuộc vào quy mô của tập đoàn.
Mặc dù còn nhiều ý kiến chưa thống nhất nhưng có thể đưa ra một khái
niệm chung về tập đoàn như sau:
Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp các công ty hoạt động trong một
ngành hay những ngành khác nhau, trong phạm vi một nước hay nhiều nước.
Trong đó có một Công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các
công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh tế là một
cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh
tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá
lợi nhuận [13, tr.285].


6
1.1.2 Đặc điểm của TĐKT
Ngày nay, TĐKT đã trở thành một hình thức phổ biến với quy mô ngày
càng mở rộng, cấu trúc ngày càng phức tạp, hình thức biểu hiện ngày càng đa
dạng, phong phú. Tuy vậy, khi nghiên cứu các TĐKT trên thế giới, chúng ta
có thể nhận thấy chúng có một số đặc điểm chung như sau:
1.1.2.1 Về quy mô
Các TĐKT có quy rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường.
Trong tập đoàn, vốn được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, được bảo toàn
và phát triển không ngừng, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho
tập đoàn. Các TĐKT trên thế giới có hai con đường cơ bản để tạo vốn, đó là:
tự tạo vốn theo con đường hướng nội là chủ yếu bằng cách tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế mà nguồn vốn chủ yếu là vốn Nhà nước và tạo vốn theo con
đường hướng ngoại là thu hút đầu tư thông qua các dự án đầu tư nước ngoài,
liên doanh, liên kết, phát hành cổ phiếu và vốn vay nước ngoài. Với số vốn
lớn, tập đoàn có khả năng chi phối và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường. Trị
giá vốn cổ phiếu của tập đoàn General Electric năm 2007 là hơn 500 tỷ USD,
tập đoàn Coca Cola là gần 300 tỷ USD. Nhờ ưu thế về vốn, các tập đoàn có
khả năng mở rộng nhanh chóng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng
cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện thuận lợi
để tăng doanh thu và mở rộng thị trường. Chẳng hạn như vào năm 2007 tập
đoàn Ford đã đạt doanh thu 280 tỷ USD, tập đoàn Philipmorit đạt 190 tỷ
USD. Ngoài ra, nhờ có lợi thế về vốn, doanh thu và thị trường mà các TĐKT
thường thu hút được một lượng lớn về lao động. Lực lượng lao động trong
các tập đoàn không những lớn về số lượng mà còn có chất lượng cao, được
tuyển chọn và đào tạo rất nghiêm ngặt (Các TĐKT ở Mỹ có từ 34.500 -
450.000 lao động) [19].
1.1.2.2 Về phạm vi hoạt động

7

Phạm vi hoạt động của tập đoàn rất rộng, không chỉ ở phạm vi lãnh thổ
một quốc gia mà còn ở nhiều nước thậm chí trên toàn cầu. Thực hiện chiến
lược cạnh tranh, chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế, các tập đoàn đã
mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra nhiều quốc gia, tăng cường hợp tác và liên kết
quốc tế, do đó các tập đoàn kinh tế thường có đến hàng trăm, hàng nghìn chi
nhánh trên thế giới.
1.1.2.3 Về ngành và lĩnh vực hoạt động
Các TĐKT thường hoạt động đa ngành, trên nhiều lĩnh vực nhằm phân
tán rủi ro, tận dụng trang thiết bị để dễ dàng ứng phó với những thay đổi
nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và thị trường. Mỗi ngành đều có
định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc
trưng của tập đoàn. Ví dụ như tập đoàn General Motor là một tập đoàn đa
quốc gia, đa ngành lớn nhất nước Mỹ nhưng trong đó sản xuất ôtô vẫn là
ngành chính (chiếm 80 - 90% tổng doanh thu). Bên cạnh lĩnh vực sản suất
hoặc thương mại các tập đoàn kinh tế mở rộng các hoạt động sang lĩnh vực
khác như: Tài chính, Ngân hàng, Bảo hiểm, Nghiên cứu khoa học Hay tập
đoàn Petronas của Malaysia ngoài các hoạt động liên quan đến dầu khí còn
hoạt động kinh doanh bất động sản, siêu thị, vui chơi giải trí và cả đào tạo
nguồn nhân lực.
1.1.2.4 Về cấu trúc và tổ chức
Về cấu trúc - tổ chức, hầu hết các TĐKT là một tổ hợp các công ty bao
gồm Công ty mẹ và các công ty con, cháu (phần lớn mang họ của Công ty
mẹ). Công ty mẹ sở hữu phần lớn số lượng vốn cổ phần trong các công ty
con, cháu và chi phối chúng về mặt tài chính, chiến lược phát triển; tạo thành
một khối cấu trúc như các vệ tinh xoay quanh hạt nhân. Đồng thời, do trình
độ phát triển cao của thị trường tài chính, các công ty con cũng nắm giữ cổ
phiếu của nhau và chi phối nhau tạo nên sự phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau.

