Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

61 Hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.13 MB, 98 trang )

Lời mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm qua Tổng công ty Bu chính Viễn thông Việt nam với ph-
ơng châm đi tắt đón đầu đã thu đợc những thành tựu đáng kể đợc Đảng, Nhà nớc
và ngời dân đánh giá cao, xứng đáng là một ngành đi đầu trong lĩnh vực hiện đại
hóa và công nghiệp hóa, tuy nhiên cùng với xu thế phát triển của thời đại với chính
sách mở cửa thị trờng Bu chính Viễn thông đã thúc đẩy cạnh tranh ngày càng
quyết liệt, việc có nhiều nhà khai thác tham gia vào thị trờng và việc mở rộng kinh
doanh của các nhà khai thác mới này trên nhiều lĩnh vực mũi nhọn nh di động,
điện thoại đờng dài trong nớc và quốc tế, Internet khiến cho thị tr ờng Viễn thông
trở nên sôi động và chia sẻ mạnh mẽ. Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh,
kinh doanh thành công trong môi trờng kinh tế có nhiều biến động nh vậy việc
cung cấp thông tin nhất là thông tin kế toán và phân tích thông tin để ra các quyết
định kịp thời và hợp lý có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Hệ thống kế toán doanh nghiệp đã và đang ngày càng đợc hoàn thiện, đáp
ứng đợc yêu cầu cung cấp thông tin trong việc điều hành sản xuất kinh doanh với t
cách là một công cụ quản lý doanh nghiệp, kế toán quản trị, tuy đã chính thức đợc
quy định trong các văn bản pháp quy về kế toán hiện hành nhng việc tổ chức áp
dụng phân hệ này vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ đối với các đơn vị trong việc
cung cấp các thông tin quản trị nội bộ. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
tiếp tục để triển khai kế toán quản trị.
Thêm nữa, ngày 9/1/2006 với quyết định 06/2006/QĐ-TTG của Thủ tớng
Chính phủ về việc thành lập Tập đoàn Bu chính Viễn thông Việt Nam, việc chuyển
đổi từ mô hình Tổng công ty sang mô hình tập đoàn thực chất là chuyển đổi cấu
trúc thợng tầng của chủ sở hữu vốn, chuyển đổi các mối quan hệ, chuyển đổi cơ
chế quản lý và chuyển đổi chế độ hạch toán kinh tế đòi hỏi phải hoàn thiện lại tổ
chức công tác kế toán cho phù hợp với mô hình mới là một yêu cầu khách quan.
Hiện nay, nhìn chung các doanh nghiệp thành viên Tập đoàn Bu chính Viễn
thông Việt Nam đều nhận thức đợc vai trò thông tin kế toán, vì vậy, tổ chức công
tác kế toán trong các doanh nghiệp về cơ bản đợc xây dựng phù hợp với từng lĩnh
vực kinh doanh, quy mô, đặc điểm, trình độ và yêu cầu quản lý, đảm bảo cung cấp


kịp thời thông tin kế toán tơng ứng với hệ thống kế toán do Nhà nớc đã ban hành.
1
Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp thuộc VNPT đều cha tổ chức công tác kế
toán quản trị để cung cấp các thông tin phục vụ quản trị doanh nghiệp và nếu có thì
mới chỉ ở bớc đầu, mang tính đơn giản, tự phát. Một trong những nguyên nhân đó
là các doanh nghiệp hiện nay cha thực sự coi trọng việc thu thập, xử lý và cung cấp
thông tin của kế toán quản trị, đồng thời cho đến nay Nhà nớc cũng nh Tổng công
ty trớc đây và Tập đoàn hiện nay có rất ít những văn bản hớng dẫn công tác này
đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây lại là một vấn đề sớm cần đợc khắc phục. Do
công tác kế toán quản trị cha đợc triển khai một cách có hệ thống nên hệ thống báo
cáo phục vụ công tác quản trị cũng cha đợc thực hiện đầy đủ, thờng xuyên, thờng
chỉ đợc in ra theo yêu cầu quản lý. Việc in ra và lu trữ định kỳ cha đợc quan tâm
thực hiện thờng xuyên, đầy đủ.
Để có thể thực hiện tốt những mục tiêu phát triển trong xu hớng hội nhập
kinh tế hiện nay không còn cách nào khác là VNPT và các đơn vị thành viên phải
tự đổi mới và nâng cao năng lực kinh doanh của mình. Muốn vậy phải hoàn thiện
tổ chức hạch toán kế toán phục vụ cho mục tiêu quản trị. Và việc sử dụng kết hợp
thông tin của kế toán quản trị với kế toán tài chính trở nên vô cùng cần thiết để hỗ
trợ ngời quản lý trong việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng kinh doanh của đơn vị
mình và định hớng sản xuất kinh doanh trong tơng lai.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: Hoàn thiện tổ chức hạch
toán kế toán với việc tăng cờng quản trị doanh nghiệp tại Tập đoàn Bu chính
Viễn thông Việt nam.
II. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề chung về tổ chức hạch toán kế toán tại doanh
nghiệp.
- Phân tích đánh giá thực trạng về tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng c-
ờng công tác quản trị tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
- Đề ra phơng hớng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với
việc tăng cờng quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh.

III. Đối t ợng và phạm vi nghiên cứu :
- Đối tợng nghiên cứu: Đối tợng nghiên cứu của luận văn là các nội
dung về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp thành viên Tập đoàn Bu
2
chính Viễn thông Việt Nam, trong đó giới hạn phạm vi nghiên cứu là Công ty Viễn
thông Liên tỉnh, đây l doanh nghiệp lớn thành viên của Tập đoàn Bu chính Viễn
thông Việt nam, quản lý mạch máu chính của mạng viễn thông cả nớc, có phạm vi
hoạt động rộng trải dài suốt từ Bắc vào nam, nắm giữ công nghệ hiện đại của Tập
đoàn.
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong việc tìm hiểu thực tế tổ chức hạch
toán kế toán với việc tăng cờng quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên
tỉnh.
IV. Ph ơng pháp nghiên cứu :
- Phơng pháp luận: Biện chứng
- Phơng pháp chung là: Tổng hợp thực tiễn, sử dụng phơng pháp
phân tích so sánh đối chiếu chứng minh trong quá trình nghiên cứu.
V. Dự kiến những đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá vấn đề lý luận về tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cờng
quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
- Phân tích đánh giá thực trạng của tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng c-
ờng quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh, chỉ ra những mặt đợc
và tồn tại, hạn chế của tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cờng quản trị doanh
nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cờng
quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
VI. Tên và kết cấu của luận văn
Tên luận văn: Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cờng quản trị
doanh nghiệp tại Tập đoàn Bu chính Viễn thông Việt nam.
Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chơng:

Chơng I: Cơ sở lý luận về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp.
Chơng II: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên
tỉnh.
Chơng III: Phơng hớng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại
Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
3
Chơng I
Cơ sở Lý luận về tổ chức hạch toán kế toán trong các
doanh nghiệp.
1.1. Vai trò của thông tin kế toán và sự cần thiết khách quan của tổ chức hạch toán
kế toán trong hệ thống quản lý doanh nghiệp.
1.1.1: Vai trò của thông tin kế toán.
1.1.2: Phân loại thông tin kế toán:
- Kế toán tài chính.
- Kế toán quản trị.
1.2. Khái niệm về tổ chức hạch toán kế toán.
1.3. Nội dung tổ chức hạch toán kế toán.
1.3.1: Tổ chức bộ máy kế toán
1.3.2: Tổ chức hình thức kế toán
1.4. Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ
Viễn thông.
1.5. Kinh nghiệm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ
của một số nớc trên Thế giới.
Chơng 2
Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn
thông Liên tỉnh.
2.1. Tổng quan về Công ty Viễn thông Liên tỉnh
2.1.1: Quá trình hình thành và phát triển.
2.1.2: Đặc điểm công tác tổ chức sản xuất kinh doanh.
2.1.3: Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông

