Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

tiểu luận đồng euro và cuộc khủng hoảng nợ công châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.38 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
----------

MÔN: QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Tên đề tài:

ĐỒNG EURO VÀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
CHÂU ÂU

GVHD: PGS.TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo
Thực hiện: Nhóm 1
1. Trần Vĩnh Bình
2. Đỗ Thị Lệ Khánh
3. Lê Tuyết Linh
4. Trần Thanh Phong
5. Lê Bảo Trâm
6. Phan Trịnh Dũng Tâm

TP.H CHÍ MINH, 02/2014


MỤC LỤC
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐỒNG EURO.........................................................................................1
1.1. Bước tiến trên đường đến Châu Âu hợp nhất .............................................................................1
1.2. Tiến trình thay thế đồng bản tệ bằng đồng Euro ........................................................................2
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐỐI VỚI KINH TẾ CÁC NƯỚC EU .......................................4
2.1. Lợi thế.........................................................................................................................................5
2.2. Hạn chế .......................................................................................................................................6
3. CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CƠNG CHÂU ÂU...........................................................................7


3.1 Khái niệm nợ cơng.......................................................................................................................7
3.2 Hiện trạng nợ của châu Âu ..........................................................................................................7
3.3 Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu .................................................................10
3.4 Hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu....................................................................18
3.4.1. Đối với khu vực Châu Âu. .................................................................................................18
3.4.2 Đối với Việt Nam................................................................................................................20
3.5 Biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng nợ cơng Châu Âu ....................................................23


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐỒNG EURO
1.1. Bước tiến trên đường đến Châu Âu hợp nhất
Nhằm mở rộng các tiến trình liên kết, hợp tác giữa các nước thành viên và các dân tộc, EU
đã và đang thực hiện các biện pháp sau:


Tạo ra tiến bộ về kinh tế - xã hội cân đối thông qua một không gian không biên giới bên

trong và thúc đẩy nền kinh tế thị trường cởi mở, tự do cạnh tranh.


Thực hiện chính sách đối ngoại và an ninh chung, dần tiến tới một chính sách quốc phịng

chung. Đến thời điểm chín muồi, chính sách này sẽ dẫn đến một nền quốc phòng chung.


Bảo vệ các quyền về lợi ích của kiều dân các nước thành viên bằng việc cho ra quốc tịch

liên bang.

Nỗ lực thống nhất Châu Âu được thể hiện tại cuộc họp thượng đỉnh các nước thuộc EU ở
Maastricht (tháng 12/1991) với Hiệp Ước được thông qua về thống nhất EU, về việc thành lập
EMU và Liên Minh Chính Trị (EPU) nhằm làm cho Châu Âu thay đổi mạnh vào năm 2000 với
một nền văn minh mới. Ngày 2/10/1997 tại Amsterdam (Hà Lan) ngoại trưởng các nước EU đã
ký chính thức bản Dự thảo hiệp định đã được các nhà lãnh đạo cao cấp EU thông qua tại cuộc
họp lần thứ 57 (tháng 6/1997).
Hiệp Định Amsterdam có các sửa đổi quan trọng, là sự nối tiếp và bổ sung cho Hiệp Ước
Maastricht về thành lập EU cùng các cải tổ sâu sắc hệ thống thể chế của EU để tăng cường hơn
nữa liên kết giữa các nước thành viên, đưa tiến trình liên kết lên một mức mới cao hơn trên mọi
lĩnh vực trong bối cảnh EU s ẽ tiếp tục mở rộng số nước thành viên lên tới 25 nước trong những
thập niên đầu thế kỷ 21. EU tập trung thiết lập ba vành đai kinh tế: các nước trong Cộng Đồng
Châu Âu là hạt nhân (15 nước EU hiện tại làm trung tâm), Hiệp Hội Thương Mại Tự Do Châu
Âu (EFTA) là vành đai thứ hai, một số nước Đông Âu là vành đai thứ ba.
Đầu năm 1998, EU đã kết nạp thêm 6 nước thành viên mới: Hungary, Ba Lan, Cộng hòa
Czech, Estonia, Slovenia và Chypres.
Sau 40 năm đà m phán, kể từ khi nguyên thủ của các quốc gia Châu Âu ký Hiệp Ước
Roma nă m 1957, cuối cùng Liên Minh Tiền Tệ Châu Âu (EMU) đã chính thức hoạt động vào
ngày 1/1/1999, 11 nước tham gia vào EMU đồng ý chuyển giao các chính sách đồng tiền riêng
rẽ của từng nước cho một tổ chức thống nhất mới là Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu (ECB)

Nhóm 1

Trang 1


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

và đồng Euro được chính thức sử dụng để trao đổi và mua bán hàng hóa, dịch vụ. Từ tháng
1/2000 Hy Lạp là thành viên thứ 12 gia nhập vào khu vực EMU.
1.2. Tiến trình thay thế đồng bản tệ bằng đồng Euro

Từ 1/1/1999, hệ thống tài chính Châu Âu sẽ bắt đầu được thay đổi hoàn toàn. Thời gian
đầu chỉ có giao dịch chính thức mới sử dụng Euro, sau đó các giao dịch thương mại sẽ dần dần
sử dụng đồng Euro. Cũng vào đầu năm 1999, hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia thành viên sẽ
được cố định theo yêu cầu của tình hình chuyển đổi tiền tệ. Tuy nhiên đồng Euro giấy cũng như
đồng Euro kim loại sẽ chưa thay thế hẳn các đồng tiền quốc gia trong sinh hoạt hàng ngày của
mỗi nước cho tới tận năm 2002. Từ ngày 1/1/2002, đồng Euro được chính thức đưa vào lưu
thông. Khoảng 60 tỷ đồng Euro tiền giấy và 37 tỷ đồng kim loại đã được phát hành trên khắp 12
nước thuộc khu vực EMU, thay thế dần các đồng tiền quốc gia. Các ngân hàng đảm nhận vai trị
chính trong tiến trình chuyển đổi.
Về mặt kỹ thuật, Euro được đưa vào sử dụng ngày 1/1/1999, nhưng thực tế cho đến thứ
hai ngày 4/1/2001, các giao dịch bằng đồng Euro không phải bằng tiền mặt mới bắt đầu được
tiến hành. Tất cả các giao dịch bằng tiền mặt vẫn tiếp tục sử dụng bằng đồng tiền riêng của các
quốc gia Châu Âu tới ngày 1/1/2002, khi các đồng tiền Euro giấy và kim loại được lưu hành.
Trong vòng 6 tháng chuyển tiếp và kết thúc vào 30/6/2002, đồng Euro vẫn được sử dụng song
hành với các đồng tiền riêng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên các đồng tiền riêng chỉ được coi là
một biểu hiện khác của đồng Euro. Kể từ ngày 1/7/2002 các đồng tiền bản tệ của 12 nước thành
viên EMU sẽ kết thúc lịch sử tồn tại của mình, rút ra khỏi lưu thơng và nhường chỗ cho đồng
Euro trở thành đồng tiền duy nhất lưu hành hợp pháp.
Tài S n C a T ư Nhân Trên Th Gi i
USD
12
40
25

