BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
ĐOÀN VIỆT THUỶ
TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC VỚI TƯ
CÁCH LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Hà Nội - 2006
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
ĐOÀN VIỆT THUỶ
TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA
TRUNG QUỐC VỚI TƯ CÁCH LÀ THÀNH VIÊN
CỦA WTO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số : 60.31.07
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh
Hà Nội - 2006
LỜI CẢM ƠN
Tác giả của bản luận văn xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Phúc
Khanh, mặc dù rất bận với công tác chuyên môn, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ
tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp
và gia đình đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2006.
Tác giả
Đoàn Việt Thuỷ
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng I: NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA WTO VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ
VÀ TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ 4
1.1 Những vấn đề cơ bản về thƣơng mại dịch vụ 4
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thương mại dịch vụ 4
1.1.2 Các hình thức cung cấp thương mại dịch vụ 12
1.1.3 Phân loại dịch vụ 13
1.2 Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ trong WTO 14
1.2.1 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) 14
1.2.2 Những vấn đề đặt ra đối với các nước trong quá trình tự do hoá
thương mại dịch vụ 24
Chƣơng II: TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC
VỚI TƢ CÁCH LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 31
2.1 Đánh giá thực trạng phát triển thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc trƣớc
khi gia nhập WTO 31
2.1.1 Thực trạng phát triển của các ngành thương mại dịch vụ 31
2.1.2 Những cơ hội và thách thức đối với thương mại dịch vụ của Trung
Quốc sau khi gia nhập WTO 42
2.2 Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO 50
2.2.1 Những cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của Trung Quốc 50
2.2.2 Tình hình thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của
Trung Quốc 64
Chƣơng III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM QUA NGHIÊN
CỨU TỰ DO HÓA THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA TRUNG QUỐC 69
3.1 Tình hình thƣơng mại dịch vụ ở Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO 69
3.1.1 Thực trạng thương mại dịch vụ ở Việt Nam 69
3.1.2 Những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam khi gia
nhập WTO 74
3.2 Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc 80
3.2.1 Kinh nghiệm trong đàm phán gia nhập WTO 80
3.2.2 Kinh nghiệm sau khi gia nhập WTO và thực hiện các cam kết về
thương mại dịch vụ 86
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Khu vực dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng ngày càng đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Sự phát triển các
lĩnh vực dịch vụ có nhiều hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao cũng như sự
liên kết chặt chẽ giữa dịch vụ với các ngành công nghiệp và nông nghiệp là một
nhân tố quyết định đảm bảo khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế.
Cũng như các ngành kinh tế khác, thương mại dịch vụ không thể đứng ngoài
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa thị trường dịch vụ tạo ra những cơ hội to
lớn trong tiếp cận thị trường thế giới, thu hút đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý
mới từ bên ngoài, song cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh
nghiệp trong nước. Cách thức mở cửa thị trường dịch vụ cũng có những điểm khác
biệt so với mở cửa thị trường hàng hoá. Nhiều lĩnh vực dịch vụ còn thường được
xem là “nhạy cảm” về mặt chính trị, văn hoá, xã hội. Lợi thế so sánh trong các lĩnh
vực dịch vụ có nhiều hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao nghiêng hẳn về phía
các nước phát triển. Chính vì vậy, mở cửa thị trường dịch vụ luôn là điểm nóng trên
các bàn đàm phán về tự do hoá thương mại, nhất là giữa các nước phát triển và đang
phát triển. Cam kết và thực hiện cam kết mở cửa các lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi phải
có các luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng.
Trung Quốc và Việt Nam là hai nền kinh tế khác biệt về qui mô, song có
nhiều điểm tương đồng, nhất là về thể chế chính trị, kinh tế và xã hội. Trung Quốc
đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) kể từ năm 2001. Việt
Nam cũng đang thực hiện những bước đi cuối cùng để có thể gia nhập tổ chức này
trong thời hạn sớm nhất. Việc nghiên cứu kinh nghiệm tự do hoá thương mại dịch
vụ của Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có những bài học kinh nghiệm trong việc
đàm phán gia nhập WTO và thực hiện các cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ.
Chính vì vậy, vấn đề “Tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc với tư
cách là thành viên của WTO và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” đã được lựa
chọn làm đề tài của luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế này.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu quá trình tự do hoá Thương mại dịch vụ của Trung Quốc với tư
cách là thành viên của WTO đồng thời nêu bật những cơ hội và thách thức của quá
trình này nhằm rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc tự do hoá
Thương mại dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu gia nhập WTO của Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của tự do hoá thương mại dịch vụ.
- Nghiên cứu quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc sau
khi gia nhập WTO.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc tự do hoá
thương mại dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam tích cực đàm phán để chủ động gia
nhập Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) từ đó gia nhập WTO.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những mối quan hệ liên quan đến xu
hướng tự do hoá thương mại dịch vụ của thế giới nói chung và của Trung Quốc nói
riêng. Đối tượng nghiên cứu còn bao gồm cả những quy định, những nguyên tắc
pháp lý của GATS/WTO về thương mại dịch vụ.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu quá
trình tự do hoá thương mại dịch vụ của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lê nin về duy vật
biện chứng và duy vật lich sử. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu tổng hợp như thống kê, phân tích định tính, so sánh và sử dụng số liệu minh
hoạ. Ngoài ra, luận văn cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia kinh tế trong và
3
ngoài nước cũng như tham khảo và tổng hợp các ý kiến rộng rãi của giới nghiên
cứu thông qua các hội thảo, hội nghị quốc tế.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục các bảng biểu
và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chƣơng I: Những qui định của WTO về thƣơng mại dịch vụ và
tự do hoá thƣơng mại dịch vụ
Chƣơng II: Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ của Trung Quốc với
tƣ cách là thành viên của WTO
Chƣơng III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ việc nghiên
cứu tự do hóa thƣơng mại dịch vụ ở Trung Quốc
4
Chƣơng I: NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA WTO VỀ THƢƠNG MẠI
DỊCH VỤ VÀ TỰ DO HOÁ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ
1.1 Những vấn đề cơ bản về thƣơng mại dịch vụ
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm thƣơng mại dịch vụ
1.1.1.1 Khái niệm thƣơng mại dịch vụ:
a. Khái niệm dịch vụ:
* Khái niệm:
Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần có các sản phẩm vật
chất cụ thể mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Tổng thu nhập quốc
dân của một quốc gia cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không
tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ. Vậy dịch vụ là gì?