Liên tỉnh.
2.2. Thực trạng công tác tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên
tỉnh.
2.2.1: Bộ máy kế toán
2.2.2: Hình thức kế toán
2.2.3: Cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp
4
Chơng 3
Phơng hớng và giảI pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán
kế toán với việc tăng cờng quản trị doanh nghiệp tại
Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
3.1. Sự cần phải hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp
tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
3.2. Yêu cầu hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại
Công ty Viễn thông Liên tỉnh.
3.3. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh
nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh
3.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp./.
Chơng I
Cơ sở Lý luận về tổ chức hạch toán kế toán trong
các doanh nghiệp.
5
1.1 .Vai trò của thông tin kế toán và sự cần thiết khách quan của tổ chức
hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý doanh nghiệp.
1.1.1: Vai trò của thông tin kế toán.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh , các doanh nghiệp đều tìm
mọi biện pháp để với chi phí thấp nhất có thể thu đợc kết quả với số lợng nhiều
nhất, chất lợng cao nhất, và hiệu quả mang lại lớn nhất. Những nhà quản lý cũng
luôn tìm các biện pháp để tăng mọi nguồn thu, sử dụng có hiệu quả các khoản tài
chính, nhằm đạt đợc các mục tiêu tối u. Để đạt đợc mục tiêu này, bất kỳ ngời

quản lý nào cũng cần phải có thông tin. Hệ thống thông tin sử dụng để ra quyết
định quản lý đợc thu từ nhiều nguồn khác nhau, nhng thông tin về kế toán đóng
vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu đợc. Bởi vì chức năng chính của
hạch toán kế toán là thông tin và kiểm tra, hơn thế nữa hạch toán kế toán còn
thực hiện chức năng này một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các
loại tài sản, tiền vốn, kinh phí, về mọi hoạt động kinh tế. Những thông tin mà kế
toán cung cấp cho hoạt động quản lý là kết quả sử dụng các phơng pháp khoa
học của mình.
Thông tin kế toán có những đặc điểm nổi bật sau:
- Thông tin hạch toán kế toán là thông tin động về tuần hoàn của tài sản, chu
chuyển tài chính của một tổ chức. Trong doanh nghiệp, toàn bộ bức tranh về hoạt
động chính từ khâu đầu tiên là cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động đến khâu
cuối cùng là khâu cho ra các sản phẩm đợc thị trờng hay xã hội chấp nhận đều đợc
phản ánh thật đầy đủ và sinh động qua thông tin kế toán.
- Thông tin hạch toán kế toán luôn là những thông tin về tính hai mặt của mỗi
hiện tợng, mỗi quá trình: vốn và nguồn vốn; tăng và giảm; chi phí và thu nhập.
Những thông tin nh thế có ý nghĩa rất lớn đối với việc ứng dụng trong hạch toán
kinh doanh với nội dung cơ bản là độc lập về tài chính, lấy thu bù chi, kích thích
vật chất và trách nhiệm vật chất.
- Mỗi thông tin thu đợc là kết quả của quá trình có tính chất hai mặt: thông tin
và kiểm tra. Vì vậy khi nói đến hạch toán kế toán cũng nh thông tin thu đợc từ
phân hệ này đều không thể tách rời hai đặc trng cơ bản là thông tin và kiểm tra.
Bằng đặc điểm nh vậy thông tin kế toán đáp ứng đợc các nhu cầu khác nhau
của xã hội cho các nhà đầu t hiện tại, cho những ngời có mong muốn và có nhu cầu
đầu t, cho các nhà quản lý doanh nghiệp và các tổ chức quản lý Nhà nớc:
Trớc hết, là các nhà quản lý kinh tế, căn cứ vào thông tin kế toán cung cấp tiến
hành phân tích ngời đứng đầu đơn vị sẽ có các giải pháp để điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả và định hớng phát triển doanh nghiệp
nh quyết định đa ra những sản phẩm, dịch vụ nào, với các yếu tố đầu vào ra sao và
mua từ đâu, nên đầu t mới hay duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật cũ, nên mua bên

6
ngoài hay tự sản xuất, nên tiếp tục hoạt động hay chuyển hớng hoạt động vào
những lĩnh vực mới, Bố trí nhân sự trong hệ thống hoạt động ra sao
Nhờ có thông tin kế toán các nhà đầu t có thể xác định đợc hiệu quả của một kỳ
hoạt động, tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá khả năng sinh lời cũng
nh các rủi ro tiềm tàng của doanh nghiệp để từ đó có các quyết định đúng đắn với
các khoản đầu t của mình.
Thông qua thông tin kế toán cung cấp Nhà nớc kiểm tra, kiểm soát toàn bộ việc
sử dụng tài sản và các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, kiểm tra việc chấp hành
các chính sách kinh tế tài chính của Nhà nớc, việc thực hiện các nghĩa vụ của
doanh nghiệp, để từ đó tổng hợp nghiên cứu, hoàn thiện và ban hành các chính
sách kinh tế tài chính thích hợp nhằm quản lý thống nhất và có hiệu quả nền kinh
tế quốc dân.
1.1.2: Phân loại thông tin kế toán:
Mặc dù các đối tợng sử dụng thông tin kế toán có nhiều loại nhng đều thuộc
một trong hai phạm vi bên ngoài hoặc bên trong doanh nghiệp nên kế toán đợc
chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị. Mặc dù là những lĩnh vực khác
nhau với những điểm khác biệt nhất định do tính độc lập tơng đối về nội dung, ph-
ơng pháp, quy trình, phạm vi thu nhận, xử lý thông tin và đối tợng sử dụng thông
tin tạo nên nhng cả kế toán tài chính và kế toán quản trị cũng có mối liên quan mật
thiết và bổ sung lẫn nhau, đều là công cụ quản lý quan trọng của doanh nghiệp,
gắn liền với việc thực hiện yêu cầu, chức năng và mục đích của hoạt động quản trị
doanh nghiệp.
1.1.2.1: Kế toán tài chính là một phân hệ thuộc hệ thống thông tin kế toán cung
cấp thông tin về tình hình tài sản, nguồn vốn cũng nh tình hình và kết quả hoạt
động của đơn vị nhằm phục vụ cho các đối tợng sử dụng thông tin bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp, nhng chủ yếu là cho các đối tợng ở bên ngoài, kế toán tài
chính liên quan với quá trình báo cáo hoạt động của một doanh nghiệp qua các
hình thức nh bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo
lu chuyển tiền tệ là những báo cáo tài chính tổng hợp các mặt hoạt động của

toàn doanh nghiệp. Do vậy kế toán tài chính có một số đặc điểm căn bản là cung
cấp các tài liệu chi tiết, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh trong kỳ đã
qua, những sự kiện đã xảy ra (thông tin quá khứ); thông tin cung cấp gắn liền với
phạm vi toàn doanh nghiệp; phải có độ tin cậy cao, mang tính pháp lệnh; thớc đo
đợc sử dụng phổ biến là thớc đo tiền tệ nên số liệu có tính lịch sử, không đủ để đáp
ứng nhu cầu quản lý của nhà quản trị bên trong doanh nghiệp nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trờng.
1.1.2.2: Kế toán quản trị cũng là một phân hệ thông tin thuộc hệ thống thông
tin kế toán cung cấp thông tin về quá trình hình thành, phát sinh chi phí và thu
7
nhập khi thực hiện các kế hoạch ngắn và dài hạn và các thông tin khác gắn liền với
từng bộ phận cụ thể trong quá trình thực hiện mục tiêu chung do đơn vị đề ra nhằm
phục vụ cho nhu cầu quản trị phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà
quản trị: hoạch định, kiểm soát và ra quyết định
Kế toán quản trị cũng có một số đặc điểm căn bản cần đợc lu ý: phản ánh
những sự kiện đang và sắp xảy ra ( thông tin định hớng cho tơng lai), thông tin
cung cấp gắn liền với từng bộ phận từng chức năng hoạt động trong đơn vị; có tính
linh hoạt và thích ứng; không mang tính pháp lệnh; tuy theo thông tin cung cấp mà
sử dụng các thớc đo khác nhau; sử dụng các phơng pháp nghiệp vụ đặc thù (thiết
kế thông tin dới dạng so sánh đợc, dùng phơng trình hoặc đồ thị để biểu diễn thông
tin, )
Kế toán quản trị cung cấp thông tin thỏa mãn nhu cầu của các nhà quản trị
doanh nghiệp, những ngời mà quyết định và hành động của họ rất quan trọng quyết
định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp đó. Thông tin không đầy đủ, kịp
thời các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn khi quản lý và điều hành doanh nghiệp hoạt
động một cách có hiệu quả. Nhng nếu thông tin không chính xác sẽ ảnh hởng đến
chất lợng của việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp gây ảnh hởng
đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp thậm chí còn ảnh hởng đến sự tồn vong
của chính doanh nghiệp đó. Không có một khái niệm xúc tích hợp lý nào về kế
toán quản trị mà có thể thể hiện tất cả các khía cạnh của nó vì kế toán quản trị