C đ ng ti n
ác
khác
E
uro


23

Nhóm 1

Yen

Trang 2


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
D Tr Ngo i T Qu c T
USD

6
20

14

C đ ng ti n
ác
khác
60

E
uro
Yen

Ngay từ đầu năm 1999, khách hàng và các doanh nhân có thể mở các tài khoản ngân hàng,
ghi “séc” và vay tiền bằng đồng Euro. Các du lịch có thể mua các séc du lịch bằng đồng Euro.
Cổ phiếu và trái phiếu ghi mệnh giá bằng Euro. EMI là chữ viết tắt của European Economics

and Monetary Union (Liên Minh Kinh Tế và Tiền Tệ Châu Âu), đây là tên chính thức của một
hệ thống mà theo đó các quốc gia thành viên sẽ cùng có chính sách tiền tệ chung. Việc thành lập
liên minh này đã được thảo luận từ hàng thập niên nay. Vào năm 1992, các nước thuộc EU đã
ký Hiệp Ước Maastricht để thành lập đồng tiền chung và thiết lập các tiêu chuẩn mà các quốc
gia cần phải đáp ứng, nếu họ muốn trở thành thành viên EMU.
Để tiến hành hoạt động của EMU, một tổ chức có tên gọi ECB (Ngân Hàng Chung Châu
Âu) có trụ sở ở Franfurt (Đức) ECB s ẽ ấn định lãi s uất và điều hành các chính sách tiền tệ của
12 quốc gia thành viên. ECB có chức năng gần giống như ngân hàng Dự Trữ Liên Bang Mỹ
(Federal Reserve), tức hình thức ngân hàng trung ương, như:


Phải lựa chọn được chính sách phù hợp cho sự phát triển kinh tế của các nước Châu Âu.



Phải đảm bảo rằng Chính phủ các nước thành viên tuân thủ các chính sách tài chính đã

thỏa thuận, phải giành được sự tin tưởng ở công chúng.


Phải bảo vệ được sự độc lập chính trị đối với các nước thành viên muốn sử dụng chính

sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển kinh tế nước mình. ECB cũng cịn phải thực hiện các hoạt
động trao đổi hối đoái, quản lý các quỹ dự trữ chính thức của Châu Âu và thúc đẩy hoạt động
của hệ thống thanh tốn được diễn ra sn sẻ.
 Vai trò của đồng Euro
Sự ra đời của đồng Euro mang lại những lợi ích sau:


Giảm chi phí sản xuất và lưu thơng (giảm dịch vụ phí chuyển đổi ngoại tệ và phí bảo hiểm


rủi ro ngoại tệ).

Nhóm 1

Trang 3


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu



Khả năng đảm bảo tính trong sáng tối đa của giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ vì có thể

dễ dàng so sánh mặt bằng giá cả của các nước thành viên.


Tăng cường khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các ngân

hàng với nhau.


Khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu qua biên giới, cung cấp những nguồn tín

dụng cho hoạt động thương mại, d ịch vụ qua biên giới.


Ngoài ra sự ra đời của đồng Euro sẽ làm cho hoạt động tài chính và thương mại của thế

giới ít lệ thuộc hơn vào đồng đơ la Mỹ. Vì hiện nay gần 50% trị giá xuất nhập khẩu của thế giới

thanh toán qua đồng USD và USD chiếm 40% khối lượng buôn bán ngoại tệ, các đồng tiền
Châu Á chiếm 35% và đồng Yên Nhật chiếm 10%. Năm 1996 tổng vốn đầu tư của tư nhân trên
thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng USD 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật
chiếm 12%. Theo các tài liệu của ngân hàng thanh tốn quốc tế, phần vay bằng đơ la Mỹ của
các ngân hàng trên thị trường quốc tế chiếm 30% và bằng Yên Nhật chiếm 13%, còn phần tiền
gửi ngoại tệ tương ứng là 43%, 34% và 8%.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, dự trữ ngoại tệ của thế giới ở đồng
EURO liên tục gia tăng: năm 2001 là 13%; 2002 là 16,4%; 2003 là 18,7%; tháng 9/2007 là
26,4%.
Tóm lại, sự ra đời của đồng Euro làm thay đổi cục diện các đồng tiền mạnh trên thế giới.
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐỐI VỚI KINH TẾ CÁC NƯỚC EU
Các người đứng đầu chính phủ các nước EU đã chính thức làm lễ khai s anh đồng Euro
khi long trọng khẳng định có 11 nước tham gia (hiện là 18) đồng tiền này, đồng thời xác định cơ
chế tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia so với đồng Euro.
Các nước tham gia đồng tiền chung này được gọi là những nước thuộc “Euroland” (Khu
vực đồng Euro), lúc đầu gồm 11 nước. Đức, Pháp, Ý, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Áo, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, và Phần Lan. Cịn được gọi là nhóm EU11 và hiện nay là EU12. Kể
từ khi khu vực đồng Euro ra đời, bất chấp sự khủng hoảng nền kinh tế thế giới, đặc biệt là cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và ở Nga, sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền các
nước thuộc EU ở mức không đáng kể. Khu vực đồng Euro là 1 trung tâm kinh tế của thế giới,
chiếm 19,4% GDP tồn thế giới (trong khi đó của Mỹ là 19,6% và Nhật Bản là 7,7%) và 20%
kim ngạch buôn bán thế giới (so với 16% của Mỹ và 10% của Nhật).