Các Mác cho rằng: dịch vụ là con đẻ của nền sản xuất hàng hoá. Khi mà kinh
tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên
tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển.
Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác đã chỉ ra nguồn
gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Từ lý luận của Các Mác đã xuất hiện
rất nhiều cách hiểu khác nhau về dịch vụ mà điển hình là hai cách hiểu sau:
Cách hiểu thứ nhất :
- Theo nghĩa rộng thì dịch vụ được coi là một ngành kinh tế thứ ba. Theo
cách hiểu này thì các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông
nghiệp được coi là thuộc ngành dịch vụ.
- Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là phần mềm của sản phẩm hỗ trợ cho khách
hàng trước, trong và sau khi bán.
Cách hiểu thứ hai:
- Theo nghĩa rộng thì dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết
quả của chúng không tồn tại dưới dạng vật chất.
- Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là một công việc mà hiệu quả của nó là đáp ứng
nhu cầu của khách hàng bằng các hoạt động tiếp xúc giữa người cung cấp với
khách hàng, và các hoạt động nội bộ của người cung cấp.
5
Như vậy có thể định nghĩa một cách chung nhất là: dịch vụ là những hoạt
động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm không tồn tại dưới hình thức
vật chất mà việc cung cấp và tiêu thụ không thể tách rời nhau nhằm thoả mãn nhu
cầu của con người.
* Đặc điểm:
Để hiểu rõ khái niệm dịch vụ, có thể nghiên cứu một số đặc điểm nổi bật và
khác biệt của dịch vụ so với hàng hoá như sau:
- Tính vô hình và phi vật chất
Tính vô hình thể hiện ở chỗ dịch vụ "là những thứ mà khi đem bán không
thể rơi vào chân bạn" (Liberalizing International Transactions in Services, tr1.).
Quá trình sản xuất hàng hoá tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý,
hoá học, nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo
tiêu chuẩn hoá. Khác với hàng hoá, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật
chất bằng những vật phẩm cụ thể, không nhìn thấy được và do đó không thể xác
định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hoá.
Người tiêu dùng chỉ có thể tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ
cung ứng như: thương hiệu, danh tiếng người cung ứng, biểu tượng, giá cả hay qua
sự mô tả về dịch vụ đó của các khách hàng khác đã tiêu dùng dịch vụ hoặc qua
thông tin quảng cáo.
- Quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời
Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất hàng hoá tách khỏi lưu thông và tiêu
dùng hàng hoá. Khác với hàng hoá, quá trình cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu
dùng dịch vụ. Thí dụ với dịch vụ tư vấn đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư tư vấn
cho khách hàng cũng là lúc khách hàng tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn
do chuyên gia này cung ứng.
- Tính không thể lưu trữ được của dịch vụ
Sự khác biệt này là do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên
không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng.
6
Khác với thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ không tách ra khỏi quá
trình sản xuất (cung ứng) và tiêu dùng dịch vụ. Thương mại hàng hoá thực hiện
chức năng tiếp tục quá trình sản xuất hàng hoá trong khâu lưu thông, là cầu nối
giữa sản xuất với tiêu dùng. Nhưng do đối tượng của thương mại dịch vụ là sản
phẩm dịch vụ nên quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ diễn ra đồng thời với trao
đổi và tiêu dùng dịch vụ. Bởi sản phẩm dịch vụ không thể được sản xuất (cung
ứng) từ trước rồi sau đó mới đem đi trao đổi trên thị trường.
- Tính đồng nhất và khó xác định chất lượng
Chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rộng, tuỳ thuộc vào hoàn
cảnh tạo ra dịch vụ như người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. Ví dụ, một
ca phẫu thuật thẩm mỹ có thể thành công với khách hàng này nhưng lại không
thành công với khách hàng khác bởi mức độ thành công của nó không chỉ phụ
thuộc vào tay nghề của những người thực hiện ca phẫu thuật, các phương tiện kỹ
thuật trợ giúp mà còn phụ thuộc vào tâm trạng và các yếu tố tâm lý của họ. Sự
không ổn định chất lượng là lý do giải thích tại sao người mua dịch vụ thường hỏi
ý kiến người đã tiêu dùng trước trong khi lựa chọn người cung cấp dịch vụ.
- Tính không hư hỏng
Dịch vụ sản xuất ra được tiêu dùng ngay nên không thể lưu trữ được do đó
khả năng hư hỏng là không có.