không chỉ tạo ra thông tin cung cấp cho các nhà quản trị cấp cao để ra quyết định
kinh doanh, quyết định sử dụng các nguồn lực mà còn cả thông tin về các mặt kỹ
thuật để các nhà quản lý thừa hành sử dụng thực thi trách nhiệm của mình.
Kế toán quản trị sử dụng các phơng pháp cơ sở:
Thiết kế thông tin thành dạng so sánh đợc: Thông tin sẽ vô dụng nếu không thể
so sánh đợc vì vậy với số liệu thu thập đợc kế toán quản trị sẽ phân tích và thiết kế
chúng thành dạng so sánh đợc để các nhà quản trị dựa vào đó để đánh giá và đề ra
quyết định.
Kiểm soát chi phí cũng là một nhiệm vụ quan trọng của kế toán quản trị nên
cách phân loại sao cho hữu ích và thích hợp với nhu cầu của mình cũng là một ph-
ơng pháp của kế toán quản trị. Kế toán quản trị thờng phân loại chi phí thành định
phí và biến phí để từ đó làm căn cứ phân tích mối quan hệ chi phí khối lợng
lợi nhuận, là một nội dung quan trọng khi xem xét để ra quyết định kinh doanh
Phơng pháp nghiệp vụ thứ ba là trình bày mối quan hệ của thông tin theo dạng
phơng trình là dạng rất tiện dụng cho việc tính toán và dự đoán một số quá trình
cha xẩy ra để từ đó làm cơ sở cho việc tính toán lập kế hoạch.
8
Vì đồ thị là cách thể hiện dễ thấy và rõ ràng nhất mối quan hệ và xu hớng biến
thiên của thông tin nên nó cũng là phơng pháp đợc sử dụng trong kế toán quản trị.
1.1.2.3: Mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị:
Kế toán tài chính và kế toán quản trị khác nhau chủ yếu vì chúng phục vụ cho
các đối tợng sử dụng khác nhau, có mục đích sử dụng thông tin kế toán khác nhau
điểm khác nhau chủ yếu giữa chúng là: Đối tợng thông tin, đặc điểm thông tin,
phạm vi báo cáo, kỳ báo cáo, quan hệ với các ngành khác và tính pháp lệnh:
Đối tợng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là những nhà quản trị ở bên
trong doanh nghiệp, còn đối tợng mà kế toán tài chính cung cấp thông tin là những
ngời ở bên ngoài doanh nghiệp không tham gia vào công tác quản trị doanh nghiệp
đó. Những nhà quản trị bên trong doanh nghiệp là những ngời trực tiếp điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thờng xuyên phải đề ra các
quyết định khác nhau liên quan với quá trình sinh lợi trong ngứn hạn và dài hạn rất

cần có những thông tin riêng biệt phù hợp với từng loại quyết định đó, thông tin
loại này rất khác với loại thông tin mà báo cáo kế toán tài chính cung cấp vì nó chỉ
thích nghi với công việc của nhà quản trị bên trong doanh nghiệp không thích hợp
với ngời ở ngoài doanh nghiệp, những ngời này chỉ cần thông tin phản ánh tình
hình chung của doanh nghiệp mà điều này đợc thể hiện rất rõ qua các báo cáo kế
toán tài chính nh: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
thuyết minh báo cáo tài chính và và báo cáo lu chuyển tiền tệ.
Thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tơng lai, còn thông tin
của kế toán tài chính chủ yếu phản ánh những nghiệp vụ kinh tế đã xẩy ra. Phần
lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phơng án, đề án dự trù cho sự kiện hoặc
quá trình cha xẩy ra nên thông tin chủ yếu hớng tới tơng lai. Thông tin của kế toán
tài chính tuy rất cần thiết cho việc lập kế hoạch nhng cha đủ vì nó chỉ phản ánh
quá khứ trong khi đó sự vật vận động, biến đổi không ngừng. Thông tin của kế
toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán, có tính khách quan phản ánh
các sự kiện kinh tế đã xẩy ra, phải chính xác gần nh tuyệt đối, nhng nền kinh tế thị
trờng do yêu cầu phải nhậy bén nắm bắt nhanh cơ hội kinh doanh nên cần phải có
thông tin nhanh chóng, linh hoạt phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý không
buộc phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán cũng nh không buộc phải có độ chính
xác gần nh tuyệt đối. Thông tin kế toán tài chính chủ yếu đợc biểu diễn dới hình
thái giá trị còn thông tin kế toán quản trị đợc biểu diễn cả dới hình thái giá trị lẫn
hình thái hiện vật.
Báo cáo của kế toán tài chính phản ánh tình hình của doanh nghiệp nói chung
còn báo cáo của kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của
doanh nghiệp. Kỳ báo cáo của kế toán quản trị thờng xuyên hơn để kịp thời phát
9
hiện và chấn chỉnh những yếu kém còn báo cáo của kế toán tài chính theo định kỳ
thờng là năm.
Thông tin của kế toán quản trị nhằm mục đích ra quyết định và thờng không có
sẵn nên ngoài việc dựa vào ghi chép ban đầu của kế toán còn phải kết hợp với
nhiều ngành khác nh thống kê, kinh tế học, quản lý để tổng hợp phân tích và xử lý

thông tin thành dạng có thể sử dụng đợc.
Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, sổ sách, báo cáo ở mọi doanh nghiệp đều
phải tuân thủ theo chế độ thống nhất nếu không đúng hoặc không đầy đủ thì không
đợc thừa nhận, nhng sổ sách, báo cáo của kế toán quản trị là riêng biệt hoàn toàn
tùy thuộc vào cách thiết kế của nhà quản trị từng doanh nghiệp và có tác dụng đề
ra quyết định đúng đắn.
Tuy nhiên kế toán tài chính và kế toán quản trị cũng có những điểm giống nhau
cơ bản: Đều đề cập đến các sự kiện kinh tế, đều quan tâm đến thu nhập, chi phí, tài
sản, công nợ và quá trình lu chuyển tiền của doanh nghiệp, đều dựa trên hệ thống
ghi chép ban đầu của kế toán, hệ thống này là cơ sở để kế toán tài chính soạn thảo
các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp ra ngoài còn kế toán quản trị dùng làm cơ
sở để vận dụng xử lý nhằm tạo ra thông tin thích hợp cung cấp cho các nhà quản
trị. Cả kế toán tài chính và kế toán quản trị đều biểu hiện trách nhiệm của ngời
quản lý cấp cao hay các cấp bên trong doanh nghiệp.
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối liên hệ mật thiết trong quá trình tổ
chức thực hiện và cung cấp thông tin. Hai loại kế toán này tạo nên sự liên kết
thông tin đợc cung cấp mang tính xuyên suốt, phản ánh đợc những sự kiện đã,
đang và sắp xảy ra trong hoạt động của một tổ chức, đơn vị.
Do vậy, trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trờng thông tin
kế toán rất quan trọng, giúp nhà quản lý doanh nghiệp chủ động đa ra những biện
pháp ứng phó kịp thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đứng vững và không
ngừng phát triển trong môi trờng cạnh tranh gay gắt. Những thông tin kế toán dù d-
ới góc độ nào thông tin kế toán tài chính hay quản trị cung cấp đều phải đảm bảo
yêu cầu đầy đủ, chính xác, kịp thời vì nếu thông tin không đầy đủ, các nhà quản trị
sẽ gặp khó khăn trong quản lý điều hành sản xuất, nếu thông tin không chính xác,
các nhà quản trị có thể đa ra các quyết định sai lầm, ảnh hởng đến quá trình sinh
lợi của doanh nghiệp còn nếu thông tin không kịp thời thì các vấn đề tồn tại lâu
không đợc giải quyết và có thể mất cơ hội trong sản xuất kinh doanh.
Xã hội loài ngời càng phát triển thì mức độ quan tâm của con ngời đến hoạt
động sản xuất càng tăng, nghĩa là càng cần thiết phải tăng cờng quản lý sản xuất.

Để quản lý đợc các hoạt động kinh tế cần phải có thông tin. Thông tin cung cấp
cho quản lý đợc thu nhập từ rất nhiều nguồn khác nhau, bằng nhiều cách khác
10
nhau. Song việc quan sát, đo lờng, tính toán và ghi chép các hoạt động là một trong
các phơng pháp thu thập thông tin chủ yếu.
Quan sát các quá trình và hiện tợng kinh tế là giai đoạn đầu tiên của việc phản
ánh và giám đốc quá trình tái sản xuất xã hội. Đo lờng mọi hao phí trong sản xuất
và kết quả của sản xuất là việc biểu hiện những đối tợng đó bằng các đơn vị đo l-
ờng thích hợp (thớc đo hiện vật, thớc đo lao động, thớc đo bằng tiền).
Tính toán là quá trình sử dụng các phép tính, các phơng pháp tổng hợp phân
tích để xác định các chỉ tiêu cần thiết, thông qua đó để biết đợc tiến độ thực hiện
các mục tiêu, dự án và hiệu quả của hoạt động kinh tế.
Ghi chép là quá trình thu thập, xử lý và ghi lại tình hình, kết quả của các hoạt
động kinh tế trong từng thời kỳ, từng địa điểm phát sinh theo một trật tự nhất định.
Qua ghi chép có thể thực hiện đợc việc phản ánh và kiểm tra toàn diện, có hệ thống
các hoạt động sản xuất xã hội.
Việc quan sát, đo lờng, tính toán và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế nói trên
nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế gọi là hạch
toán. Vì vậy, hạch toán là nhu cầu khách quan của xã hội và là công cụ quan trọng
phục vụ cho quản lý kinh tế . Có thể nói, hạch toán là một hệ thống điều tra quan
sát, tính toán, đo lờng và ghi chép các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình
đó ngày một chặt chẽ hơn.
Hệ thống thông tin hạch toán là dòng thông tin thực hiện (dòng thông tin vào)
bao gồm 3 loại hạch toán: hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê và hạch toán kế
toán. Trong đó, hạch toán kế toán là phân hệ cung cấp thông tin chủ yếu cho quản
lý. Nh vậy, sự ra đời của hạch toán nói chung và hạch toán kế toán nói riêng là một
yếu tố khách quan xuất phát từ nhu cầu của sản xuất và quản lý đòi hỏi.
1.2. Kh á i niệm về tổ chức hạch toán kế toán
1.2.1. Khái niệm về tổ chức kế toán:
Kế toán có vị trí đặc biệt trong quản lý. Song, việc sử dụng kế toán trong hệ thống