Nhóm 1

Trang 4


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu


2.1. Lợi thế
Việc xây dựng thành công khu vực đồng Euro sẽ mang lại cho các nước trong khu vực
nhiều lợi thế:


Việc 11 nước ban đầu tham gia EM U – Liên minh tiền tệ Châu Âu hình thành một thị

trường rộng lớn trên thế giới và nền kinh tế gần tương đương với M ỹ có trình độ phát triển kinh
tế cao. Như vậy các nước EU sẽ trở thành một khối kinh t ế vững mạnh hơn, liên kết chặt chẽ
hơn, và do đó địa vị của EU sẽ được nâng cao, nhất là trong quan hệ kinh tế với M ỹ. Đồng thời
sẽ tăng cường sức mạnh kinh tế quốc tế của khu vực đồng Euro, đảm bảo cho khu vực này ít bị
tác động bởi các biến động tài chính, tiền tệ quốc tế, như cơn bão tài chính năm 1997 ở Châu Á.


ECB có năng lực lớn hơn nhiều so với từng nước EU riêng lẻ trong việc kiềm chế lạm

phát, chủ động ấn định lãi suất, do đó sự ổn định giá cả trong khu vực đồng Euro, tạo điều kiện
thuận lợi trong kinh doanh.


EM U và đồng Euro ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá

trình liên kết kinh tế giữa các nước này, t ạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu
Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần
hồn thiện thị trường chung châu Âu. Sự ra đời của đồng Euro sẽ giúp cho các nước thành viên
tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia cũng như việc các nhà đầu
cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của toàn khối.



Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - N gân hàng Trung ương

châu Âu (ECB), với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ
sở cho kinh tế phát triển khơng cịn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch
định một chính sách tài chính vĩ mơ cho liên m inh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu
vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi
nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế.
Hơn nữa, khi đồng Euro được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hóa bày bán trong các nước
thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng Euro nên sẽ làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền
phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia. Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến
khoảng 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ t ạo điều kiện
đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự dao động tỷ giá
của đồng U SD vì sẽ khơng cịn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền
Nhóm 1

Trang 5


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

khác lại lên giá. Cuối cùng sự ổn định của khu vực đồng Euro tạo nên sức thu hút tư bản nước
ngoài đầu tư vào khu vực này.
2.2. Hạn chế


Trên thực tế, các nền kinh tế EU khó có thể tăng trưởng đồng đều. Một biến động nào đó ở

từng nước hoặc trên thế giới sẽ có tác động khác nhau đến động thái của từng nước. Lúc đó một
chính sách tiền tệ chung có thể là quá nới lỏng với nước này, nhưng lại quá khắt khe với một
nước khác.



Lãi suất do ECB đề ra có thể sẽ quá thấp để hạn chế lạm phát ở một số nước đang tăng

trưởng mạnh, nhưng lại quá cao để kích thích tăng trưởng ở các nước kinh tế đang suy giảm.
Như vậy việc thi hành một chính sách tiền tệ chung thích hợp cho tất cả nước thành viên vẫn
còn nhiều hạn chế.


Việc ra đời đồng tiền chung có tác dụng tăng cường sự cạnh tranh khu vực, từ đó sẽ thúc

đẩy sự phát triển phân cực giữa các nước. Cho đến nay, EU vẫn chưa giải quyết được triệt để sự
phân hóa về trình độ phát triển giữa Bắc và Nam của Ý, giữa Đông và Tây Đức, giữa các vùng
ở Pháp vẫn còn rất lớn. Trong một quốc gia đã khó giải quyết, vấn đề phát triển phân cực giữa
các nước lại càng khó hơn. Để có sự thống nhất của 15 thành viên trước đây và 25 thành viên
hôm nay (2006) vốn có các hồn cảnh, điều kiện và các mối quan hệ khác nhau thực không dễ.
Vấn đề đặt ra đối với việc cải cách sắp tới của EU là các nước phải tìm các biện pháp hữu hiệu
để dung hịa lợi ích của từng quốc gia thành viên, vừa đảm bảo sự phát triển của EU vừa giữ
được bản sắc riêng về kinh tế, chính trị, văn hóa,… Dù sao các thành cơng của EU đã và sẽ là
các đóng góp lớn đối với sự phát triển của nhân loại.

Nhóm 1

Trang 6


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

3. CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU
3.1 Khái niệm nợ cơng

Một cách khái qt nhất, có thể hiểu “nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng giá
trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ
cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách
luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mơ của nợ chính phủ, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội
(GDP)”1 .
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay
trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thơng qua phát hành trái phiếu chính
phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên,
chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính
quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), WB...
3.2 Hiện trạng nợ của châu Âu
Sau khi vấn đề nợ cơng của Mỹ tạm lắng, tài chính thế giới tiếp tục nhức nhối với khủng
hoảng nợ tại châu Âu và sự mất giá mạnh của đồng Euro.

1

/>
Nhóm 1

Trang 7


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Nguồn: Guim.co.uk

Đến thời điểm 2010, so với nợ công của M ỹ là 93.6% GDP, Nhật Bản là 197% GDP (cao
nhất thế giới), thì của khối liên minh Châu Âu (EU) là 80.3%, trong đó có những quốc gia mang

nợ khủng như Hy Lạp (125% GDP), It aly (117% GDP) và Ireland (82,6% GDP).
Tình hình các quốc gia đầu tàu của khu vực Eurozone:
Đức: Nền kinh t ế lớn nhất Eurozone này đã gần như đình trệ trong quý khi chỉ t ăng
trưởng 0,1% khiến cho việc giải quyết khủng hoảng nợ công châu Âu không mấy khả quan.
Tổng nợ công của Đức là 2000 tỷ Euro, chiếm 82%GDP.Pháp : Nền kinh tế lớn thứ 2 của khu
vực Eurozone, nhưng tốc độ tăng trưởng trong quý 2 là 0%. Nợ Pháp dự kiến sẽ đạt mức 85,3%
Nhóm 1

Trang 8


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

GDP năm nay. Đây là con số cao nhất trong số những quốc gia châu Âu có hạng mức tín nhiệm
AAA.M ặc dù Pháp có nhiều tập đồn nổi tiếng thế giới như LVM H M oët Hennessey Louis
Vuitton, L’Oréal, Renault và Danone, nhưng nền kinh tế lại tăng trưởng chậm so với mức dự
báo. Thất nghiệp đang ở mức khoảng 9%. N gày 10.8, cổ phiếu của ngân hàng Pháp như Sociét é
Générale, BNP Paribas sụt giảm mạnh do lo ngại Pháp sẽ bị hạ mức t ín nhiệm AAA. Lý do là
các ngân hàng này nắm giữ rất nhiều trái phiếu của Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha và một lượng trái
phiếu khổng lồ của Pháp.