8
Như vậy, sở hữu vốn của TĐKT là sở hữu vốn hỗn hợp nhưng sẽ có

một chủ là công ty mẹ đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính, “hệ
thống thần kinh” của tập đoàn. Dạng phổ biến của TĐKT là công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn và nhìn chung các công ty con, cháu vẫn có tư
cách pháp nhân.

1.2 Phân loại tập đoàn kinh tế
Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, người ta phân chia TĐKT
thành nhiều loại hình tổ chức khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau.
1.2.1 Căn cứ vào phƣơng thức hình thành và nguyên tắc tổ chức
Nếu căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức thì
sự phong phú và đa dạng của các TĐKT có thể khái quát thành ba loại hình tổ
chức sau:
Loại thứ nhất, bao gồm những TĐKT được thành lập trên nguyên tắc
kết hợp chặt chẽ trong một tổ chức kinh tế “liên kết cứng”; các công ty thành
viên kết hợp trong một tổ chức thống nhất và mất đi tính độc lập tài chính, sản
xuất và thương mại. Những TĐKT này được cấu tạo dưới dạng đa sở hữu
theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau.
Các công ty thành viên hoạt động trong cùng một ngành hoặc có liên quan với
nhau về chu kỳ sản xuất, công nghệ; bổ sung cho nhau trong các quá trình gia
công chế biến sản phẩm mang tính liên tục và thống nhất của toàn tập đoàn.
Loại thứ hai, hình thành theo nguyên tắc liên kết kinh tế thông qua
những Hiệp ước hoặc hợp đồng kinh tế “liên kết mềm”. Các công ty thành
viên ký hợp đồng thoả thuận với nhau về những nguyên tắc chung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh như: Xác định quy mô sản xuất, hợp tác nghiên cứu
và trao đổi bằng phát minh sáng chế kỹ thuật; quy định giá cả và thị trường
tiêu thụ…. Trong cơ cấu tổ chức thường có Ban quản trị chung điều hành các

9
hoạt động phối hợp của tập đoàn theo một đường lối chung thống nhất, nhưng
các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức, sản xuất và

thương mại của mình. Tuy nhiên hiện nay những TĐKT dạng này đang là đối
tượng điều chỉnh của đạo luật Chống độc quyền và hạn chế cạnh tranh ở rất
nhiều quốc gia như: quy định về chống bán phá giá (Anti-dumping, Mỹ); chế
định về chống hạn chế cạnh tranh (Anti-Trust, EC).
Loại thứ ba, hình thành trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính và
sự kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định về tài
chính để hình thành một công ty gọi là Holding Company. Công ty này trở
thành công ty mẹ của tập đoàn và được coi là hình thức phát triển cao của
TĐKT. Trong tập đoàn, các công ty không chỉ thống nhất các hoạt động, các
lĩnh vực mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác từ tài chính tới các hoạt động
sản xuất, thương mại, dịch vụ khác nhau [13].
1.2.2 Căn cứ vào trình độ liên kết và hình thức biểu hiện
1.2.2.1 Cartel (Cácten)
Đây là hình thức TĐKT giữa các công ty trong một ngành, một lĩnh
vực kinh doanh. Các công ty này có mức độ sản xuất hoặc thương mại, dịch
vụ giống nhau và thường xuyên cạnh tranh với nhau; cuối cùng đi đến ký kết
hợp đồng nhằm thỏa thuận kinh tế với mục đích hạn chế cạnh tranh. Trong
Cartel, các công ty này vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp lý, còn tính
độc lập về kinh tế sẽ được điều chỉnh bằng hợp đồng đã ký kết; chẳng hạn
như: thống nhất về giá cả, phân chia thị trường, các chuẩn mực hàng hoá,
chuyên môn hoá sản phẩm…. Đây là hình thức TĐKT có trình độ liên kết
kinh tế thấp nhất. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, Cartel thường dẫn đến
độc quyền và hạn chế cạnh tranh, do đó sẽ là đối tượng của Chính phủ nhiều
nước ngăn cấm.