- Tính không có sự di chuyển hoàn toàn quyền sở hữu
Người sở hữu dịch vụ thường dưới dạng tay nghề hay kinh nghiệm hoặc
trình độ nhất định nên không thể vì ý thích hay vì lý do gì khác mà chuyển quyền
chiếm hữu và định đoạt nó cho người khác được. Khi cung cấp dịch vụ người này
chỉ chuyển quyền sử dụng dịch vụ đó cho người tiêu dùng dịch vụ. Do vậy, trong
việc cung cấp dịch vụ không có sự di chuyển hoàn toàn quyền sở hữu.
b. Khái niệm thƣơng mại dịch vụ
Cùng với sự phát triển của thương mại, dịch vụ đã ngày càng tỏ rõ vị trí quan
trọng của nó, làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế. Lúc này dịch vụ không vòng tồn
7
tại với tính chất là một ngành bổ trợ, là dẫn xuất trong thương mại nữa mà trở thành đối
tượng của thương mại, từ đó mà hình thành khái niệm về thương mại dịch vụ.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là bản thân định nghĩa thế nào là dịch
vụ hay hàng hoá mà lại là tính chất thương mại của chúng. Thương mại hàng hoá
là thương mại các sản phẩm hữu hình, còn thương mại dịch vụ về cơ bản là thương
mại các sản phẩm vô hình. Nếu như thương mại hàng hoá là việc trao đổi những
cái cụ thể và nhìn thấy được, thì thương mại dịch vụ về cơ bản là trao đổi những
“sản phẩm” không thể nhìn thấy, cầm nắm hay tích trữ được. Tuy nhiên, không
phải tất cả các loại dịch vụ đều có thể trao đổi hay mua bán đặc biệt là trong trao
đổi quốc tế, ví dụ như các dịch vụ công cộng, dịch vụ thuộc chức năng quản lý của
Nhà nước… Xu hướng thương mại hoá dịch vụ là một trong những vấn đề đặc biệt
quan tâm của WTO. Trong điều 1 của Hiệp định GATS, thương mại dịch vụ được
định nghĩa như là việc cung cấp một dịch vụ:
- Từ lãnh thổ của một nước thành viên sang lãnh thổ của một nước thành
viên khác (cung cấp qua biên giới)
- Trong lãnh thổ một nước thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của một
nước thành viên khác (tiêu dùng ở nước ngoài)
- Bởi một người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua hiện
diện thương mại trong lãnh thổ của một nước thành viên khác (hiện diện thương mại)
- Bởi một người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua sự
hiện diện của thể nhân của một nước thành viên trong lãnh thổ của bất cứ thành
viên nào khác (hiện diện của thể nhân)
1.1.1.2 Đặc điểm của thƣơng mại dịch vụ hiện nay
* Gia tăng thương mại dịch vụ có sự di chuyển các yếu tố như con người,
vốn, tri thức và công nghệ qua biên giới
Đây là một đặc điểm quan trọng của thương mại dịch vụ. Nếu như việc trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia đòi hỏi sản phẩm phải có sự vượt ra khỏi biên giới
tự nhiên của nước xuất khẩu để vào được lãnh thổ hải quan của nước nhập khẩu thì
việc trao đổi dịch vụ gần như không cần phải có sự di chuyển của bản thân sản
8
phẩm mà thay vào đó là sự di chuyển của chính nhà cung cấp dịch vụ hay nhà tiêu
thụ dịch vụ. Từ năm 1985, việc cung cấp dịch vụ quốc tế được chia theo bốn
phương thức: i) cung cấp qua biên giới, ii) tiêu dùng ở nước ngoài, iii) hiện diện
thương mại và iv) di chuyển của thể nhân [46]. Sự di chuyển của vốn, tri thức và
công nghệ trong hai phương thức đầu tiên là không đáng kể. Hai phương thức cuối
cùng đều là sự di chuyển qua biên giới của nhà cung cấp dịch vụ gia tăng. Theo
phương thức iii, một phương thức cung cấp dịch vụ chiếm tỷ trọng cao, người
cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ tại nước ngoài thông qua hiện diện
thương mại của mình như các công ty, chi nhánh, văn phòng đại diện Thành lập
hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài tức là các nhà cung cấp dịch vụ đã
đầu tư trực tiếp vào nước của người tiêu dùng dịch vụ. Khi đó nước của người tiêu
dùng dịch vụ sẽ nhận được vốn đầu tư, tri thức cũng như công nghệ tiên tiến của
người cung cấp dịch vụ nước ngoài. Trong phương thức iv, cùng với sự di chuyển
qua biên giới của các cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ với trình độ và chuyên
môn của mình là sự di chuyển của vốn, tri thức và công nghệ vào nước của người
tiêu dùng.
* Thương mại dịch vụ ngày càng chịu ảnh hưởng của các quy định trong
nước của một quốc gia
Do việc tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời với việc cung cấp trên lãnh thổ
của một quốc gia nên Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động thương mại dịch vụ
thông qua việc làm cản trở khả năng cung cấp của người cung cấp dịch vụ hoặc
khả năng tiêu dùng của người tiêu dùng dịch vụ. Giao dịch về dịch vụ trong
thương mại quốc tế được thực hiện thông qua 4 phương thức cung cấp dịch vụ do
đó các quy định trong nước của một quốc gia cũng ảnh hưởng khác nhau theo 4
phương thức đó:
Trong phương thức i) thì các quy định trong nước chỉ ảnh hưởng đến sự
tiêu dùng của bản thân người tiêu dùng dịch vụ của nước mình. Nhà nước có thể
ra các quy định giám sát và ngăn chặn các loại dịch vụ bất hợp pháp như dịch
vụ sử dụng dịch vụ viễn thông không qua hệ thống truyền dẫn trong nước, dịch
9
vụ cung cấp các thông tin có nội dung xấu. Nhà nước có thể thừa nhận hoặc
không thừa nhận một giao dịch là hợp pháp để ra các quy định cho phép hoặc
không cho phép thực hiện thanh toán quốc tế để từ đó hạn chế sự phát triển của
một số loại dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích
Trong phương thức ii) thì các quy định trong nước chỉ ảnh hưởng đến sự
tiêu dùng của bản thân người tiêu dùng dịch vụ của nước mình. Nhà nước có thể
can thiệp sự tiêu dùng của người tiêu dùng dịch vụ của nước mình bằng các quy
định hạn chế việc sử dụng ngoại tệ đối với người tiêu dùng nước mình tại nước
ngoài hay ngược lại là khuyến khích người nước ngoài phát triển tiêu dùng tại
nước mình.