Tăng trưởng kinh tế quý I/2010 tại châu Âu. (Nguồn: BBC)

Nhóm 1

Trang 9


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu


3.3 Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
“Khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng bị phóng đại bởi một số quỹ
đầu tư có ý đồ xấu trên thị trường vốn quốc tế và các phương tiện truyền thơng.
Mục đích của ý đồ này chính là:
Thứ nhất, muốn chống lại đồng EUR, tạo ra một sự bất ổn kinh tế cho toàn bộ nền kinh
tế châu Âu; Hai là muốn xoay chuyển đồng USD theo chiều hướng suy yếu trên thị trường tài
chính quốc tế, nhằm bảo vệ ngôi vị bá chủ tiền tệ thế giới của đồng Mỹ kim.
Trong thế giới hiện tại, đồng EUR có ảnh hưởng ngày càng lớn, dần dần gây nên mối đe
dọa trực tiếp cho ngôi vị bá chủ của đồng USD trong lĩnh vực tài chính. Do đó, việc chống lại
đồng EUR, chắc chắn sẽ giúp nâng cao được vị trí mạnh mẽ của đồng Mỹ kim. Nếu đồng EUR
sụp đổ, khơng chỉ có thể xóa bỏ hồn tồn mối đe dọa của đồng EUR đối với ngơi vị bá chủ của
đồng USD, mà cịn có thể ngăn chặn nền kinh tế châu Âu thách thức nền kinh tế Mỹ. Cho dù
khơng thể hủy hoại đồng EUR, hình thái theo chiều hướng đi lên phá vỡ đồng EUR sẽ có lợi
chứ khơng hề có hại cho đồng USD. Cho nên, trong khi hành động chống lại đồng EUR, các
quỹ đầu tư và các phương tiện truyền thông mà họ khống chế đã phóng đại tính nghiêm trọng
của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu trên thị trường vốn quốc tế, nhằm mục đích khơng chỉ tạo ra
tâm lý khủng hoảng cho thị trường, dọa các nhà đầu tư bán tháo đồng EUR trong tay họ, mà còn
tạo điều kiện môi trường thị trường cần thiết để họ giành được thắng lợi trong các hoạt động
đầu tư trên thị trường vốn quốc tế, hành động này cũng đã gia tăng thêm động lực đẩy đồng
EUR sụt giảm nhanh chóng.
Có thể nói khủng hoảng nợ châu Âu là một âm mưu để "mưu sát" đồng EUR, bởi vì
chúng ta có thể tìm ra bằng chứng từ việc Ngân hàng Goldman Sachs bắt đầu giúp chính phủ
Hy Lạp và ban quản lý tài chính hoạch định mơ hình phát hành chứng khốn thế chấp bằng
đồng EUR. Go ldman Sachs đã nhử Hy Lạp rơi vào một cái bẫy nợ, trong một thời gian dài đã
che giấu sự thật với các cơ quan quản lý tài chính của Liên minh châu Âu (EU), hình thành nên
cuộc khủng hoảng nợ, từ đó buộc phải cầu cứu viện trợ từ bên ngoài. Đồng thời, các tập đồn
tài chính của Mỹ đã lợi dụng cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp, một mặt thơng qua một nhóm do
mình khống chế, phóng đại tính nghiêm trọng của khủng hoảng nợ tại các nước châu Âu, mặt
Nhóm 1


Trang 10


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

khác đợi đến lúc thích hợp nhờ các cơ quan xếp hạng tín dụng quốc tế đánh tụt xếp hạng tín
dụng nợ của một số nước, gia tăng thêm sự sụp đổ tín dụng nợ của các nước, cố để hình thành
một cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu mới được diễn biến từ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu,
thậm chí còn gây ra một sụp đổ của đồng EUR.
Nếu so sánh tình hình khủng hoảng nợ của “5 quốc gia Nam Âu – PIIGS” vào phạm vi
tồn cầu có thể thấy rõ, mức độ của cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu vẫn còn khá nhẹ. Hy Lạp
- quốc gia được đánh giá có mức độ vay nợ nghiêm trọng nhất, nhưng nếu so với Mỹ về mức độ
thâm hụt tài chính thì Hy Lạp vẫn nhẹ hơn rất nhiều. Lượng phát hành trái phiếu Mỹ đã vượt
ngưỡng 13000 tỷ USD, đạt tới hơn 90% GDP của quốc gia này. Cịn quy mơ trái phiếu chính
phủ Nhật Bản cũng đã lên tới 229%, là quốc gia nguy hiểm nhất trong cuộc khủng hoảng nợ thế
giới, gấp đôi so với số trái phiếu chính phủ Hy Lạp chiếm xấp xỉ 120% GDP. Nhưng Standard
& Poors, Moodys, Fitch – ba cơ quan xếp hạng tín dụng có quyền lực lớn nhất hiện nay lại chưa
bao giờ đưa ra bất kỳ một sự cảnh báo nào ra ngồi thế giới về nợ cơng và thâm hụt ngân sách
của Mỹ, Nhật Bản. Bởi vì ba cơ quan đánh giá tín dụng này nằm trong tay kiểm sốt bởi các
nhóm tài chính lớn của Mỹ.
Một bằng chứng rõ ràng nữa cho vấn đề này chính là việc các chuyên gia kinh tế khẳng
định đồng đôla Mỹ (USD) không những không cáo chung mà đang tiếp tục giữ vị trí quan trọng
trong rổ các ngoại tệ mạnh nhất thế giới, nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu vừa
qua. Tình thế hiện nay tạo cho đồng USD vị thế cao trong rổ ngoại tệ mạnh toàn cầu, đặc biệt
trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ trong năm 2011 nhanh gấp 3 lần kinh tế Anh,
Nhật Bản và khu vực đồng euro. Lãi suất ở các nền kinh tế phát triển mới đây đã tăng cao
nhưng không tác động đến đồng USD.
Tuy nhiên, châu Âu suy cho cùng vẫn là một khu vực có chủ nghĩa tư bản lâu đời nhất,
thị trường vốn phát triển, khả năng kiểm soát rủi ro tài chính mạnh hơn Mỹ, trật tự tài chính
càng chuẩn mực hơn, càng khơng có nhiều sản phẩm tài chính phát sinh có thể gây ra khủng