10
1.2.2.2 Syndicate (Xanhđica)
Thực chất, đây là một dạng đặc biệt của Cartel; điểm khác biệt căn bản
là trong tập đoàn dạng Syndicate có một văn phòng thương mại chung do một

ban quản trị điều hành và tất cảc các công ty phải tiêu thụ hàng hoá của họ
thông qua kênh này. Như vậy các doanh nghiệp thành viên giữ vững tính độc
lập về sản xuất nhưng hoàn toàn mất tính độc lập về thương mại. Tính liên kết
của dạng tập đoàn này chỉ được thực hiện ở khâu tiêu thụ sản phẩm.
1.2.2.3 Trust (Tờrớt)
Đây là một hình thức TĐKT không chỉ có liên kết ở khâu tiêu thụ mà
còn liên kết ở khâu sản xuất, bao gồm nhiều doanh nghiệp công nghiệp do
một ban quản trị thống nhất quản trị. Các doanh nghiệp thành viên bị mất
quyền độc lập cả về sản xuất và thương mại. Các nhà đầu tư tham gia Trust
đều là những cổ đông và việc thành lập các Trust nhằm chiếm nguồn nguyên
liệu, khu vực đầu tư và nhằm thu lợi nhuận cao.
1.2.2.4 Consortium (Côngxoocxiom)
Đây là hình thức tổ chức có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức
liên kết trên. Tham gia Consortium không chỉ có các nhà bản lớn mà còn có
cả các Syndicate và Trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với
nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một Consortium có
thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài
chính vào một nhóm tư bản kếch xù.
1.2.2.5 Concern (Consơn)
Đây là hình thức tập đoàn phổ biến nhất hiện nay. Concern không có tư
cách pháp nhân và các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt
pháp lý. Mối quan hệ giữa chúng được hình thành trên cơ sở những thoả
thuận về lợi ích chung như: thoả thuận về phát minh sáng chế, nghiên cứu ứng
dụng khoa học, hợp tác kinh doanh và một hệ thống tài chính chung….

11
Thường trong Concern người ta thành lập Holding Company có vai trò là
công ty mẹ điều hành hoạt động của tập đoàn; công ty này chỉ quan tâm đến
lĩnh vực tài chính của tập đoàn mà không quan tâm đến lĩnh vực sản xuất.
Thực chất nó là một công ty cổ phần, nắm giữ cổ phần vốn đóng góp của các

thành viên nhằm tạo ra thế lực tài chính lớn, phát triển kinh doanh, đầu tư vào
nhiều lĩnh vực để phân tán rủi ro, đầu tư mạnh vào ứng dụng công nghệ đồng
thời gắn chặt chẽ quan hệ với các tổ chức Ngân hàng độc quyền dạng
Consortium. Trong Concern, các công ty thành viên thường hoạt động nhiều
ngành, lĩnh vực khác nhau nhưng có mối quan hệ gần gũi về công nghệ sản
xuất và cùng hướng tới một ngành chủ chốt, coi đó là mục tiêu chiến lược của
tập đoàn.
1.2.2.6 Conglomerate (Congôlơmêrết)
Đây là tập đoàn đa ngành, các công ty thành viên có ít mối quan hệ
hoặc không có mối quan hệ về công nghệ sản xuất nhưng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau về mặt tài chính. Là một tập đoàn hoạt động tài chính thông qua
mua bán chứng khoán trên thị trường để đầu tư. Tập đoàn giữ vai trò chủ yếu
là chi phối và kiểm soát tài chính chặt chẽ các công ty thành viên. Các công ty
thành viên vẫn giữ tính pháp lý độc lập và tự chủ cao trong kinh doanh các
sản phẩm của mình. Đây là một tổ chức tài chính đầu tư vào các công ty kinh
doanh tạo lập một chùm doanh nghiệp tài chính - công nghiệp. Hỗ trợ chủ yếu
của tập đoàn là làm sao vốn đầu tư cho các công ty thành viên hoạt động có
hiệu quả cao [2].