quản lý đạt đợc hiệu quả đến mức độ nào lại phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức kế
toán ra sao trong môi trờng hoạt động cụ thể. Điều đó nghĩa là, có đợc công cụ,
nhận thức đợc vai trò quan trọng của nó rồi, còn cần thiết phải tổ chức sử dụng
công cụ đó một cách khoa học, hợp lý và nâng cao hiệu quả.
Trên thực tế, cũng còn một số quan điểm khác nhau về tổ chức hạch toán kế toán.
- Quan điểm thứ nhất: Tổ chức kế toán thực chất là tổ chức vận dụng hệ thống
chứng từ, hệ thống tài khoản, hệ thống các phơng pháp tính giá và hệ thống báo cáo kế
toán. Có nghĩa tổ chức công tác này là vận dụng các phơng pháp kế toán trong mối liên
hệ ràng buộc giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất kế toán.
11
Quan điểm này có u điểm là đề cao vai trò các phơng pháp kế toán trong mối
quan hệ chặt chẽ từ khâu phát sinh nghiệp vụ kinh tế đến khi lập các báo cáo tài
chính; thể hiện đợc sự vận dụng một cách khoa học các phơng pháp kế toán vào
thực tế. Song, nếu chỉ là việc tổ chức vận dụng các phơng pháp kế toán vào thực tế,
cũng có nghĩa là tổ chức việc vận dụng chế độ kế toán vào một đơn vị cụ thể mà
không tính đến một số vấn đề khác thì hiệu quả của kế toán sẽ không đợc nh mong
muốn và có thể sẽ không đáp ứng đợc yêu cầu quản lý ngày càng cao hiện nay.
- Quan điểm thứ hai: Xuất phát từ vai trò và nội dung của kế toán là khoa học
thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về tình hình hoạt động kinh tế, tài chính của
đơn vị. Từ đó quan điểm này cho rằng, tổ chức kế toán cần phải giải quyết hai vấn
đề:
+ Tổ chức thực hiện các phơng pháp kế toán trong đơn vị.
+ Tổ chức bộ máy kế toán phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất và tính
chất hoạt động của đơn vị.
Quan điểm nói trên có u điểm là đã kết hợp đợc việc thực hiện các phơng
pháp kế toán thông qua việc phân công, phân nhiệm cho các nhân viên kế toán
thực hiện theo từng phần hành kế toán cụ thể. Điều này vừa tạo ra nhận thức về
trách nhiệm của đội ngũ nhân viên kế toán, vừa tạo điều kiện cho việc vận dụng
các phơng pháp kế toán đợc thực hiện tốt hơn ở đơn vị.
Nhìn chung, các quan điểm trên đây đều thể hiện đợc những cách thức, ph-

ơng pháp tổ chức kế toán trong một đơn vị cụ thể, nhằm tạo ra sự phù hợp về đặc
điểm của đơn vị với tổ chức kế toán.
Tuy nhiên, để làm sáng tỏ hơn vấn đề tổ chức kế toán khoa học và hợp lý, luận
án cho rằng, khi nói đến tổ chức kế toán là nói đến tổ chức các phơng pháp kế toán
và tổ chức nhân sự kế toán theo từng phần hành kế toán cụ thể của một đơn vị cụ thể,
trên cơ sở thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, phơng pháp của kế toán nói riêng và các
nguyên tắc tổ chức kế toán nói chung trong đơn vị, nhằm thu nhận xử lý và cung cấp
các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị một cách nhanh nhất, đầy đủ và
trung thực.
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kế toán và tổ chức hạch toán kế
toán, chúng ta cũng cần thiết phải hiểu và phân biệt giữa tổ chức hạch toán kế toán
với hạch toán kế toán.
Việc quan sát, đo lờng, tính toán và ghi chép các hoạt động kinh tế ở các tổ
chức đơn vị nhằm thực hiện chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động đó đợc
gọi là hạch toán kế toán (gọi tắt là kế toán). Vì vậy, kế toán là nhu cầu khách quan
của xã hội và là công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh tế. Kế toán ra đời
cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội với t cách là do yêu cầu của sản xuất
đòi hỏi phải thông tin kiểm tra về lợng hao phí và kết quả mà quá trình sản xuất tạo
12
ra.
Nh vậy, hạch toán là một hệ thống thông tin và kiểm tra các quá trình kinh tế,
nhằm quản lý các quá trình đó ngày một hiệu quả và chặt chẽ hơn.
Với cách khái quát trên, chúng ta có thể thấy kế toán là một nhu cầu khách
quan của bản thân quá trình sản xuất, cũng nh xã hội. Tuy nhiên trong các hình
thái xã hội khác nhau, đối tợng và nội dung của kế toán cũng khác nhau vì mỗi chế
độ xã hội có phơng thức sản xuất riêng. Phơng thức sản xuất thay đổi, làm cho toàn
bộ cơ cấu kinh tế - xã hội và chính trị thay đổi. Nh vậy, mục đích, phơng pháp
quan sát, đo lờng và ghi chép cũng thay đổi cùng với sự thay đổi của phơng thức
sản xuất. Đồng thời cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, kế toán cũng không
ngừng đợc phát triển và hoàn thiện về phơng pháp cũng nh hình thức tổ chức. Điều

này có thể dễ dàng nhận thức thông qua việc nghiên cứu quá trình tài chính giúp
nhà quản lý doanh nghiệp chủ động đa ra những biện pháp ứng phó kịp thời nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đứng vững và không ngừng phát triển trong môi
trờng cạnh tranh gay gắt.
phát triển của kế toán.
Trong thời kỳ nguyên thuỷ, sản xuất cha phát triển, nhu cầu và khả năng thu nhận
thông tin cha nhiều, hạch toán đợc tiến hành bằng các phơng thức hết sức đơn
giản: đánh dấu trên thân cây, buộc nút trên các dây thừng để ghi nhớ các thông tin
cần thiết. Do sản xuất còn lạc hậu nên ở giai đoạn này cha có của cải d thừa, cha
hình thành giai cấp khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ này hạch toán kế toán đợc sử
dụng phục vụ lợi ích toàn cộng đồng.
Khi xã hội chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ thì ý nghĩa, nhiệm vụ của
hạch toán cũng thay đổi. Hạch toán kế toán trớc hết đợc sử dụng trong các trang
trại, công trờng thủ công để theo dõi kết quả sử dụng nô lệ và chiếm dụng lao động
của nô lệ, để vơ vét đợc nhiều của cải. Ngoài ra, hạch toán kế toán còn sản xuất sử
dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ và trong lĩnh vực tài chính Nhà nớc...
để theo dõi các nghiệp vụ về giao dịch, thanh toán và buôn bán. Sổ kế toán đã xuất
hiện thay cho cách ghi và đánh dấu của thời kỳ nguyên thuỷ.
Đến thời kỳ phong kiến, sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với quy
mô lớn gắn liền với sự ra đời của địa chủ và nông dân, của địa tô phong kiến
với chế độ cho vay nặng lãi của địa chủ với nông dân. Tất cả các quan hệ trên
đã tác động đến sự phát triển tiếp theo của hạch toán kế toán và vì vậy hệ thống
sổ sách kế toán ngày càng phong phú và chi tiết hơn.
Đáng quan tâm là thời kỳ t bản chủ nghĩa với sự ra đời và phát triển nhanh chóng
của thơng nghiệp và sau đó là cả công nghiệp. Lúc này các quan hệ trao đổi, buôn
bán đợc mở rộng đặt ra nhu cầu phải hạch toán các mối quan hệ nảy sinh trong quá
13
trình vận động của các t bản cá biệt. Sự xuất hiện của các đối tợng mới này của kế
toán lại là nguồn gốc cho sự ra đời của phơng pháp đối ứng tài khoản trong kế toán.
Cũng từ đó, phơng pháp hạch toán kế toán đã đợc hình thành ứng dụng rộng rãi

gồm một hệ thống hoàn chỉnh: chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp - cân
đối kế toán. Tuy nhiên, chế độ t hữu về t liệu sản xuất cùng với các quy luật kinh tế
tơng ứng lại hạn chế sự phát triển và tính khoa học của hạch toán kế toán.
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, với sự xuất hiện của chế độ công hữu về t
liệu sản xuất và với trình độ xã hội hóa cao của nền sản xuất, hạch toán kế toán mới
phát huy đầy đủ vị trí của mình. Về vị trí của hạch toán kế toán dới chủ nghĩa xã hội
V.I. Lênin đã khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội trớc hết là hạch toán".[52, tr.255].
Thật vậy, một nền sản xuất với một quy mô ngày càng lớn, với trình độ xã
hội hóa và sức phát triển sản xuất ngày càng cao, với yêu cầu quy luật kinh tế
mới phát sinh không thể không tăng cờng hạch toán kế toán về mọi mặt. Đồng
thời chế độ xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra những tiền đề cho sự phát triển nhanh
chóng và toàn diện của hạch toán kế toán. Chế độ công hữu t liệu sản xuất với
động lực từ con ngời và mục đích vì con ngời sẽ tạo điều kiện phát triển và ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực trong đó có hạch toán kế
toán. Và nh vậy, chỉ dới chế độ xã hội chủ nghĩa hạch toán mới thực sự trở
thành một công cụ để quản lý nền kinh tế một cách có hiệu quả và phục vụ cho
mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội.
1.2.2: Vai trò của tổ chức hạch toán kế toán:


14
các hoạt động
người ra quyết định
Chứng
từ
Ghi chép
dữ liệu
tổng
hợp chi
phí và

tính giá
thành
Tính giá đối ứng
tài
khoản
phân
loại
phản
ánh
tổng
hợp
bảng
tổng
hợp
Hệ thống kế toán
Truyền tin
Sơ đồ 1.1:
Chức năng của kế toán
Sơ đồ 1.2:
Sử dụng thông tin kế toán
Sự cần thiết phải tổ chức khoa học và hợp lý công tác kế toán trong hệ thống
quản lý đợc thể hiện trên những đặc trng cơ bản dới đây:
- Bất kể một việc gì, để có sự thành công trớc hết phải nói đến công tác tổ
chức. Nh vậy, muốn kế toán thực sự trở thành công cụ đắc lực nhất trong hệ thống
công cụ quản lý kinh tế trong các đơn vị thì không thể không tổ chức khoa học,
hợp lý công tác kế toán.
- Thông tin kế toán phản ánh tổng hợp tình hình hoạt động kinh tế tài chính và
các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của từng tổ chức, đơn vị bằng chỉ tiêu
tiền tệ, chỉ tiêu hiện vật, trong đó chỉ tiêu tiền tệ là chủ yếu. Các thông tin này
phục vụ cho việc điều hành và quản lý của lãnh đạo tổ chức, đơn vị đó nên

cần phải đáp ứng yêu cầu đầy đủ, kịp thời và trung thực. Điều đó chỉ có thể
thực hiện đợc khi tổ chức hợp lý, khoa học công tác kế toán.
- Tổ chức hợp lý, khoa học công tác kế toán trong hệ thống quản lý vừa mang
tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Về lý luận thể hiện sự bổ sung, hoàn thiện
những lý thuyết kế toán chung của tổ chức kế toán vào mô hình quản lý cụ thể
của từng ngành, từng đơn vị, các tổ chức HCSN, tiến tới thực hiện cơ chế khoán
nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công tác đổi mới cải cách hành chính.
Về thực tiễn thể hiện việc vận dụng lý luận trên cơ sở phù hợp với mô hình tổ
15
hoạt động chuyên
môn
hoạt động chuyên
môn
hoạt động kế toán
hoạt động kế toán
nhà quản lý
- Người đứng đầu
- hội đồng quản
trị
- Ban giám đốc
nhà quản lý
- Người đứng đầu
- hội đồng quản
trị
- Ban giám đốc
người có
lợi ích trực
tiếp
- Nhà đầu


- Chủ nợ
- Người đi
học
người có
lợi ích trực
tiếp
- Nhà đầu

- Chủ nợ
- Người đi
học
Cơ quan có lợi
ích
gián tiếp
Cơ quan có lợi
ích
gián tiếp
thuế

quan
chức
năng

quan
thống

chức của các lĩnh vực khác nhau, nâng cao chất lợng quản lý tài chính ở các đơn
vị, tổ chức trong điều kiện hiện đại hóa công tác kế toán.
- Tổ chức khoa học và hợp lý công tác kế toán phù hợp với điều kiện của từng
trờng trên cơ sở những quy định chung của Nhà nớc về quản lý tài chính, tạo ra

sự thống nhất quản lý, cung cấp thông tin tin cậy cho công tác quản lý vĩ mô.
1.2.3: Các nguyên tắc chung đợc thừa nhận:
Các nguyên tắc kế toán chung đợc thừa nhận bao gồm các qui ớc, qui định và
thủ tục cần thiết để xác định nguyên tắc thực hành kế toán. Những nguyên tắc
này đợc nhiều ngời công nhận xuất phát từ sự nhất trí rộng rãi của nhiều ngời
về lý thuyết cũng nh thực hành của kế toán. Những nguyên tắc này không
giống nh những định luật bất biến, mà nó do các nhà kế toán và các cơ sở kinh
doanh lập ra để đáp ứng những nhu cầu của những ngời làm quyết định, và nó
có thể thay đổi khi có những phơng pháp hoàn thiện hơn, hoặc khi hoàn cảnh
thay đổi. Các nguyên tắc này làm nền tảng cho việc lập báo cáo tài chính đợc
chính xác, bảo đảm độ tin cậy và dễ so sánh. Dới đây là những nguyên tắc
chính đang chi phối các quá trình kế toán:
1. Thực thể kinh doanh (Business entity principle): Thực thể kinh doanh là bất
kỳ một đơn vị kinh tế nào nắm trong tay các tiềm lực và tiến hành các hoạt
động kinh doanh cần phải ghi chép, tổng hợp và báo cáo.
2. Hoạt động liên tục (Going concern principle): Nguyên tắc này giả thiết rằng
các đơn vị sẽ tiếp tục hoạt động vô thời hạn hoặc ít nhất sẽ không bị giải thể
trong tơng lai gần.
3. Thớc đo tiền tệ (Monetary principle): là đơn vị đồng nhất trong việc tính
toán, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán chỉ phản ánh những gì
có thể biểu hiện đợc bằng tiền. Tiền đợc sử dụng nh một đơn vị đo lờng cơ bản
trong các báo cáo tài chính.
4. Kỳ kế toán (Time-Period principle): là những khoảng thời gian nhất định mà
trong đó các báo cáo tài chính đợc lập. Để thuận lợi cho việc so sánh, thời gian
của các kỳ kế toán thờng dài nh nhau (tháng, quý, năm).
5. Nguyên tắc giá phí (Cost principle): Nguyên tắc này đòi hỏi việc đo lờng,
tính toán về tài sản, công nợ, vốn, doanh thu, chi phí phải dựa trên cơ sở giá phí
thực tế mà không quan tâm đến giá thị trờng.
6. Nguyên tắc doanh thu thực hiện (Revenue principle): Doanh thu là số tiền thu
đợc hoặc đợc ghi nhận khi quyền sở hữu hàng hoá đợc chuyển giao và các dịch

vụ đợc cung cấp.
16
7. Nguyên tắc phù hợp (Matching principle): Nguyên tắc này đòi hỏi giá phí
phải gánh chịu trong việc tạo ra doanh thu, bất kể là giá phí phát sinh ở kỳ nào,
nó phải phù hợp với kỳ mà trong đó doanh thu đợc ghi nhận.
8. Nguyên tắc khách quan (Objectivity principle): Tài liệu do kế toán cung cấp
phải mang tính khách quan, có thể kiểm tra đợc.
9. Nguyên tắc nhất quán (Consistency principle): Các khái niệm, các nguyên
tắc, các chuẩn mực, các phơng pháp... mà kế toán sử dụng phải bảo đảm nhất
quán không thay đổi từ kỳ này sang kỳ khác.
10. Nguyên tắc công khai (Disclosure principle): Nguyên tắc này đòi hỏi báo
cáo tài chính của doanh nghiệp phải rõ ràng, dễ hiểu và phải bao gồm đầy đủ
các thông tin liên quan đến các hoạt động của doanh nghiệp. Những báo cáo
này phải đợc trình bày công khai cho tất cả những ngời sử dụng.
11. Nguyên tắc trọng yếu (Materiality principle): Nguyên tắc này chú trọng đến
các vấn đề, các yếu tố, các khoản mục... mang tính trọng yếu, quyết định bản
chất và nội dung sự vật, hiện tợng mà bỏ qua những vấn đề, những yếu tố... thứ
yếu, không làm thay đổi bản chất và nội dung sự vật, hiện tợng. Một khoản
mục đợc coi là trọng yếu nếu có lý do hợp lý để biết rằng nó sẽ ảnh hởng đến
quyết định của những ngời sử dụng báo cáo tài chính.
12. Nguyên tắc thận trọng (Prudent principle): Việc ghi tăng vốn chủ chỉ thực
hiện kho có chứng cứ chắc chắn, và việc ghi giảm vốn chủ khi có những chứng
cứ có thể.
1.3. Nội dung tổ chức hạch toán kế toán.
Tổ chức hạch toán kế toán là một trong những nội dung thuộc về tổ chức quản lý
trong doanh nghiệp, tổ chức hạch toán kế toán một cách thích ứng với điều kiện về
quy mô, về đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh cũng nh gắn bó với những yêu
cầu quản lý cụ thể tại doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng và to lớn trong
việc nâng cao hiệu quả quản lý tại doanh nghiệp.
Với chức năng thông tin và kiểm tra tình hình và kết quả hoạt động của