hoảng tài chính với quy mô lớn như ở Mỹ. Cho nên, rủi ro tài chính của châu Âu hồn tồn có
thể khống chế được, khơng thể xuất hiện cuộc khủng hoảng tài chính như cơn bão tài chính ở
Phố Wall. Các nước chủ yếu của châu Âu đã ý thức được tầm quan trọng của việc giải cứu các
nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone đang nằm trong cơn bão nợ. Vì thế, khả
Nhóm 1

Trang 11


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

năng khủng hoảng nợ châu Âu diễn biến thành khủng hoảng tài chính với quy mơ lớn là khơng
lớn”2 .

Năm 1996, để chuẩn bị cho việc ra mắt đồng euro, Hội đồng châu Âu đã họp tại Dublin
để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và Liên minh châu Âu (EU) ký một hiệp ước quy định các
thành viên trong nhóm giới hạn thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt q 3% GDP và tổng
nợ chính phủ khơng vượt q 60% GDP quốc gia.
Mười một sáng lập viên lúc bấy giờ vẫn ấn định giờ G là ngày 1/1/1999 ra mắt đồng
euro. Nhưng khơng có quốc gia nào trong khối lúc bấy giờ đáp ứng được tiêu chí trên. Ví dụ lúc
đó Bỉ có tổng nợ quốc gia lên đến 131% GDP.
Tham vọng tạo ra một khối kinh tế chung có sức ảnh hưởng đã khiến cho các thành viên
sáng lập lúc bấy giờ muốn có càng nhiều thành viên càng tốt. Điều đó khiến các tham vọng
chính trị va vấp với những thực trạng về nền kinh tế các quốc gia.
Bất chấp tất cả, các quốc gia châu Âu “làm đẹp” sổ sách bằng mọi giá để kịp tiến độ gia
nhập. Lúc đó, con số “sạch đẹp” thâm hụt 4% của Hy Lạp khiến một số người nghi ngờ.
Thần kỳ hơn khi Hy Lạp giảm được mức thâm hụt xuống còn 2,5% vào năm 1998 và dự
báo lúc bấy giờ nói thâm hụt chỉ cịn 1,9% vào năm 1999. Cả châu Âu đã hoan hơ thành tích
này, tung hơ Hy Lạp như một câu chuyện thần kỳ khiến một số nước phải ngưỡng mộ. Tây Ban
Nha, Pháp, Bồ Đào Nha cũng cố gắng “đạt thành tích” thâm hụt chỉ 3%.


2

aichinhnganhang/LA78916/default.htm

Nhóm 1

Trang 12


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Quả đúng như người ta nghi ngờ: Tháng 3.2000, dưới một tiêu chuẩn kế toán mới, cho
thấy thâm hụt thực sự của Hy Lạp vào năm 1998 là 3,2%. Đến năm 2004 một báo cáo khác lại
chỉ ra con số thâm hụt của Hy Lạp vào năm 1998 là 4,3%, bởi Hy Lạp đã nhập nhằng tiền chi
tiêu mua sắm công với viện trợ chính phủ đến 2 tỉ euro.
Khơng chỉ thế, Hy Lạp cịn cố ý khơng tính đến một số chi tiêu quân sự cũng như y tế
trong tổng chi chính phủ. Ngược lại, quốc gia này cịn xem một số viện trợ từ châu Âu là khoản
thu vào của chính phủ. Với cách này, Hy Lạp đã “bùa” thâm hụt ngân sách năm 2003 một cách
khó tin. Vào tháng 3/2004, Hy Lạp công bố thâm hụt ngân sách 2,6 tỉ euro tương đương 1,7%,
tức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của EU là 2,7%. Điều đó khiến nhiều người nghi ngờ
và EU gây áp lực khiến Hy Lạp công bố lại.
Dưới áp lực từ châu Âu, Hy Lạp cơng bố là 3,2% bởi trước đó đã tính các trợ cấp thuế
ước tính của châu Âu vào nguồn thu chính phủ. Bốn tháng sau đó, Hy Lạp thừa nhận đã bỏ qua
một số khoản chi tiêu quân sự, tính cao lên giá trị thặng dư an sinh xã hội cùng lãi suất thấp đi,
nên con số thực phải là 4,6%. Đến tháng 3.2005, Hy Lạp “thành thật” thông báo thâm hụt của
năm 2003 là 5,2%. Và trong lần “thành thật” cuối cùng vào cuối năm đó, con số tăng lên mức
5,7%. Sau 18 tháng, số liệu thâm hụt năm 2003 đã tăng từ 2,6 tỉ lên 8,8 tỉ euro.
Theo ông Jean-Pierre Jouyet, chủ tịch uỷ ban Giám sát thị trường chứng khoán Pháp và
là cựu cố vấn trưởng của chủ tịch Uỷ ban châu Âu, vấn đề hiện tại của Hy Lạp cũng cho thấy