Trong phương thức iii) và iv): Đây là phương thức quan trọng nhất để dịch
vụ có thể được sản xuất và tiêu dùng có hiệu quả. Do đó, các quy định trong nước
có thể ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng dịch vụ.
Trong phương thức iii), Nhà nước có thể hạn chế khả năng cung cấp của các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài thông qua các quy định về hình thức hiện diện
thương mại, về địa lý, về phạm vi kinh doanh và giấy phép của các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài.
Các nước đều hạn chế rất lớn đối với hình thức cung cấp dịch vụ theo
phương thức iv) do sức ép thất nghiệp trong nước. Do đó, nước của người tiêu
dùng dịch vụ có thể khuyến khích hay hạn chế khả năng cung cấp dịch vủa của các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bằng các quy định về nhập cảnh, quá cảnh với
các thể nhân người nước ngoài. Từ việc ảnh hưởng đến khả năng cung cấp của các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, Nhà nước có thể điều tiết được khả năng tiêu
dùng dịch vụ của người tiêu dùng trong nước.
* Các hoạt động dịch vụ ngày càng được thương mại hoá
Cho đến thập kỷ 70, các nhà kinh tế học vẫn cho rằng ngành dịch vụ là tập
hợp chủ yếu của những hoạt động phi thương mại. Nhận định này được phát triển
dựa trên đặc điểm cơ bản của các lĩnh vực dịch vụ là tính chất vô định hình và sự
chi phối chặt chẽ của tính chất đó tới khả năng cung cấp và tiêu dùng dịch vụ. Quá
10
trình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm dịch vụ hầu như diễn ra đồng thời và cần
thiết phải gắn liền với một khu vực địa lý nơi mà nhà cung cấp dịch vụ yêu cầu
phải có sự hiện diện thực tế. Việc cung cấp dịch vụ có thể coi là bị giới hạn trong
điều kiện nhất định vì về cơ bản dịch vụ cần có sự tiếp xúc cần thiết của người tiêu
dùng và người cung cấp dịch vụ; Việc cung cấp dịch vụ phải được pháp luật tại nơi
diễn ra các hoạt động cung cấp dịch vụ cho phép. Điều kiện như vậy chỉ có thể đạt
được tối đa khi hoạt động cung cấp dịch vụ trong phạm vi một quốc gia, một vùng
lãnh thổ nơi mà những hạn chế và quy định đối với việc cung cấp dịch vụ là tương
đối thuần nhất. Điều này thể hiện rõ nét tính chất khó thương mại hoá của dịch vụ.
Cùng với xu thế phát triển, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ thì khả năng
thương mại hoá của các ngành dịch vụ cũng không ngừng được cải thiện. Từ
những năm đầu thập kỷ 80 và đặc biệt là cuối thế kỷ 19, các ngành dịch vụ đã phát
triển vượt bậc khiến nhiều lĩnh vực dịch vụ hoàn toàn có thể được thương mại hoá
với hiệu quả cao. Năm 1982, kim ngạch dịch vụ chỉ đạt 400 tỷ USD thì năm 1992
đã đạt đến 1000 tỷ USD và đến năm 2004 đạt 2100 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng
thương mại hàng năm của các ngành dịch vụ luôn cao hơn (7,7%/năm) so với tốc
độ tăng trưởng kim ngạch hàng hoá (3-4%/năm).
* Tính đa dạng của các hình thức thương mại dich vụ
Đối tượng của thương mại hàng hoá là hàng hoá cụ thể được trao đổi. Trái
lại, thương mại dịch vụ hay thương mại các hàng hoá vô hình không được thể hiện
một cách đơn giản là sự trao đổi đơn thuần mà là việc trao đổi đó được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau. GATS đã đưa ra 4 hình thức cung cấp dịch vụ,
theo đó mô tả các khả năng cung cấp của nhà cung cấp dịch vụ. Các hình thức này
đều được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới.
* Vai trò của doanh nghiệp độc quyền trong ngành dich vụ
Trong lĩnh vực dịch vụ, nhiều ngành dịch vụ có mức tập trung tư bản cao,
sử dụng công nghệ hiện đại và quy mô lớn. Do vậy, nhiều ngành dịch vụ đã hình
thành độc quyền tự nhiên của Nhà nước hoặc chịu sự chi phối của một số doanh
nghiệp độc quyền như ngân hàng, viễn thông, hàng không, vận tải biển. Tại hầu
11
hết các quốc gia, những doanh nghiệp dịch vụ lớn nhất trong những ngành này là
do một hoặc một số doanh nghiệp chủ đạo nắm giữ. Tính chất độc quyền trong
hoạt động thương mại dịch vụ là cần thiết và khách quan. Sự phát triển của dịch vụ
nhờ đó mới có những thành tựu đáng kể trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ một
cách rộng rãi, với qui mô và chất lượng ngày một tăng. Một trong những yêu cầu
quan trọng của hoạt động cung ứng dịch vụ là việc đảm bảo một hệ thống cơ sở hạ
tầng tốt cho nền kinh tế, trong đó nhiều loại nhu cầu mang tính chất xã hội mà Nhà
nước bắt buộc phải thực hiện qua hệ thống độc quyền mới đảm bảo hiệu quả. Ví
dụ, việc xây dựng các bến cảng, sân bay, hệ thống viễn thông, trạm xá, bệnh viện
đều là những loại dịch vụ cần có sự phân bổ trực tiếp của Nhà nước mà thông
thường tính độc quyền mới có thể thực hiện được. Một ví dụ khác là những nhu
cầu dịch vụ đối với vùng sâu, vùng xa, khó khăn mà lợi ích kinh tế từ hoạt động
cung cấp dịch vụ là rất thấp, trong khi đó do nhu cầu về chính sách xã hội, Nhà
nước không thể không cung cấp. Điều này chỉ có thể được thực hiện khi Nhà nước
phải có sự hoán đổi giữa nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm đó với quyền được cung
cấp dịch vụ một cách độc quyền. Mặc dù vậy, trong nhiều trường hợp khác, độc
quyền lại có tác dụng ngược lại tức là sự suy giảm về chất lượng và khả năng trục
lợi tự nhiên của các doanh nghiệp độc quyền này. Điều đó có nghĩa, tự thân độc
quyền trong những ngành dịch vụ không phải là một khái niệm xấu, nhất là trong
lĩnh vực dịch vụ mà vấn đề là việc tạo dựng động lực cạnh tranh và tự hoàn thiện
của doanh nghiệp độc quyền đó. Trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay, việc thực
hiện tự do hoá thương mại dịch vụ bao hàm cả vấn đề tạo lập môi trường cạnh
tranh trong điều kiện có độc quyền.
* Sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật trong các ngành dịch vụ
Các ngành dịch vụ hiện nay được sử dụng và cung cấp dựa trên nhiều tiêu
chuẩn kỹ thuật mà người cung cấp hoặc tiêu dùng đặt ra. Đặc biệt là trong những
ngành áp dung kỹ thuật cao như viễn thông, phần mềm, phim ảnh, các dịch vụ hỗ
trợ vận tải hàng không và những ngành đòi hỏi tính chất có chuyên môn kỹ thuật,
nghề nghiệp và quản lý dữ liệu cao như dịch vụ pháp lý, kiến trúc, tư vấn kỹ thuật.
12
Hạn chế này trong nhiều trường hợp, không cho phép việc cung cấp dịch vụ nếu
như không gắn với sự hiện diện thương mại hay việc tiếp xúc thực tế cần thiết giữa
nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ, nhưng điều này sẽ làm nảy sinh
chi phí cao trong quá trình kinh doanh. Xu hướng chuẩn hoá các sản phẩm dịch vụ
bao gồm:
(1) Thống nhất hay tạo ra sự tương thích lẫn nhau về các tiêu chuẩn về kỹ
thuật trong các ngành như tài chính, viễn thông, phần mềm. Cần lưu ý rằng những
tiêu chuẩn kỹ thuật này thường do các nước phát triển (các quốc gia nắm công
nghệ nguồn) qui định hoặc có ảnh hưởng chủ yếu. Do vậy, vấn đề này hầu như
không gây ra cản trở đáng kể nào.
(2) Sự công nhận bằng cấp lẫn nhau đối với các ngành nghề chuyên môn,
điều này khá phức tạp ở các nước đang phát triển và cả đối với các nước phát triển.
Hầu hết các cam kết của các nước đều có quy định rất chặt chẽ về vấn đề công
nhận bằng cấp đối với việc sản xuất và cung cấp dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ
thương mại. Đây là vấn đề không dễ giải quyết. Cho đến nay, vấn đề này được xúc
tiến trong các Hiệp định khu vực, ở các tổ chức quốc tế và cả ở phạm vi toàn cầu
[48].
* Thống kê giá trị thương mại dịch vụ gặp nhiều khó khăn
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng các số liệu về thương mại dịch vụ hiện
nay vẫn chưa phản ánh được đúng qui mô trao đổi dịch vụ trên thế giới. Các giao
dịch dịch vụ được ghi nhận trong tài khoản cán cân thanh toán của các nước theo
những nhóm rất rộng và theo những cách tính khác nhau như giá trị ròng và giá trị
gộp. Những cách tính này có xu hướng giảm giá trị dịch vụ trao đổi trong Tổng kết
cán cân thanh toán của IMF. Trong tài liệu này, dịch vụ chỉ được tách thành ba
nhóm: vận tải, đi lại và các dịch vụ khác. Cách tính này đã gộp rất nhiều dịch vụ
đa dạng vào một nhóm duy nhất, làm cho việc đánh giá các số liệu gặp rất nhiều
khó khăn.
13
1.1.2. Các hình thức cung cấp thƣơng mại dịch vụ
Phương thức ( 1 ): cung cấp qua biên giới (Cross border)
Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào lãnh
thổ của một nước thành viên khác. Dịch vụ di chuyển qua biên giới độc lập với nhà
cung cấp và người tiêu dùng, có nghĩa là khi giao dịch diễn ra từ lãnh thổ một
nước thành viên sang lãnh thổ một nước thành viên khác, chỉ có bản thân dịch vụ
di chuyển qua biên giới mà không có sự di chuyển của con người ví dụ như dịch
vụ tư vấn qua fax, email, điện thoại, chữa bệnh từ xa… Nhà cung cấp không thiết
lập bất cứ một hiện diện nào trên lãnh thổ nước thành viên.
Phương thức ( 2 ): tiêu dùng ở nước ngoài (Comsumption abroad)
Phương thức này đề cập đến những dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của
một nước thành viên cho công dân của bất kỳ nước thành viên nào khác. Nói cách
khác, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ mà người tiêu
dùng đó cư trú thường xuyên. Ví dụ như dịch vụ khách sạn, nhà hàng cho người
nước ngoài, dịch vụ đào tạo cho sinh viên nước ngoài… Việc di chuyển tài sản của
người tiêu dùng cũng thuộc phương thức này (ví dụ gửi một con tàu hoặc các thiết
bị khác ra nước ngoài để sửa chữa).