1.3 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành các TĐKT và vai
trò của các TĐKT đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
1.3.1 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành các TĐKT
- Tác động của quy luật tích tụ và tập trung sản xuất

12
Tiến trình chung của kinh tế là không ngừng thực hiện tái sản xuất mở
rộng. Do vậy, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nghề với tư cách là một mắt khâu
của nền sản xuất xã hội và của phân công lao động xã hội cũng không ngừng
mở rộng sản xuất để đạt được sự tăng trưởng. Chính nhịp độ, quy mô tích tụ
tập trung sản xuất vừa là điều kiện, vừa phản ánh sự tăng trưởng. Nhờ vậy,

vốn và lực của doanh nghiệp được nâng lên. Trong quá trình vận động khách
quan như vậy, TĐKT ra đời và phát triển.
- Tác động của quy luật cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận
Trong cơ chế thị trường, việc giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm để thu lợi nhuận cao là quy luật bất di bất dịch đối với mọi doanh
nghiệp. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp và
cuối cùng đi đến hai xu hướng:
+ Những doanh nghiệp đứng vững và chiếm lĩnh thị trường, chiến
thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính vào mình các doanh nghiệp bị đánh bại,
qua đó tăng nhanh hơn quá trình tập trung sản xuất.
+ Nếu cạnh tranh kéo dài và không phân thắng bại thì các doanh nghiệp
sẽ liên kết với nhau bằng các thoả ước.
Như vậy, cả hai xu hướng trên đều tất yếu dẫn đến việc hình thành
TĐKT.
- Tiến bộ của Khoa học - Công nghệ
Yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh và đạt lợi nhuận cao của
doanh nghiệp là việc nghiên cứu - ứng dụng - triển khai tiến bộ khoa học công
nghệ. Để đổi mới công nghệ cần phải có nhiều vốn, tiến hành trong thời gian
nhiều năm, trong khi đó độ rủi ro lại cao và cần phải có lực lượng cán bộ khoa
học kỹ thuật đủ mạnh mà một doanh nghiệp nhỏ, manh mún, biệt lập không

13
đủ sức làm được. Điều này đòi hỏi phải có doanh nghiệp lớn mà tập đoàn kinh
doanh là một loại hình tiêu biểu.
- Tác động của chu kỳ kinh tế: Khủng hoảng - Suy thoái - Phục hồi -
Hưng thịnh
Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển chức năng
làm phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng
hoảng kinh tế, thì nay khi nền sản xuất đã xã hội hóa cao độ, khủng hoảng
kinh tế là điều không tránh khỏi. Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá

trình sản xuất mang tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế là khoảng thời gian nền kinh
tế vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.
Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, suy thoái, phục hồi và hưng
thịnh.
Khi khủng hoảng nổ ra hàng hóa không tiêu thụ được, sản xuất bị thu
hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị
trường bị rối loạn. Để làm cho tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế
bớt, các doanh nghiệp đã liên kết lại với nhau nhằm tăng các nguồn lực của
mình, đa dạng hóa danh mục đầu tư, sản phẩm, thị trường, cùng nhau chia sẻ
rủi ro, thiệt hại do khủng hoảng, suy thoái gây ra. Đây cũng là một trong
những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các TĐKT.
- Tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ
khoa học công nghệ và liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu
rộng của phân công lao động xã hội, quy mô của sản xuất và tiêu thụ. Sản
xuất kinh doanh không còn mang tính chất rời rạc, không còn là sở hữu tập
thể nữa mà đi vào xã hội hoá, hợp tác hoá, sở hữu hỗn hợp. Như vậy việc ra