thể chế tài chính của EU khơng đủ năng lực và chun mơn để kềm chế những thành viên
không tuân thủ hiệp ước của khối. Liên minh tiền tệ EUROZONE đã được xem là cơng cụ cho
liên minh chính trị, nên các “sáng lập viên” chẳng hề quan tâm nhiều đến chuyện trừng phạt
thành viên vi phạm quy chế chung.
Năm 1996, khi thảo luận xem liệu có cần thiết có những cơng cụ trừng phạt những thành
viên vi phạm hay không, Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Thủ tướng Đức Helmut Kohl cho
rằng nên dựa vào ý thức, và cuối cùng EU ủng hộ chủ trương này. EU cho rằng các quốc gia sẽ
phải tự điều tiết lấy. Willem Bu iter, kinh tế gia trưởng của Citigroup và là thành viên của uỷ ban
Chính sách tiền tệ của ngân hàng Anh quốc, mơ tả hiệp ước 1996 như những con hổ giấy. Cịn
ơng Jean-Pierre Jouyet nói: “Một hiệp ước mà khơng có biện pháp trừng phạt thì là vơ
nghĩa”.Đâu chỉ Hy Lạp, vào năm 2002 đến 2004, Pháp và Đức vượt chuẩn thâm hụt thì các
Nhóm 1

Trang 13


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

quốc gia EU khác cũng bình chân như vại. Ơng Jean-Luc Dehaene, cựu Thủ tướng Bỉ, khơng
ngại chỉ trích: “Họ có xu hướng đưa ra quyết định chính trị”. Nay, đến khi Hy Lạp kêu van và lo
sợ đồng euro chết yểu thì EU mới vào cuộc3 .
Mặt khác, áp dụng kiến thức vĩ mơ đã được học, ta có thể nhận xét về nguyên nhân gây
ra khủng hoảng nợ chính phủ chính là ở chỗ hình thức 'trả nợ cơng' của chính phủ như thế nào
và hậu quả mà nó mang lại. Theo khách quan thì Chính phủ muốn thốt nợ phải áp dụng các
biện pháp sau:
(1) Phát hành trái phiếu chính phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu
chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là khơng có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng
thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát
hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với

khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể khơng có đủ ngoại tệ để thanh tốn và ngồi ra
cịn có rủi ro về tỷ giá hối đối.

3

htt p://dantri.com.vn/c76/s76-382564/khung-hoang-tai-chinh-o-hy-lap-nguyen-nhan-la-benh-thanh-tich.htm

Nhóm 1

Trang 14


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

(2) Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu
quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)... Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có
độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu
chính phủ của họ khơng cao. Và đây là các vấn đề gặp phải khi tính tốn nợ chính phủ.
(3) Lạm phát
Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính tốn thường khơng điều chỉnh ảnh hưởng của lạm
phát vì trong tính tốn chi tiêu của Chính phủ, người ta tính toán các khoản trả lãi vay theo lãi
suất danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh
nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại.
Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất
lớn.
(4) Tài sản đầu tư
Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính tốn nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản
chính phủ. Điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân: khi một cá nhân vay tiền
để mua nhà thì khơng thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi

giá trị của căn nhà. Tuy nhiên khi tính tốn theo phương pháp này lại gặp phải vấn đề những gì
nên coi là tài sản của chính phủ và tính tốn giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ,
kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục...
(5) Các khoản nợ tiềm tàng
Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính tốn nợ chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng
như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao

Nhóm 1

Trang 15


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của
người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ khơng có khả năng thanh tốn4 ...

Những mốc chính trong khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Dưới đây là những mốc quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng 11/2009
khi chính phủ mới của Hy Lạp khiến thế giới chấn động với việc tuyên bố nâng gấp đôi ước tính
về thâm hụt ngân sách năm 2009.
5/11/2009 Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7%
GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
22/12/2009 Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức A2 từ mức A1 bởi thâm hụt
ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ 3 hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp.
14/1/2010 Chính phủ Hy Lạp cơng bố kế hoạch bình ổn, chính phủ Hy Lạp tun bố
muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 2,8% GDP vào năm 2012.
29/1/2010 Chính phủ Tây Ban Nha cơng bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương đương
70 tỷ USD trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP. Lương lao động trong lĩnh
vực công giảm 4%.

11/4/2010 Bộ trưởng Tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu chấp
thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần.
23/4/2010 Hy Lạp cầu cứu EU và IMF.
2/5/2010 Thủ tướng Hy Lạp cho biết chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU
và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm
tới. Gói giải cứu Hy Lạp nhận được bao gồm 110 tỷ euro trong 3 năm. Đây là nước đầu tiên tại
khu vực đồng tiền chung châu Âu được hỗ trợ. Chính phủ Đức đồng ý góp 22,4 tỷ euro tương
đương 30 tỷ USD cho kế hoạch cứu Hy Lạp.
4

T ạp chí tiền tệ và thị trường Mỹ

Nhóm 1

Trang 16


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

9/5/2010 IMF đơn phương chấp thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập
tức 5,5 tỷ euro.
10/5/2010 Các nhà hoạch định chính sách kinh tế tồn cầu đưa ra kế hoạch khẩn cấp trị
giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh
hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp. Gói giải cứu bao gồm 440 tỷ euro từ các nước thuộc
khu vực đồng tiền chung châu Âu, 60 tỷ euro từ công cụ nợ của châu Âu. IMF đóng góp 250 tỷ
euro, tổng số tiền lên tới 750 tỷ euro tương đương khoảng gần 1.000 tỷ USD tính theo tỷ giá ở
thời điểm đó.
18/5/2010 Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ tài chính được coi như
nguyên nhân dẫn dến khủng hoảng nợ, công bố cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ
chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ đồng euro và hợp đồng hốn đổi vỡ nợ tín

dụng (CDS).
25/5/2010 Nộ i các Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ
euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách về mức 2,7% GDP từ mức 5,3% của
năm 2009.
27/5/2010 Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân s ách nhằm tiết
kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD
28/5/2010 Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống AA+ bởi nợ tiêu
dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức quá cao, đó là chưa kể đến nợ công đang ở
mức đáng báo động.
29/5/2010 Hàng ngàn người biểu tình ở Lisbon - Bồ Đào Nha để phản đối kế hoạch thắt
chặt ngân sách của chính phủ.
7/6/2010 Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách và thuế để
hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách của Đức về mức quy định của Liên minh châu Âu
trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2013.