Phương thức (3): hiện diện thương mại (Commercial presence)
Người cung cấp dịch vụ di chuyển qua biên giới để thành lập hiện diện
thương mại của mình ở nước ngoài như công ty con, văn phòng đại diện, chi
nhánh… nhằm tiến hành cung cấp dịch vụ thông qua các hiện diện này.
Phương thức (4): hiện diện của thể nhân (Presence of natural persons)
Dịch vụ được cung cấp qua sự hiện diện của các tự nhiên nhân của một nước
thành viên ở một nước thành viên khác. Phương thức này chỉ áp dụng cho các nhà
cung cấp dịch vụ độc lập (tư vấn gia, nhân viên y tế…) hoặc những người làm
công của họ khi họ cư trú tạm thời tại một nước thành viên. Đơn giản hơn ta có thể
hiểu là dịch vụ được cung cấp bởi cá nhân của một nước thành viên tại lãnh thổ
của bất cứ một nước thành viên nào khác.
14
1.1.3 Phân loại dịch vụ
Danh mục dịch vụ do GATS điều chỉnh rất rộng, bao gồm 11 ngành lớn và
155 tiểu ngành:
- Dịch vụ kinh doanh bao gồm các dịch vụ nghề nghiệp như dịch vụ pháp
lý, dịch vụ kiểm toán, thiết kế; các dịch vụ nghiên cứu và triển khai; dịch vụ máy
tính; dịch vụ liên quan đến bất động sản và các dịch vụ kinh doanh khác.
- Dịch vụ thông tin liên lạc bao gồm: bưu điện, chuyển phát nhanh, viễn
thông, nghe nhìn…
- Dịch vụ xây dựng và thi công bao gồm: xây dựng nhà cửa, xây dựng công
chính, lắp đặt máy móc, hoàn thiện công trình…
- Dịch vụ phân phối bao gồm: đại lý hoa hồng, đại lý độc quyền, bán
buôn, bán lẻ…
- Dịch vụ đào tạo bao gồm: tiểu học, trung học, đại học, cao học, chuyên
sâu
- Dịch vụ môi trường bao gồm: thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh…
- Dịch vụ tài chính bao gồm: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…
- Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ bao gồm: chữa bệnh, bệnh viện…
- Dịch vụ du lịch và lữ hành bao gồm: khách sạn và nhà hàng, đại lý và điều
hành du lịch, hướng dẫn viên du lịch…
- Dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao bao gồm: giải trí (nhà hát, rạp chiếu
phim, xiếc), thư viện, bảo tàng, thể thao…
- Dịch vụ vận tải bao gồm: vận tải đường biển, vận tải thuỷ nội địa, vận tải
hàng không, vận tải đường sắt, vận tải ô tô, vận tải đường ống, vận tải vũ trụ, các
dịch vụ phụ trợ liên quan
- Các dịch vụ khác
15
1.2 Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ trong WTO
1.2.1 Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ (GATS)
1.2.1.1 Sự ra đời của GATS:
Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán thương mại mang tính lịch sử, nó
không chỉ đề cập tới tự do hoá hơn nữa về thương mại hàng hoá mà còn đề cập tới
việc thiết lập khuôn khổ cho tự do hoá về thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu
tư và sở hữu trí tuệ. Khi vòng đàm phán được khởi sự tại Punta del Este (Uruguay)
vào 9-1986, các cuộc thảo luận đều cho rằng kết quả của vòng đàm phán phải là sự
mở rộng của khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT).
Khi vòng đàm phán kết thúc vào tháng 4-1994 tại Marrakesh (Ma rốc), WTO mới
ra đời với việc sửa đổi hiệp định GATT (về thương mại hàng hoá) và bổ sung hai
hiệp định mới: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về
các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
Thành công của 50 năm đàm phán thương mại hàng hoá trong khuôn khổ
GATT đã đưa ra một minh chứng đầy sức thuyết phục đối với các Chính phủ. Việc
liên tục giảm thuế quan đã thúc đẩy thương mại hàng hoá thế giới tăng mạnh, cao
hơn cả mức tăng của thu nhập thế giới. Thuế quan trung bình trên phạm vi toàn thế
giới đã giảm từ mức 35% sau chiến tranh thế giới lần thứ hai xuống còn 4% ngày
nay và mức tăng trưởng bình quân của thương mại đã vượt mức tăng trưởng kinh
tế thế giới là hơn 2%/ năm. Thêm vào đó, sự phát triển của các luật lệ thương mại
quốc tế trong GATT đã tăng thêm khả năng dự báo chế độ thương mại hàng hoá
thế giới. Chính vì những thành công của GATT đối với thương mại hàng hoá mà
Chính phủ các nước nhận thấy cần thiết phải có một quy chế mang tính toàn cầu để
điều chỉnh thương mại dịch vụ.
Tuy nhiên thoả thuận để bắt đầu các cuộc đàm phán về thương mại dịch vụ đã
gặp phải những trở ngại. Đầu tiên phải kể đến là việc định nghĩa về “thương mại
dịch vụ”. Xem xét trường hợp của dịch vụ du lịch, trong đó một khách hàng đi du
lịch tới một nước cung cấp dịch vụ, thì ngay lập tức nó đã gặp phải những hạn chế
trong định nghĩa về thương mại qua biên giới truyền thống của GATT. Thêm vào
16
đó, thương mại dịch vụ từ trước cho tới khi Hiệp định GATS ra đời, đã bị xem nhẹ
và bị coi là phụ thuộc vào sản xuất và thương mại hàng hoá. Nhiều dịch vụ được
điều tiết rất chặt chẽ để bảo vệ cả người tiêu dùng lẫn nền kinh tế trong nước, và
một số ngành dịch vụ lại thuộc độc quyền Nhà nước như dịch vụ vận tải, viễn
thông, bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm và tái bảo hiểm, y tế và giáo dục. Do vậy
một số nước coi việc đề cập tới các quy định quốc gia về hạn chế thương mại và
tiến hành các cuộc đàm phán quốc tế là đe dọa đến chủ quyền quốc gia.