14
đời của TĐKT là một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
1.3.2 Vai trò của các TĐKT đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia
Bối cảnh quốc tế trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đã có nhiều
thay đổi lớn lao. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc toàn cầu hoá
lĩnh vực tài chính và sự liên kết của các thị trường tài chính được tăng cường.
Các thị trường riêng biệt và các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn
nhau, cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã trở thành những
yếu tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự hợp tác và liên minh chiến lược giữa

các công ty, dẫn đến sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn kinh
tế. Tập đoàn kinh tế trở thành biểu tượng sức mạnh của một quốc gia, bảo vệ
nền kinh tế trong nước trước sự thâm nhập của các nền kinh tế khác. Sự hình
thành và phát triển của các TĐKT như đã phân tích, không những đánh dấu
bước phát triển mới của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời đại
ngày nay mà còn làm động lực tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh
tranh của tập đoàn cũng như của nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối
với các nước đang phát triển. Vai trò đó được thể hiện trên các mặt sau:
- Sự hình thành và phát triển của các TĐKT làm tăng khả năng kinh tế
của cả tập đoàn và các công ty thành viên, nó cho phép các nhà quản lý kinh
doanh huy động được tất cả các nguồn lực trong xã hội để phục vụ việc phát
triển kinh tế, việc tập trung các công ty vào trong một đầu mối làm cho họ có
điều kiện thuận lợi khi cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài.
- Đối với các nền kinh tế mới phát triển, nền công nghiệp trong nước
còn manh mún thì các TĐKT là một biện pháp hữu hiệu để chống sự thâm
nhập một cách ồ ạt của các công ty khổng lồ trên thế giới và giúp cho sản xuất

15
trong nước có thể đứng vững và từng bước vươn ra được các thị trường khu
vực và thế giới.
- Các TĐKT sẽ khắc phục được khả năng hạn chế về vốn của từng công
ty riêng lẻ, việc các tập đoàn có công ty tài chính sẽ cho phép thống nhất
trong tích tụ và tập trung vốn; khi có nguồn vốn lớn các tập đoàn sẽ đầu tư
vào các dự án có hiệu quả cao nhất, từ đó sẽ góp phần tăng nguồn thu và thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
- TĐKT có tác dụng rất lớn trong việc cung cấp trao đổi thông tin và
những kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học,
công nghệ vào sản xuất. Sự hợp tác về nghiên cứu ứng dụng khoa học công
nghệ trong tập đoàn còn cho phép các công ty thành viên có khả năng nhanh
chóng đưa các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn

hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn
nhanh. Nhờ đó các tập đoàn giảm được hao mòn vô hình, sự thống nhất trong
việc nhập các thiết bị sẽ tránh trùng lắp và có thể chỉ cần một số loại thiết bị
trong một dây chuyền, giảm chi phí và tránh bị ép giá. Sự thống nhất trong tập
đoàn sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ ra nước ngoài cũng như
việc thay đổi cơ cấu sản xuất một cách hợp lý. Nó là cầu nối để tiếp thu nhanh
chóng các thành tựu khoa học trên thế giới, làm thu hẹp khoảng cách về trình
độ giữa các nước chậm phát triển, thúc đẩy công nghiệp hoá và hiện đại hoá
các nền kinh tế. Chính điều này sẽ giúp cho các nước đi sau rút ngắn khoảng
cách về trình độ với các nước đang đi trước, điển hình như trường hợp của
Nhật và Hàn Quốc vào các thập niên 70 và 80.
- Việc hình thành các TĐKT sẽ làm thay đổi bộ mặt xã hội cho từng địa
phương hay một quốc gia, nó giải quyết được việc làm cho một phần dân cư
tại khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành

16
nghề, thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp và làm
tăng khả năng lớn mạnh của nền kinh tế.
Tổng Công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh đã có những đóng góp
đáng kể thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực, xương sống của nền kinh tế, hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao,
hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động
Như vậy, việc thành lập và tổ chức hoạt động của Tổng Công ty theo
mô hình tập đoàn kinh doanh là không khó, nhưng cái khó là làm thế nào để
duy trì phát triển nó, quản lý nó để nâng cao hiệu quả và đạt được mục tiêu,
yêu cầu đặt ra. Đây cũng là lý do thôi thúc em lựa chọn đề tài: “Thực trạng và
giải pháp của quá trình thành lập và tổ chức hoạt động của Tổng Công ty theo
mô hình tập đoàn kinh doanh” với mong muốn được đóng góp một số ý kiến
của mình vào sự nghiệp chung của đất nước.


1.4 Chu kỳ phát triển và xu hƣớng phát triển của các TĐKT
1.4.1 Chu kỳ phát triển của các TĐKT
1.4.1.1 Giai đoạn hình thành
Khi một tổ chức mới sinh ra yếu tố đầu tiên là quan tâm đến sản phẩm
hoặc dịch vụ của tổ chức có được thị trường chấp nhận hay không. Những
người cùng góp vốn hay chủ doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian và tiền bạc
để đầu tư cho kỹ thuật, phát triển sản xuất và marketing. Các yếu tố cơ cấu tổ
chức đang ở dạng sơ khai, cấu trúc tổ chức rời rạc và cơ chế quản lý chưa chặt
chẽ, sự quản lý giám sát mang tính cá nhân, chưa hình thành nên các quy ước
điều lệ. Sự tồn tại của tổ chức trông cậy vào sự sáng tạo ra sản phẩm dịch vụ.
Ví dụ Tập đoàn General Motor (G.M) hình thành năm 1908, giai đoạn
đầu tiên này kéo dài đến năm 1920 đánh dấu một bước phát triển mới khi
G.M thay đổi cơ chế quản lý tập trung sang phi tập trung. Giai đoạn hình

17
thành của G.M gắn liền với sự tích tụ và tập trung vốn; về mặt tổ chức là sự
khẳng định của hệ thống quyền lực có xu hướng tập trung hóa. Phải mất 12
năm để G.M xây dựng một chiến lược phát triển đa ngành, tuy nhiên hoạt
động chính vẫn là sản xuất ôtô; giai đoạn này trình độ lành nghề của công
nhân đã rất thành thục và G.M cũng xây dựng được các dây truyền lắp ráp ở
trình độ chuyên môn hoá cao nhất thời đó.
Giai đoạn này cơ cấu tổ chức theo kiểu hàng dọc, trực tuyến, lãnh đạo
tập trung và chỉ có một cấp quản lý. Nhu cầu trong công tác lãnh đạo là rất
lớn. Khi tổ chức lớn mạnh, số lượng công nhân tăng lên và nhu cầu quản lý
tăng theo để giải quyết các vấn đề phát sinh ngày càng nhiều vì vậy trong giai
đoạn này người chủ doanh nghiệp phải điều chỉnh lại cấu trúc cũng như các
quy tắc điều lệ cho phù hợp với sự lớn mạnh của tổ chức.
1.4.1.2 Giai đoạn trở thành tập đoàn
Do quá trình tích tụ và tập trung vốn cao, quy mô tổ chức ngày càng
lớn đòi hỏi sự lãnh đạo ngày càng tăng và khuynh hướng tập trung hoá là

phương thức chủ yếu trong giai đoạn này. Sự cạnh tranh của thị trường ngày
càng gay gắt buộc doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng các
nguồn lực sẵn có và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Khi mức độ đa dạng hoá
ngày càng cao thì sự quản lý doanh nghiệp ngày càng phức tạp, các mối liên
hệ kinh tế ngày càng tăng lên. Vì vậy, cơ chế quản lý kiểu tập quyền như giai
đoạn đầu tỏ ra không phù hợp. Sự khủng hoảng về lãnh đạo đã được giải
quyết và lúc này doanh nghiệp có một đội ngũ lãnh đạo đủ mạnh, đủ sức thực
hiện uỷ quyền, cùng với doanh nghiệp có được một chiến lược với những mục
tiêu và phương hướng rõ ràng. Các phòng ban được thành lập, giao phó công
việc phân chia lao động chuyên môn hoá hơn, việc kiểm soát và mối quan hệ
thường không theo một tiêu chuẩn nào mặc dù một số ít hệ thống theo tiêu
chuẩn bắt đầu xuất hiện.