Nhóm 1

Trang 17


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

8/6/2010 Cơng đồn Tây Ban Nha cơng bố 75% người lao động trong lĩnh vực công
không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của chính phủ. Tỷ lệ lạm phát
của Hy Lạp tháng 5/2010 tăng 5,4%, vượt mọi kỳ vọng của các chuyên gia và lên mức cao nhất
từ tháng 8/1997.
9/6/2010 Kế hoạch thắt chặt ngân sách được bàn đến trong các cuộc bầu cử và Đảng có
chủ trương này đã chiến thắng. Tuy nhiên cuối cùng, thật khó để các nhà hoạch định chính sách
thống nhất với nhau.
10/6/2010 Thỏa thuận để cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ. Chính phủ buộc

phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn dù khơng có sự hỗ trợ của nghiệp
đoàn lao động.
3.4 Hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
3.4.1. Đối với khu vực Châu Âu.
Thất nghiệp tăng kỷ lục
Một số nhà phân tích cho rằng, kinh tế châu Âu suy thối càng làm tình hình thất nghiệp
thêm trầm trọng. Theo Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone
đang đứng ở mức 10,9%, mức cao nhất kể từ khi đồng euro được đưa vào sử dụng năm 1999.
Trong đó, tính đến tháng 4/2012, khoảng 17,4 triệu lao động tại Eurozone ở trong tình trạng thất
nghiệp, là tháng thứ 12 tỷ lệ này tăng liên tiếp.
Một điểm đáng chú ý trong thống kê của Eurostat, là sự khác biệt về tỷ lệ thất nghiệp
giữa các thành viên Eurozone ngày càng lớn. Tại Áo hay Hà Lan, tỷ lệ thất nghiệp chỉ là 4,2%
và 4,9%. Đức đứng hạng ba, với một tỷ lệ được coi là ổn định ở mức 5,7%. Trong khi tỷ lệ này
tại Italy và Pháp lần lượt là 9,3% và 10%.
Tồi tệ hơn là tình trạng thất nghiệp tại Ireland (14,7%), Bồ Đào Nha (15%), Hy Lạp
(21%). Riêng Tây Ban Nha đang là nước có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất tại Eurozone (23,6%), với
hơn một nửa thanh niên trong độ tuổi từ 16-25 bị gạt ra ngoài thị trường lao động.
Các nước châu Âu ven Địa Trung Hải đang đứng trước một bài toán nan giải là cắt giảm
chi tiêu để giải quyết nợ công, trong khi 15-25% dân số trong tuổi lao động thất nghiệp. Đáng
quan ngại hơn là số người khơng tìm được việc làm ở châu Âu sẽ tiếp tục tăng thêm từ nay tới
Nhóm 1

Trang 18


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

cuối năm. Ngân hàng JP Morgan cho rằng đến cuối năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp tại châu Âu sẽ
tăng lên mức trung bình 11% vì ba lý do. Thứ nhất, khu vực nhà nước không thay thế những
người đến tuổi về hưu hoặc sa thải nhân viên. Thứ hai, thu nhập của các hộ gia đình giảm sút,

tác động đến sức mua của tư nhân. Thứ ba, triển vọng tăng trưởng kinh tế yếu của các nước
Eurozone sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc tạo mới việc làm.
Các nhà quan sát lo ngại rằng, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ gây ra nhiều bất bình trong xã
hội, ảnh hưởng tới chính trị và gây những phản ứng bất lợi cho các thị trường tài chính.
Hơn nữa, theo giới phân tích, nạn thất nghiệp gia tăng trên toàn bộ 17 nước thành viên
Eurozone là bằng chứng cho thấy, các biện pháp khắc khổ với hy vọng giảm bớt nợ công và bội
chi ngân sách khơng phải là "liều thuốc" thích hợp cho khu vực này vào thời điểm hiện nay, khi
sức tiêu thụ của tư nhân đi xuống, khủng hoảng niềm tin của các nhà đầu tư đẩy các hoạt động
của khu vực sản xuất càng xuống thấp trong năm qua.
Theo giáo sư kinh tế Jacques Sapir, Giám đốc trường Cao đẳng Khoa học Xã hội
(EHESSP Paris), thất nghiệp đang trở thành một vấn đề cấp bách khơng kém gì so với cuộc
khủng hoảng nợ cơng của Eurozone. Trong khi đó, trước mắt các quốc gia Eurozone khơng có
mấy hy vọng giải quyết được vấn đề này trong nay mai.
Khủng hoảng ngân hàng trở thành nỗi lo mới
Khủng hoảng ngân hàng đã nổi lên là nguy cơ mới đối với sự liên kết của khu vực đồng
euro và Liên minh châu Âu (EU). Cộng hịa Síp, một trong những thành viên nhỏ nhất của EU
đã thừa nhận có thể phải tìm kiếm một khoản cứu trợ cho các ngân hàng của họ, cùng với Tây
Ban Nha. Síp đang sa vào khủng hoảng ngân hàng do nền kinh tế và các ngân hàng của họ phụ
thuộc nặng nề vào Hy Lạp.
Lợi tức trái phiếu chính phủ giảm sút tại Đức, Anh và Mỹ cho thấy vấn đề nghiêm trọng
trong hệ thống ngân hàng của các nước Địa Trung Hải thuộc khu vực đồng euro. Lợi tức trái
phiếu chính phủ Đức kỳ hạn 10 năm ngày 4/6 giảm xuống còn 1,2%, cho thấy vốn đang rời khỏi
khu vực Địa Trung Hải để chuyển sang trái phiếu của các nền kinh tế mạnh nhất. Tương tự, lợi
tức trái phiếu chính phủ Mỹ tụt xuống 1,5% là đáng báo động.