Mặc dù vậy, vào giữa những năm 1980, rất nhiều nước phải đối mặt với
những lo ngại về suy thoái toàn cầu, lạm phát kéo dài và nạn thất nghiệp gia tăng.
Các nước ngày càng phải lưu ý hơn đến tầm quan trọng của thương mại dịch vụ
quốc tế, vì đến thời điểm này những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ đặc biệt là
công nghệ thông tin đã thúc đẩy khả năng thương mại hoá các hoạt động dịch vụ.
Các nước đi đến kết luận, việc xoá bỏ các rào cản đối với thương mại dịch vụ
quốc tế và tạo cho các nhà xuất khẩu dịch vụ khả năng dự doán được tình hình
thương mại, đầu tư quốc tế sẽ tạo ra những động lực xuất khẩu dịch vụ, đồng thời
sẽ hỗ trợ cho sự phát triển mà không gây ra lạm phát trong nước và giải quyết
vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để bước vào kỷ nguyên của xã hội thông tin và
chuyển sang nền kinh tế có yếu tố trí tuệ ngày càng cao.
Mục tiêu lúc này rõ ràng là cần thiết phải có một thoả thuận riêng biệt về
thương mại dịch vụ chứ không nên đưa ra những sửa đổi bổ sung đơn giản trong
Hiệp định GATT. Hiệp định đó cần phải đề cập tới tất cả các biện pháp ảnh hưởng
tới thương mại dịch vụ.
Chính vì thế khi khởi xướng vòng đàm phán Uruguay năm 1986, các nước đã
nhất trí đưa thương mại dịch vụ vào đàm phán với tư cách một bộ phận trong cam
kết trọn gói và tin rằng điều đó sẽ cải thiện toàn bộ hệ thống thương mại thế giới.
Với những ý tưởng và quan niệm như vậy, các cuộc đàm phán tại vòng
Uruguay trở nên tham vọng và phức tạp. Trên thực tiễn, năm 1986 các Bộ trưởng
đã đồng ý thảo luận một loạt các vấn đề có tác động đến thương mại thế giới. Vòng
đàm phán này đã đặt ra mục tiêu giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan đối với
17
hàng hoá, mở rộng các quy tắc đa phương trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như
trong dệt may. Vòng đàm phán này cũng đề ra mục tiêu xây dựng một chế độ
thương mại tự do hơn cho thương mại dịch vụ thông qua việc hình thành một
khuôn khổ các nguyên tắc và quy định thương mại. Việc đưa thương mại dịch vụ
vào phạm vi đàm phán đã khắc phục được một khiếm khuyết nghiêm trọng của các
quy tắc thương mại đa biên. Kết quả của những nỗ lực đó là việc ra đời của GATS.
Tóm lại, GATS ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển thương mại
quốc tế. Nó đã xây dựng nên những quy tắc đầu tiên về tự do thương mại dịch vụ
trên phạm vi toàn thế giới.
1.2.1.2 Nội dung của Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ (GATS)
GATS là hiệp định đầu tiên mang tính đa biên điều chỉnh thương mại dịch
vụ. Hiệp định này bao gồm 29 điều khoản chủ yếu, đồng thời có các phụ lục đi
kèm tạo thành một bộ phận không thể tách rời và Hiệp định được chia thành 3
phần chính như sau:
Phần I: là phần hiệp định khung về các nguyên tắc và nghĩa vụ chung bao
gồm các điều khoản sau:
+ Điều 1: Phạm vi và định nghĩa
+ Điều 2: Đối xử tối huệ quốc
+ Điều 3: Sự minh bạch
+ Điều 3 bis: Sự tiết lộ các thông tin bí mật
+ Điều 4: Sự gia nhập ngày càng tăng của các nước đang phát triển
+ Điều 5: Liên kết kinh tế
+ Điều 5 bis: Các hiệp định về liên kết thị trường lao động
+ Điều 6: Quy định trong nước
+ Điều 7: Sự thừa nhận bằng cấp
+ Điều 8: Độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền
+ Điều 9: Thông lệ kinh doanh
+ Điều 10: Các biện pháp tự vệ khẩn cấp
+ Điều 11: Các khoản thanh toán và chuyển tiền
18
+ Điều 12: Các hạn chế nhằm bảo hộ cán cân thanh toán
+ Điều 13: Mua sắm của Chính phủ
+ Điều 14: Các loại trừ chung
+ Điều 15: Trợ cấp
Phần II: là các cam kết cụ thể bao gồm các điều khoản sau
+ Điều 16: Tiếp cận thị trường
+ Điều 17: Đối xử quốc gia
+ Điều 18: Các cam kết bổ sung
+ Điều 19: Đàm phán các cam kết cụ thể
+ Điều 20: Lịch trình thực hiện các cam kết cụ thể
+ Điều 21: Sửa đổi lịch trình
+ Điều 22: Tham vấn
+ Điều23: Giải quyết tranh chấp và thi hành
+ Điều 24: Hội đồng thương mại dịch vụ
+ Điều 25: Hợp tác kỹ thuật
+ Điều 26: Quan hệ với các tổ chức quốc tế khác
+ Điều 27: Từ chối các lợi ích
+ Điều 28: Các định nghĩa
Phần III: là các phụ lục về một số loại hình dịch vụ bao gồm các phụ lục
thuộc điều 29 như sau:
+ Phụ lục về các miễn trừ đối với điều 2
+ Phụ lục về sự di chuyển của các tự nhiên nhân cung cấp dịch vụ theo hiệp định
+ Phụ lục về dịch vụ vận tải hàng không
+ Phụ lục về dịch vụ tài chính
+ Phụ lục thứ hai về dịch vụ tài chính
+ Phụ lục về các đàm phán về dịch vụ vận tải biển
+ Phụ lục về dịch vụ viễn thông
+ Phụ lục về các đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản
19
GATS là một thoả thuận liên Chính phủ “thành lập nên một khuôn khổ đa
phương các nguyên tắc và quy định về thương mại dịch vụ với mục tiêu mở rộng
thương mại theo các điều kiện minh bạch hoá và tự do hoá hơn nữa”. Các nước
thành viên thông qua đàm phán để đưa ra các cam kết của mình trên cơ sở điều
chỉnh luật lệ và các quy định của quốc gia. Việc điều chỉnh luật lệ sẽ được tiến
hành từng bước, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn mọi hạn chế đối với dịch vụ nhập khẩu
cũng như nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài khi tiến hành cung cấp dịch vụ theo
những phương thức khác nhau.