18
Ví dụ trong những năm 1920 G.M bước vào giai đoạn này bắt đầu
bằng việc thực hiện phi tập trung hoá về quản lý (6 công ty con trở thành
những công ty độc lập về pháp lý, tập đoàn quản lý tập trung trong lĩnh vực
đầu tư và tài chính). Từ đó doanh thu và lợ nhuận của G.M tăng lên không
ngừng, tích tụ và tập trung đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và
phát triển của G.M. Từ kết quả ban đầu hoạt động trong ngành sản xuất ôtô
(quá trình tích tụ), G.M mở rộng sang các ngành khác.
Giai đoạn này cơ cấu tổ chức trực tuyến - chức năng linh hoạt và phù
hợp với tình hình thực tế, kiểu lãnh đạo phi tập trung tỏ ra thích hợp, cấu trúc
tổ chức kết hợp hàng dọc và ngang, xuất hiện hình thức quản lý trung gian.
Khi tổ chức đã phân chia, tầm kiểm soát mở rộng thì hệ thống quyền lực bị
thu ngắn lại, lúc này vai tro quan trọng của cấp quản lý trung gian được khẳng
định.
1.4.1.3 Giai đoạn củng cố và bành trƣớng
Cơ cấu tổ chức lúc này chủ yếu theo bộ phận, các công ty con được độc
lập tổ chức theo chức năng kết hợp với hàng ngang. Khi tập đoàn phát triển ra

nước ngoài thì áp dụng cấu trúc theo địa lý. Vai trò của tập đoàn lúc này chủ
yếu là công ty mẹ điều phối tài chính, định hướng chiến lược và ứng dụng
công nghệ mới mà bản thân công ty con không thể đảm đương nổi. Cùng với
sự phân chia quyền lực thì sự hình thành các quy tắc, điều lệ, hệ thống kiểm
soát đặc biệt được coi trọng trong giai đoạn này. Nói chung, một thể chế được
xác lập trong tổ chức, các mối quan hệ trở thành chính thức hơn, các chuyên
viên về nhân sự và các thành viên khác được bổ sung (Ban kiểm soát). Người
lãnh đạo cao nhất lúc này chỉ tham gia vào chiến lược chung của tập đoàn,
việc lập kế hoạch và sự điều hành tập đoàn dành cho các cấp lãnh đạo bậc
trung. Với những cơ chế quản lý mới, hệ thống kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả
đã làm cho tập đoàn ngày càng phát triển và lớn mạnh. Cơ chế liên kết giữa

19
lãnh đạo cấp cao và các bộ phận chuyên môn mang tính thống nhất và chính
thức.
Ví dụ năm 1985 G.M bành trướng sang lĩnh vực hàng không khi mua
lại hãng hàng không Hughes và công ty xử lý máy tính hàng đầu nước Mỹ
vào năm 1986. Giai đoạn này sự quản lý điều hành dành cho các nhà lãnh đạo
bậc trung với khối lượng công việc khổng lồ và chính họ luôn bị áp lực lớn
của công việc. Sự phân quyền và kiểu lãnh đạo tập trung chi phối cùng với sự
thành công tột bậc của tập đoàn trong giai đoạn này dễ làm phát sinh sự tự
mãn và căn bệnh quan liêu, các sáng kiến có thể bị hạn chế. Tập đoàn lúc này
dường như quá lớn và được quản lý bởi hệ thống chính quy nghiêm khắc
nhằm duy trì sự vận hành của hệ thống.
1.4.1.4 Giai đoạn thích nghi
Sự khủng hoảng của giai đoạn trên được giải quyết đồng thời với sự
phát triển của quản lý đến giai đoạn tinh vi và phù hợp với sự đa dạng của thị
trường tại các khu vực khác nhau. Cơ cấu tổ chức quản lý theo địa lý và theo
kiểu ma trận ở giai đoạn trên cũng thường được áp dụng. Hệ thống quản lý
chính quy lúc này có thể được đơn giản hoá hơn và được thay thế bởi đội ngũ