doanh nghiệp một cách thờng xuyên nhanh nhậy và có hệ thống nên tổ chức hạch
toán kế toán là một trong các mặt quan trọng đợc các doanh nghiệp quan tâm. Tổ
chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp trong điều kiện thực hiện cơ chế thị tr-
ờng ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung của khoa học tổ chức, còn phải gắn
với đặc thù của hạch toán kế toán, nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật để việc tổ
chức bảo đảm đợc tính linh hoạt hiệu quả và đồng bộ nhằm đạt tới mục tiêu chung
là tăng cờng đợc hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
17
Tổ chức kế toán bao gồm tổ chức bộ máy kế toán và tổ chức hình thức kế toán:
1.3.1: Tổ chức bộ máy kế toán
Mỗi doanh nghiệp tổ chức công tác kế toán để phát huy đợc vai trò, nhiệm vụ
cung cấp thông tin, đồng thời kết quả mà hệ thống kế toán doanh nghiệp đợc tổ
chức ra đem lại phải nhiều hơn so với chi phí phục vụ cho bản thân nó. Nội dung,
mọi khâu công việc của kế toán đều do bộ máy kế toán doanh nghiệp đảm nhận.
Doanh nghiệp tổ chức bộ máy kế toán nh thế nào phụ thuộc vào việc doanh
nghiệp lựa chọn loại hình tổ chức công tác kế toán. Căn cứ vào điều kiện cụ thể
của doanh nghiệp, quy mô, địa bàn hoạt động, đặc điểm phân cấp quản lý, phơng
tiện kỹ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin mà lựa chọn loại hình tổ chức
công tác kế toán thích hợp.
Nội dung của tổ chức bộ máy kế toán bao gồm: Hình thức tổ chức, phân công
phân nhiệm, kế hoạch công tác và vai trò của kế toán trởng.
Tùy theo quy mô và đặc điểm về tổ chức ản xuất và quản lý của doanh nghiệp
mà các doanh nghiệp có thể tổ chức công tác kế toán theo những loại hình sau:
- Loại hình tổ chức công tác kế toán tập trung; Toàn bộ công việc ghi chép và
tổng hợp đợc thực hiện ở phòng kế toán của doanh nghiệp, còn ở các bộ phận
khác chỉ thực hiện công việc báo sổ.
- Loại hình tổ chức công tác kế toán phân tán; Công việc hạch toán đợc phân
công cho các bộ phận thực hiện hầu nh toàn bộ còn phòng kế toán của doanh
nghiệp chủ yếu thực hiện công tác tổng hợp để cung cáp những thông tin chung
về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc có thể phân

công cho các bộ phận hạch toán một số nội dung nhất định còn phòng kế toán
của doanh nghiệp sé hạch toán một số nội dung có tính chất chung và lập các báo
cáo tổng hợp. Hình thức này đợc áp dụng phổ biến cho các doanh nghiệp lớn bao
gồm nhiều bộ phận hoạt động trên các địa bàn khác nhau.
- Loại hình tổ chức công tác kế toán vừa tập trung vừa phân tán.
Nội dung hạch toán của một doanh nghiệp bao gồm nhiều phần hành cụ thể
phải đợc phân công cho nhiều ngời thực hiện, mỗi ngời thực hiện một số phần
hành nhất định dới sự điều khiển chung của kế toán trởng. Các phần hành có mối
liên hệ với nhau nên việc phân công cần đảm bảo tính khoa học và có sự tác động
qua lại để cùng thực hiện tốt các nhiệm vụ kế toán của doanh nghiệp.
Xây dựng kế hoạch công tác là biện pháp quan trọng đảm bảo cho việc thực
hiện các phần hành kế toán đợc thuận lợi qua đó sẽ kiểm tra tiến độ thực hiện và
điều chỉnh phối hợp công việc một cách nhanh chóng để nâng cao đợc năng suất
và hiệu quả hoạt động của bộ máy kế toán.
Kế toán trởng là chức danh nghề nghiệp đợc Nhà nớc quy định. Kế toán trởng
có trách nhiệm tổ chức điều hành toàn bộ công tác hạch toán của doanh nghiệp.
18
Với vai trò quan trọng của kế toán trong công tác quản lý nên kế toán trởng giữ
vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Kế toán trởng không
chỉ là ngời tham mu mà còn là ngời kiểm tra giám sát hoạt động của doanh
nghiệp, trớc hết là hoạt động tài chính. Thực hiện tốt vai trò của kế toán trởng
chính là làm cho bộ máy kế toán phát huy đợc hiệu quả hoạt động, thực hiện đớc
tốt các chức năng vốn có của kế toán.
1.3.2: Tổ chức hình thức kế toán:
1.3.2.1: Tổ chức vận dụng các chính sách, chế độ thể lệ về kế toán đợc
quy
định các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán đợc thừa nhận: Đây là vấn đề quan
trọng nhằm xác định chính sách về kế toán trong doanh nghiệp. Chính sách này
phải tuân thủ các quy định chung trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện cụ
thể của mình nh vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, mặt khác nó đề

ra những phơng pháp cụ thể mà kế toán cần phải thực hiện một cách nhất quán
trong quá trình cung cấp thông tin.
1.3.2.2:Tổ chức hệ thống chứng từ, sổ sách, báo cáo kế toán: Công
tác kế toán bao gồm các giai đoạn lập chứng từ, ghi sổ và lập báo cáo. Tổ chức
chứng từ (bắt buộc và hớng dẫn) phù hợp với tính đa dạng của nghiệp vụ kinh tế
phát sinh đảm bảo các yếu tố cần thiết để kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp, tổ chức
luân chuyển chứng từ hợp lý và nhanh chóng đảm bảo nguồn thông tin ban đầu
vừa là cơ sở để kiểm tra vừa ghi sổ đợc nhanh chóng. Tổ chức hình thức sổ kế
toán phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý có tác dụng phân loại xử lý và
tổng hợp thông tin đợc kịp thời chính xác. Dựa vào các số liệu đợc phản ánh trên
các sổ kế toán để lập báo cáo tài chính theo quy định chung và các báo cáo nội
bộ phục vụ nhu cầu quản trị của doanh nghiệp. Tổ chức hệ thống báo cáo phản
ánh đợc toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp đáp ứng đợc nhu cầu
thông tin cho nhiều đối tợng khác nhau là căn cứ đánh giá chất lợng công tác kế
toán của đơn vị.
1.3.2.3:Tổ chức vận dụng các phơng pháp hạch toán để tập hợp
phân loại xử lý và tổng hợp các thông tin cần thiết: Để thực hiện công tác kế toán
cần phải sử dụng đồng thời các phơng pháp: Chứng từ kế toán, tài khoản ghi sổ
kép, tính giá và tổng hợp cân đối kế toánvận dụng các phơng pháp này vào điều
kiện thực tế của từng doanh nghiệp để hạch toán từng nôi dung cụ thể phù hợp
với chính sách kế toán của doanh nghiệp nhằm cung cấp các thông tin cần thiết
và đợc các đối tợng sử dụng chấp nhận điều này biểu hiện không những là trình
độ khoa học mà còn là cả nghệ thuật ứng dụng
1.3.2.4: Tổ chức trang bị các phơng tiện, thiết bị tính toán: Việc
trang bị các thiết bị phơng tiện tính toán hiện đại giúp cho việc xử lý số liệu của
kế toán trở nên nhanh chóng tiết kiệm đợc nhiều thời gian và nhân lực. Việc tin
19
học hóa trong kế toán không những giải quyết đợc vấn đề xử lý thông tin một
cách nhanh chóng thuận lợi mà nó còn làm tăng năng suất lao động và hiệu quả
của bộ máy kế toán. Tin học hóa kế đòi hỏi phải thiết lập mẫu trình tự luân

chuyển chứng từ phù hợp với việc thu nhận và xử lý thông tin của máy, thiết kế
các loại sổ sách để phù hợp với việc cài đặt in ấn đợc dễ dàng, nhanh chóng khoa
học bố trí nhân lực phù hợp với việc sử dụng máy, nối mạng nhằm đảm báo cung
cấp số liệu lẫn nhau giữa các bộ phận liên quan.
1.3.2.5: Tổ chức kiểm tra kế toán (hoặc kiểm toán):
. Sự cần thiết của công tác kiểm tra kế toán: Bảo vệ tài sản, nâng cao
hiệu quả sử dụng chúng trong sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng. Để làm tốt đợc điều này
công tác kế toán giữ vai trò vô cùng quan trọng
Kế toán có chức năng kiểm tra là do phơng pháp và trình tự ghi
chép phản ánh của nó. Việc ghi sổ kế toán một các toàn diện đầy đủ theo trình từ
thời gian kết hợp với việc phân bổ theo hệ thống với phơng pháp ghi sổ kép, ph-
ơng pháp cân đối đối chiếu lẫn nhau các khâu nghiệp vụ ghi chép giữa tài liệu
tổng hợp và chi tiết giữa chứng từ sổ sách và báo cáo kế toán giữa các bộ phận
chẳng những đã tạo nên sự kiểm soát chặt chẽ đối với các hoạt động kinh tế tài
chính mà còn đảm bảo sự kiểm soát tính chính xác của bản thân công tác kế
toán. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là bản thân những ngời làm công tác kế toán
có năng lực hay trách nhiệm nghề nghiệp trong việc thực hiện các phơng pháp đó
hay không đòi hỏi phải thực hiện kiểm tra kế toán.
. Nhiệm vụ của kiểm tra kế toán:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
+ Kiểm tra việc tính toán, ghi chép phản ánh kế toán về các mặt chính xác
đầy đủ kịp thời trung thực và rõ ràng. Kiểm tra việc chấp hành các chế độ thể lệ
kế toán và kết quả công tác của bộ máy kế toán.
+ Thông qua việc kiểm tra kế toán mà kiểm tra tình hình chấp hành ngân
sách, chấp hành kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu chi tài chính, kỷ luật thu nộp,
thanh toán , kiểm tra việc giữ gìn sử dụng các loại vật t vốn bằng tiền phát hiện
ngăn ngừa các hiện tợng vi phạm chính sách chế độ tài chính.
+ Cũng qua việc kiểm tra này để đề xuất các biện pháp khắc phục những
khiếm khuyết trong công tác kế toán trong công tác quản lý doanh nghiệp.