Hiệp định GATS được WTO quản lý cùng với các hiệp định khác của vòng
đàm phán Uruguay. Cơ quan chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của Hiệp định
GATS là Hội đồng thương mại dịch vụ. Theo điều 24 của Hiệp định GATS, Hội
đồng này có quyền hạn rất lớn: có thể tiến hành bất cứ hoạt động nào phục vụ cho
việc thực thi hiệp định và các mục tiêu xa hơn. Hội đồng có thể thành lập các cơ
quan trực thuộc trong trường hợp cần thiết và những cơ quan này cũng có quyền
thiết lập những quy định về thủ tục làm việc riêng sau khi được sự phê chuẩn của
Hội đồng.
1.2.1.3 Phạm vi áp dụng của GATS
Các quy tắc của GATS được áp dụng cho tất cả các loại hình dịch vụ ở cả
hiện tại và tương lai. Tuy nhiên mức độ mở cửa thị trường của từng nước không
được quy định một cách tự động mà được xác định thông qua đàm phán. Một số
điều khoản của GATS như nghĩa vụ MFN và minh bạch hoá được áp dụng cho tất
cả các lĩnh vực dịch vụ, nhưng các điều khoản liên quan tới tiếp cận thị trường và
đãi ngộ quốc gia cho tới nay chỉ được áp dụng trong những lĩnh vực cụ thể mà các
nước có đưa ra cam kết. Mức độ cam kết của các nước thành viên khác nhau rất xa
và chưa có thành viên nào đưa ra cam kết trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ.
Quy tắc của GATS cũng được áp dụng đối với mọi biện pháp của các nước
thành viên có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ. “Biện pháp” ở đây được hiểu rất
rộng, đó là bao gồm “bất kỳ biện pháp nào của một nước thành viên, cho dù dưới
hình thức một luật lệ, một quy định, một quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động
20
quản lý hành chính hay bất kỳ một hình thức nào khác ”. Các biện pháp có thể “do
Chính phủ, các cơ quan trung ương, vùng hay địa phương áp dụng” hoặc “do các
cơ quan phi Chính phủ áp dụng khi thực hiện các quyền hạn mà các cơ quan Chính
phủ, trung ương, vùng hay địa phương giao cho”.
Mặc dù phạm vi của GATS rất rộng, đề cập đến tất cả các biện pháp có ảnh
hưởng đến thương mại dịch vụ, song một số vấn đề quan trọng có ảnh hưởng lớn
đến các nhà cung cấp dịch vụ vẫn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của GATS như:
- Các quy định về nhập cảnh
- Các dịch vụ được cung cấp theo thẩm quyền của các cơ quan Chính phủ
- Các chính sách tài chính và các biện pháp thuế
- Quản lý tỷ giá ngoại hối
- Các vấn đề về tư nhân hoá
1.2.1.4 Các nguyên tắc cơ bản của GATS
GATS tuân thủ các nguyên tắc của thương mại truyền thống trong lĩnh vực
hàng hoá để điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ. Mục tiêu của các nguyên
tắc này là nhằm đảm bảo sự đối xử công bằng thuận lợi cho mọi nhà đầu tư trong
nước và ngoài nước. Cụ thể là:
* Minh bạch hoá chính sách
Đây là nguyên tắc và nghĩa vụ vô điều kiện của GATS đối với các nước thành
viên. Nó cũng là nguyên tắc cốt yếu để tiến tới tự do hoá đa phương. Nguyên tắc
này giúp các thành viên và các doanh nghiệp xác định được những hạn chế và bảo
hộ từ đó đề ra các chính sách, chiến lược phù hợp. Các nghĩa vụ cơ bản của
nguyên tắc này là việc xuất bản và thông báo nhanh chóng các thay đổi pháp luật,
duy trì các điểm hỏi đáp và tiến hành rà soát pháp lý một cách công bằng.
“Tất cả các biện pháp được áp dụng một cách rộng rãi có liên quan hay ảnh
hưởng đến việc thực hiện GATS” phải được công bố nhanh chóng và “chậm nhất
là vào thời điểm các biện pháp này có hiệu lực”. Kể cả ở những lĩnh vực của một
Chính phủ thuộc “các Hiệp định quốc tế có liên quan hay có tác động đến thương
mại dịch vụ ” thì Chính phủ đó vẫn phải có nghĩa vụ thông báo. Việc công bố các