quản lý năng động và chuyên nghiệp. Để đạt tới sự hoạt động tốt và thích nghi
với môi trường các bộ phận thường được hình thành thông qua chức năng của
nhóm trong công ty. Quản lý theo nhóm tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong giai
đoạn thích nghi này. Các công ty con có thể bị chia ra nhiều bộ phận để duy
trì đường lối của công ty. Cơ cấu tổ chức quản lý hỗn hợp theo bộ phận hay
theo sản phẩm hướng đến khách hàng được sử dụng rộng rãi đem lại hiệu quả
cao.
Một nét chính trong giai đoạn này là mối tương quan hay cơ chế giữa
các bộ phận không được xác định trước một cách chặt chẽ, thay vào đó các bộ
phận có thể hợp tác trao đổi thông tin, nhân sự hoặc có thể tuỳ ý phối hợp với

20
tổ chức bên ngoài. Chức năng được phân nhiệm hợp lý theo địa lý hoặc nguồn
tài chính sử dụng. Một số công ty con sử dụng nhiều dịch vụ từ tập đoàn qua
các cơ quan tham mưu trung ương vì vậy cần có nguồn thông tin nhanh hơn,
tự do và dồi dào hơn. Các nhà kinh tế học coi giai đoạn phát triển cực thịnh
của tập đoàn trong giai đoạn này là sự chuẩn bị cho một quá trình mới, nhu
cầu cho sự tái sinh. Bởi vì, khi tổ chức đã đạt được sự chín muồi thì có thể sẽ
bước vào sự suy thoái tạm thời. Nhu cầu về sự đổi mới trong giai đoạn này trở
nên dài hơn, 10 năm hay 20 năm. Tổ chức có thể phát triển lệch ra sự kiểm
soát, hoặc sẽ chuyển động chậm chạp và bắt buộc phải trải qua thời kỳ cấu
trúc lại nhằm hợp lý hoá sáng tạo hơn. Mô hình đầu tư kiểu “kim tự tháp” và
những khoản đầu tư chéo giữa những công ty con trong tập đoàn đã tạo ra rủi
ro cao hơn trong hệ thống, tức là sự thất bại của công ty thành viên có thể dễ
dàng làm sụp đổ toàn bộ tập đoàn.
Ví dụ giai đoạn này cũng là giai đoạn mà Samsung tập trung vào công
nghệ sau khi diễn ra sự sáp nhập giữa công ty điện tử Samsung và công ty
linh kiện bán dẫn Samsung (1988 - 1992). Trong thời gian ngắn, Samsung
Electronic đã trở thành nhà cung cấp hàng đầu về con chíp Dram. Vì vậy, có
thể thấy rằng giai đoạn phát triển cao nhất của tập đoàn đem lại nhiều nguồn

lợi cũng gắn liền với sự rủi ro cao trong quản lý. Tổ chức ở giai đoạn này đòi
hỏi phải có sự điều chỉnh kịp thời dự báo theo tốc độ tăng trưởng của tập
đoàn, phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức cho phù hợp nếu không sẽ dẫn đến giai
đoạn suy thoái mới (điều này đã xảy ra tại các tập đoàn trong cuộc khủng
hoảng Đông Á năm 1997).
1.4.1.5 Giai đoạn hội nhập trên phạm vi toàn cầu
Giai đoạn hội nhập của tập đoàn thể hiện thông qua việc liên minh, hợp
nhất, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Các yếu tố công nghệ kỹ thuật và
môi trường trong quy mô bối cảnh có tác động lớn đến giai đoạn này của tập

×