Nhóm 1

Trang 19



Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Nhà chiến lược Marshall Auerback của công ty Pinetree Capital tại Toronto nhận xét lợi
tức trái phiếu chính phủ Mỹ chưa bao giờ giảm xuống dưới 2% trong các năm 1919-1941, tức là
thời kỳ xảy ra Đại suy thoái và bắt đầu Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Mới đây, chính phủ Tây Ban Nha tiết lộ trong quý 1/2012, khoản vốn trị giá 97 tỷ euro
đã bị rút khỏi nước này, tương đương với 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Tây Ban
Nha. Điều nguy hiểm là việc rút vốn dường như không dừng lại trong quý 2 bởi vì Tây Ban Nha
cần tìm kiếm khoản tiền lên tới 19 tỷ euro để cứu trợ Ngân hàng Bankia và nền kinh tế sa sút
của nước này. Lợi tức trái phiếu chính phủ của Tây Ban Nha đã tăng lên mức 6,5%, gần mức
nguy hiểm đã châm ngòi cho các khoản cứu trợ Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha.
Tuy nhiên, ngay cả khi EU có thể thống nhất về kế hoạch hội nhập tài chính khu vực
trong vịng 5-10 nă m tới, vốn đang bị đè nặng bởi các cuộc tranh luận về việc điều chỉnh hiệp
ước của EU, thì chưa chắc những thay đổi đó đã đủ sức để khơi phục lịng tin của các nhà đầu
tư, bởi lẽ dẫu sao đó chỉ là những giải pháp dài hạn để trị tận gốc căn bệnh nợ cơng. Cịn trong
ngắn hạn, thị trường vẫn đổ dồn sự chú ý vào những diễn biến mới nhất tại Hy Lạp và Tây Ban
Nha hiện nay./.
3.4.2 Đối với Việt Nam.
Xuất khẩu giảm
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới
chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến
tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm
cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hóa giá rẻ là ưu thế của Việt Nam do đó cuộc
khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ hàng hóa cao và trung cấp
sang hàng hóa do Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, những số liệu tính tốn từ mơ hình ước lượng
cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ cơng châu Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và
tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ
ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%).
Vì vậy, nếu khơng có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển vọng trung

hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Nhóm 1

Trang 20


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Lãi suất thấp ở các nước, trong khi cao ở Việt Nam s ẽ bất lợi về chi phí cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ước các
nước phát triển vẫn huy trì mức lãi s uất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và
chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các
nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%.
Ngược lại ở Việt Nam, lãi s uất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các
doanh nghiệp phải vay vốn với lãi s uất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,517%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.
Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỷ
suất lợi nhuận trên 24-27%, là mức cao so với tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân
của các ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).
Đầu tư trực tiếp nước ngồi giảm
Khủng hoảng nợ cơng châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng
vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với
các nước thuộc EU s ẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI s ẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc
gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại
các quốc gia châu Âu.
Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hồn tồn khơng được
hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ
cơng nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do
cuộc khủng hoảng nợ.
Giá vàng bùng nổ

Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ
cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng
mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với
đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua
bạch kim và bạc.

Nhóm 1

Trang 21


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất
có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài
sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi
một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với
việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư
gián tiếp càng trở nên hạn chế.

Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên
Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với
các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ
trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ
tăng trưởng GDP sụt giảm.
Hệ quả là Việt Nam với tỷ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ chức
tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và
Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián
tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngồi.
Biến động tỷ giá hối đối sẽ rất khó lường

Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD
và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an tồn từ phía các
đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương
đối so với USD.
Sang tháng 6, tỷ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu
tháng 3, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng,
cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi ro
hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010.

Nhóm 1

Trang 22


Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

3.5 Biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng nợ cơng Châu Âu
Để đối phó với cuộc khủng hoảng nợ cơng, liên minh Châu Âu đã đưa ra các giải pháp
ngắn hạn và dài hạn như sau:
 Ngắn hạn:
Quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu (EFS F): Ngày 9/5/2010, 27 nước Châu Âu đã đồng ý
thành lập quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu, một cơng cụ tài chính hợp pháp được tài trợ tài chính
bởi các thành viên liên minh Châu Âu nhằm giúp đảm bảo ổn định tài chính tại Châu Âu.
Cơ chế Bình ổn tài chính Châu Âu (EFS M): Ngày 5/1/2011, Liên minh Châu Âu
thành lập Cơ chế Bình ổn tài chính Châu Âu, đây là một quỹ khẩn cấp lấy vốn từ các thị trường
tài chính và ngân sách của Liên minh Châu Âu dưới sự đảm bảo bởi Ủy ban Châu Âu.
Hiệp ước Brussels: Ngày 26/10/2011, lãnh đạo 17 nước đã họp tại Brussels và đồng ý
xóa 50% nợ cho Hy Lạp bằng quỹ cứu trợ do Quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu thực hiện.

Sự can thiệp của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB): ECB đã thực hiện một số
những biện pháp nhằm hạn chế tính bất ổn và nâng cao tính thanh khoản của thị trường tài
chính. ECB mua lại các khoản nợ của chính phủ và tư nhân, lên tới 200 tỷ EUR và công bố kế
hoạch phân phối các hoạt động tái cấp vốn dài hạn.
Cải tổ và tái cơ cấu đối với hệ thống tài chính ngân hàng, quản lý nhà nước, tái cấu trúc
nền kinh tế, khu vực đầu tư cơng,…
 Dài hạn:
Liên minh Tài khóa Châu Âu (European Fis cal Union): Thiết lập một Liên minh Tài
khóa trong khu vực Eurozone, với những cơ chế kiểm soát tài khóa chặt chẽ và trừng phạt
nghiêm các thành viên trong Hiệp ước của Liên minh Châu Âu.
Cơ chế Bình ổn Châu Âu (European Stablity Mechanism): Là một chương trình quỹ
cứu trợ dài hạn tiếp theo quỹ Bình ổn Tài chính Châu Âu và Cơ chế Bình ổn tài chính Châu Âu.
ESM được triển khai vào tháng 7/2012, s ong hành với EFSF cho đến khi quỹ cứu trợ ngắn hạn
này hết hiệu lực vào giữa năm 2013. Nhiệm vụ của ESM là hỗ trợ tài chính cho các thành viên
Eurozone vào thời điểm khó khăn nhằm duy trì sự ổn định tài chính trong khu vực. Các nước
thành viên Eurozone đang gặp khó khăn về tài chính có thể vay tiền từ ESM để đối phó với
cuộc khủng hoảng nợ công nhưng đổi lại các nước này phải tiến hành cải cách tài chính và tái
cơ cấu nền kinh tế.
Nhóm 1

Trang 23


×