. Yêu cầu của việc kiểm tra kế toán: Để làm tốt các nhiệm vụ trên đòi hỏi
công tác kiểm tra kế toán cần phải đảm bảo:
+ Thận trọng nghiêm túc trung thực khách quan trong quá trình kiểm tra
+ Các kết luận phải rõ ràng chính xác, chặt chẽ trên cơ sở đối chiếu với
chế độ thể lệ kế toán và các chế độ quản lý kinh tế tài chính hiện hành. Qua đó đ-
a ra các thiếu sót tồn tại cần phải chấn chỉnh khắc phục.
20
+ Phải có báo cáo kịp thời lên cấp trên, các cơ quan quản lý những kinh
nghiệm tốt cũng nh các vấn đề cần bổ sung sửa đổi về chế độ chính sách hiện
hành.
+ Các đơn vị đợc kiểm tra phải thực hiện đầy đủ nghiêm túc trong thời
gian quy định những kiến nghị của các cơ quan kiểm tra.
. Hình thức kiểm tra:
+ Kiểm tra thờng kỳ: Kiểm tra thờng kỳ trong nội bộ đơn vị là trách
nhiệm của thủ trởng và kế toán trởng đơn vị nhằm đảm bảo thực hiện các chế độ
chính sách và thể lệ kế toán đảm bảo tính chính xác đầy đủ kịp thời các số liệu
tài liệu kế toán đảm bảo cho việc thực hiện chức năng giám đốc của kế toán.
Kiểm tra thờng kỳ trong nội bộ doanh nghiệp bao gồm kiểm tra trớc, kiểm tra
trong và kiểm tra sau. Kiểm tra trớc là kiểm tra các chứng từ trớc khi các chứng
từ này đợc ghi sổ. Kiểm tra trong khi thực hiện là kiểm tra ngay trong quá trình
thực hiện các nghiệp vụ kinh tế qua ghi sổ lập biểu phân tích số liệu. Kiểm tra
sau đợc thực hiện có hệ thống ở các phần hành về tình hình chấp hành các
nguyên tắc chế độ thể lệ thủ tục kế toán dựa trên sổ sách và báo cáo kế toán.
Kiểm tra thờng kỳ ít nhất 1 năm một lần của đơn vị cấp trên đối với đơn vị
trực thuộc là trách nhiệm của thủ trởng và kế toán trởng cấp trên.
Kiểm tra thờng kỳ của các cơ quan tài chính ít nhất 1 năm một lần (ngoài kiểm
tra thờng kỳ của đơn vị) là thủ trởng của cơ quan tài chính cơ quan đợc nhà nớc
giao trách nhiệm chỉ đạo công tác kế toán vừa là cơ quan có chức năng Giám đốc
đồng tiền.
Tất cả các đơn vị cần tuân thủ việc kiểm tra kế toán thờng kỳ theo chế độ

quy định để tạo nền tảng vững chắc cho việc nâng cao chất lợng của công tác kế
toán đảm bảo ngăn ngừa phát hiện giải quyết kịp thời những sai sót sơ hở trong
quản lý kinh tế.
+ Kiểm tra bất thờng: Trong những trờng hợp cần thiết theo đề nghị của
cơ quan tài chính đồng cấp, thủ trởng các Bộ, tổng cục, chủ tịch UBND tỉnh và
Thành phố có thể ra lênh kiểm tra kế toán bất thờng ở đơn vị thuộc ngành mình
quản lý.
. Nội dung kiểm tra:
+ Kiểm tra việc vận dụng các chế độ thể lệ chung của kế toán vào tình
hình cụ thể theo đặc điểm của từng ngành từng đơn vị
+ Kiểm tra chứng từ: Là nội dung chủ yếu của việc kiểm tra trớc trong nội
bộ đơn vị, là khâu quan trọng gắn liền với việc kiểm tra từng nghiệp vụ kế toán
đối với các cuộc kiểm tra thờng kỳ hay bất thờng của cơ quan cấp trên hay các cơ
quan tài chính. Chứng từ kế toán đợc kiểm tra theo những nội dung chủ yếu sau:
Kiểm tra nội dung chứng từ xem những điều ghi trong chứng từ có hợp pháp
không có đúng sự thật và tuân theo chế độ hiện hành không. Tính hợp pháp của
21
chứng từ thể hiện ở việc nó có hội đủ những yếu tố cần thiết và chữ ký của những
ngời có thẩm quyền không. Đối với những chứng từ tổng hợp và chứng từ ghi sổ
phải đối chiếu với chứng từ gốc theo từng nghiệp vụ kinh tế và phải xem định
khoản có đúng với tính chất và nội dung của nghiệp vụ kinh tế phát sinh không.
+ Kiểm tra việc ghi chép sổ sách kế toán: Là việc vào sổ có đúng sự thật,
đúng với chứng từ kế toán và có rõ ràng rành mạch không.
+ Kiểm tra việc tổ chức bộ máy: Kiểm tra việc phân công, phân nhiệm lề
lối làm việc của bộ máy kế toán. yêu cầu của tổ chức bộ máy phải gọn nhẹ nhng
đảm bảo đợc chất lợng công việc.
. Tổ chức công tác kiểm tra kế toán:
Kết quả công tác kiểm tra kế toán phụ thuộc vào việc tổ chức và kế hoạch kiểm
tra. Trong mỗi đơn vị kế toán thủ trởng đơn vị và kế toán trởng đơn vị chịu trách
nhiệm tổ chức việc kiểm tra công việc kế toán trong đơn vị theo quy định. Mỗi

đơn vị phải phân công 1 hay 2 cán bộ chuyên trách kiểm tra kế toán. Đối với các
Tổng công ty những đơn vị có nhiều đơn vị trực thuộc thì tổ chức nhóm hoặc tổ
kiểm tra kế toán. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kế toán phải là ngời trung
thực, chí công vô t có tinh thần trách nhiệm, không phạm sai lầm khuyết điểm
lớn và phải có kiến thức về nghiệp vụ kế toán.
Nguyên tắc lập kế hoạch kiểm tra kế toán:
+ Đảm bảo kiểm tra đợc tất cả các doanh nghiệp có yêu cầu kiểm tra.
+ Tổ chức trình tự các cuộc kiểm tra một cách đúng đắn.
+ Sử dụng hợp lý thời gian củacán bộ kiểm tra. Xác định số cán bộ cần
thiết cho mỗi cuộc kiểm tra.
Trong kế hoạch kiểm tra cần ghi rõ nội dung, hình thức kiểm tra và kỳ hạn kiểm
tra. Kỳ hạn kiểm tra bắt đầu từ ngày kết thúc của kỳ hạn kiểm tra trớc không để
thời gian cách quãng không đợc kiểm tra.
1.4. Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ
Viễn thông.
1.4.1: Đặc điểm dịch vụ viễn thông
Viễn thông là lĩnh vực thông tin liên lạc mà tin tức đợc truyền đi bằng tín
hiệu điện, dùng dòng điện hoặc sóng điện từ, sóng ánh sáng làm vật mang tin.
Công cụ sản xuất là các dụng cụ, trang thiết bị lao động, máy móc, thiết bị chuyển
mạch, thiết bị truyền dẫn, nhà xởng và các thiết bị khác tạo nên vốn sản xuất chính
của doanh nghiệp viễn thông. Đối tợng lao động của viễn thông là tín hiệu tin tức
truyền đi trong không gian. Để tác động vào đối tợng này, lực lợng lao động sử
dụng các công cụ lao động tạo ra giá trị và giá trị sử dụng.
Quá trình sử dụng dịch vụ viễn thông giống nh tiêu dùng sản phẩm của
ngành sản xuất vật chất. Khi dịch vụ viễn thông đợc sử dụng trong lĩnh vực sản
22
xuất vật chất, giá trị của nó đợc chuyển vào giá trị của hàng hoá mới đợc làm ra.
Nh vậy, có thể nói viễn thông là một ngành sản xuất vật chất. Là một ngành sản
xuất vật chất trong nền kinh tế quốc dân và là một ngành dịch vụ nên viễn thông có
đầy đủ các đặc điểm chung nh các ngành sản xuất vật chất khác, nhng đồng thời

ngành viễn thông còn có những đặc điểm mang tính đặc thù riêng mà các ngành
khác không có. Những đặc điểm riêng này có ảnh hởng lớn về mặt kinh tế đến việc
tổ chức và quản lý sản xuất, đến tổ chức lao động.
Một là, Sản phẩm của ngành viễn thông khác sản phẩm của các ngành sản
xuất vật chất khác. Nó không phải vật thể mới, không phải là hàng hoá mà là hiệu
quả có ích của quá trình truyền đa tin tức qua hình thức dịch vụ.
Trong cơ cấu giá thành của sản phẩm viễn thông, chi phí vật chất chiếm tỷ
trọng không đáng kể, phần chi chủ yếu là khấu hao tài sản cố định và hao phí lao
động sống trả cho ngời lao động.
Hai là, Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm viễn thông luôn gắn liền với
nhau. Sản phẩm viễn thông không thể cất giữ trong kho và không thể dự trữ đợc.
Quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ viễn thông không có sản phẩm dở dang.
Trong sản xuất các dịch vụ viễn thông không có nguy cơ "thừa ế", sản phẩm sản
xuất đến đâu, tiêu thụ đến đấy. Song sự "ế thừa" đó nằm ở chính trong sự dự trữ
mạng lới viễn thông, ở sự khai thác giữa năng lực mạng lới và tải trọng trên mạng.
Do vậy, có những yêu cầu rất cao đối với chất lợng sản phẩm viễn thông.
Tính không tách rời của quá trình tiêu thụ và sản xuất gây nên sự ảnh hởng
không đồng đều theo thời gian và không gian của yêu cầu phục vụ, ảnh hởng đến
việc tổ chức quá trình sản xuất của ngành viễn thông.
Nhu cầu thông tin của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngành viễn thông. Ngành viễn thông có nhiệm vụ thỏa mãn tốt nhất mọi nhu cầu
về truyền đa thông tin, thu hút và mở rộng các nhu cầu này.
Nhu cầu về truyền đa thông tin rất đa dạng, nó xuất hiện không đồng đều về
không gian và thời gian. Nhu cầu về thông tin xuất hiện không đồng đều vào bất
kỳ lúc nào theo các giờ trong ngày, theo các ngày trong tuần, theo các tháng trong
năm. Nhu cầu về truyền đa thông tin phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt của xã hội,
vào những giờ ban ngày, giờ làm việc của các cơ quan, doanh nghiệp, vào các kỳ
báo cáo, các ngày Lễ, Tết lợng nhu cầu lớn. Sự dao động không đồng đều của lợng
thông tin trao đổi cộng với những quy định về tiêu chuẩn chất lợng đã đợc đặt ra
khiến các cơ sở viễn thông không thể tích lũy thông tin đợc mà phải tiến hành

truyền đa thông tin đảm bảo thời gian.
Nhu cầu trao đổi thông tin không ổn định, luôn dao động khiến cho các
doanh nghiệp viễn thông gặp trở ngại về mức độ sử dụng nhân lực và cơ sở vật chất
23
kỹ thuật. Do đặc điểm này, các doanh nghiệp viễn thông thờng áp dụng một số
chiến lợc điều hòa tốt nhất về cung và cầu dịch vụ viễn thông theo thời gian. Để
đảm bảo lu thoát hết mọi nhu cầu về truyền đa thông tin cần phải có một lợng dự
trữ đáng kể các phơng tiện, thiết bị thông tin, lao động. Để thỏa mãn mọi nhu cầu
của khách hàng, ngành viễn thông phải hoạt động 24/24 giờ trong ngày, sẽ tồn tại
những khoảng thời gian mà phơng tiện thông tin và lao động đợc bố trí chỉ để th-
ờng trực.
Viễn thông là ngành vừa phục vụ vừa kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh
doanh nên phải tính đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các yếu tố sản xuất (ph-
ơng tiện, thiết bị thông tin, lao động) để đảm bảo chất lợng thông tin cao nhất với
chi phí sản xuất thấp nhất.
Ba là, Sản phẩm viễn thông không có sự biến đổi nào khác ngoài sự biến đổi
không đồng đều theo thời gian. Việc rút ngắn thời gian và không gian là một đặc
điểm quan trọng của quá trình truyền đa tin tức. Điều đó có nghĩa là sản phẩm viễn
thông đòi hỏi tốc độ thông tin nhanh chóng, nếu không sẽ mất hoàn toàn hiệu quả
có ích của sản phẩm hay mất một phần giá trị của nó, mọi sự thay đổi khác về hình
thức nội dung của đối tợng lao động đều ảnh hởng đến chất lợng sản phẩm .
Bốn là, Để sản xuất ra một sản phẩm viễn thông hoàn chỉnh phải có ít nhất
từ hai cơ sở bu cục tham gia trở lên. Nh vậy, phải xây dựng mạng lới thông tin
thống nhất, con ngời làm công tác truyền đa tin tức phải có sự phối hợp chặt chẽ
trên mạng lới.
Năm là, Quá trình truyền đa tin tức luôn mang tính hai chiều giữa ngời gửi
và ngời nhận thông tin. Nhu cầu truyền đa tin tức có thể phát sinh ở mọi điểm dân
c, điều đó đòi hỏi hình thành một mạng lới có độ tin cậy rộng khắp.
Mạng lới viễn thông bao gồm các bu cục, các doanh nghiệp viễn thông, nối
liền với nhau bởi đờng dây, các kênh thông tin, có mối quan hệ với nhau để đảm

bảo thông tin hai chiều. Trong điều kiện này, mỗi doanh nghiệp viễn thông, tham
gia vào quá trình truyền đa tin tức không phải lúc nào cũng là ngời cung cấp duy
nhất. Ví dụ trong quá trình truyền đa thông tin liên tỉnh có sự tham gia của không
chỉ một mà là vài doanh nghiệp viễn thông, mỗi đơn vị thực hiện những chức năng
nhất định trong từng phần của quá trình. Nh vậy, trong việc hình thành cuộc gọi
liên tỉnh có sự tham gia của mạng liên tỉnh, các tổng đài liên tỉnh và các trạm đầu
cuối. Nếu có sự vắng mặt các kênh trực tiếp giữa các điểm đầu cuối cần có sự kết
nối ở giai đoạn trung gian.


24
Công
đoạn đi
Công
đoạn qua
Công
đoạn đến
gửi tin
Nơi Nơi
nhận tin
Sơ đồ 1.1 : Quy trình cung cấp dịch vụ viễn thông
Do đặc điểm quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ viễn thông mang tính
dây truyền, có khi mỗi đơn vị viễn thông chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định
của quá trình truyền đa tin tức. Đây là đặc điểm quan trọng chi phối đến công tác
tổ chức, quản lý hạch toán kinh doanh dịch vụ viễn thông. Nó đòi hỏi sự phải có
quy định thống nhất về thủ tục quy trình khai thác; sự phối hợp chặt chẽ về kỹ
thuật, nghiệp vụ, lao động, hạch toán kinh doanh giữa các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ viễn thông.
Mặc dù có nhiều đơn vị viễn thông tham gia vào quá trình truyền đa tin tức
hoàn chỉnh nhng việc thanh toán cớc chỉ diễn ra ở một nơi, thờng là nơi chấp nhận

tin tức đi, trong khi chi phí viễn thông thì phát sinh tại tất cả các công đoạn tham
gia vào quá trình tạo doanh thu. Vấn đề quan trọng là phải phân chia doanh thu cớc
nh thế nào để đảm bảo phản ánh chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp viễn thông nhằm khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả và động viên các doanh nghiệp yếu kém khắc phục khó khăn.
Những đặc điểm kinh tế đặc thù làm cho sản phẩm viễn thông mang tính
chất toàn ngành, là toàn bộ hiệu quả có ích của những giai đoạn sản xuất riêng lẻ
trong quá trình sản xuất hoàn chỉnh - quá trình truyền đa tin tức.
Các dịch vụ viễn thông có thể thay thế cho một số dạng giao tiếp khác. Do
đó, có ảnh hởng tốt đến môi trờng nh: Cung cấp thông tin cho ngời bán, ngời mua,
phát triển đào tạo từ xa, phát triển các vùng kinh tế mới. Phát triển các phơng tiện
thông tin viễn thông là yếu tố tiết kiệm thực tế lao động, vật t, tiền vốn cho tất cả
các ngành kinh tế sử dụng các phơng tiện thông tin trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Sự phát triển các dịch vụ viễn thông phụ thuộc rất nhiều
vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, sự phát triển của các ngành kinh tế
quốc dân, vào mức sống của ngời dân.
Viễn thông là một bộ phận cấu thành của kết cấu hạ tầng cơ sở của nền kinh
tế quốc dân, là công cụ phục vụ đắc lực cho việc quản lý, điều hành của Nhà nớc,
bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần nâng cao đời sống văn hoá xã hội của nhân dân.
Thừa kế những thành tựu khoa học bán dẫn, tin học, quang học, viễn thông trên thế
giới có những bớc tiến nhảy vọt, đa loài ngời tiến vào kỷ nguyên thông tin.
Những năm gần đây, dới ánh sáng đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa
của Đảng và Nhà nớc, viễn thông Việt Nam đã có bớc tiến nhanh, cơ bản cả về
chất và lợng. Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đã và đang là môi
trờng, là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, trong đó có
25

×