Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.67 KB, 27 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI
KHOA KINH TẾ VẬN TẢI
 
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI”
Lớp Kinh tế Vận tải Thuỷ Bộ_K51
Hà Nội, năm 2011
S.O.S
LỜI MỞ ĐẦU:
hế giới đang bước vào xu thế toàn cầu hoá, với những bước phát triển rõ rệt cùng những thay đổi
nhanh chóng trong tổng thể nền kinh tế, kĩ thuật, công nghệ và những biến đổi khác trong chính trị,
xã hội. Tất cả đã đem lại cho thời đại một sắc màu riêng. T
Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, các quốc gia đã không ngừng “chuyển mình” để không bị gạt ra khỏi vòng
quay của sự phát triển, và sự “chuyển mình” ấy chỉ thực sự đạt hiệu quả khi các quốc gia mở rộng được nguồn
vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể
được huy động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với
những nước đang phát triển (có tỷ lệ tích luỹ thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển kinh
tế). Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Hoạt động đầu tư nước ngoài là kênh huy động vốn lớn cho phát triển kinh tế, trên cả giác độ vĩ mô và vi mô.Trên
giác độ vĩ mô, đầu tư nước ngoài tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc
lợi xã hội cho con người - ba khía cạnh để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trên giác độ vi mô, đầu
tư nước ngoài có tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, vấn đề lưu chuyển
lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước Đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng và nó đã
khẳng định rõ vai trò của mình trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế của các nước được đầu tư. Nguồn vốn
này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII). Trong khi FII có tác động kích thích thị trường tài
chính phát triển thì FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất, bổ sung vốn trong nước, tiếp thu công nghệ và bí
quyết quản lý, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công, tăng nguồn thu
cho ngân sách
Thực tế trong những năm qua cũng như dự báo cho giai đoạn tới đã khẳng định tầm quan trọng của FDI với phát


triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Đánh giá đúng vị trí, vài trò của đầu tư nước ngoài, Đại hội lần thứ IX của Đảng
ta đã coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-
xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm và đề ra nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường
kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là FDI) đối với chiến lược phát triển
KT – XH của cả nước.
Vì những nguyên do đó mà đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tác động của nó đối với nền kinh tế nước được đầu tư
là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Và để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm
em đã chọn đề tài tiểu luận về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với những vai trò của nó tới phát triển kinh tế
cũng như mọi khía cạnh của đời sống xã hội của các nước được đầu tư, và theo đó nhóm em cũng xin đưa ra sự
liên hệ về FDI với Việt Nam.
Tiểu luận của chúng em bao gồm những nội dung sau:
2
S.O.S
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
I. Khái niệm về FDI 4
1.Định nghĩa 4
1.1. Một số vấn đề chung về đầu tư 4
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 6
1.2.1. Khái niệm 6
1.2.2. Nguyên nhân xuất hiện FDI 6
1.2.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp 7
2. Phân loại 7
II. Đặc điểm FDI 9
III. Tác động của FDI và các giải pháp khắc phục 10
1. Tích cực 10
2. Tiêu cực 12
3. Giải pháp 14
IV. Liên hệ với Việt Nam 15
1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 15

2. Tiềm năng và thách thức 16
2.1. Tiềm năng 16
2.2. Thách thức 17
3. Tình hình FDI ở Việt Nam 18
3.1. Tình hình FDI theo giai đoạn 18
3.2. Tình hình FDI theo cơ cấu ngành 20
4. Tác động của FDI 22
4.1. Tích cực 22
4.1. Tiêu cực 22
5. Giải pháp khắc phực tiêu cực 24
Tổng kết 25
3
S.O.S
Sau đây là bài làm chi tiết của nhóm em.

I. Khái niệm FDI
1. Định nghĩa
1.1. Một số vấn đề chung về đầu tư
- Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn
phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp
dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân và xã hội.
- Phân loại đầu tư: có thể phân thành 2 loại sau:
+ Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ,
buôn bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập một pháp nhân riêng như công
ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, chi nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng
tổng sản phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh tiên tiến,
đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại nước nhận đầu tư.
+ Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu và các giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng
khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn đến việc thành lập pháp nhân riêng. Hình thức này mang tính đầu cơ nên
có thể thu lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan đến nhiều yếu tố khác như

tình hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều hành vĩ mô, v.v ), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải
chịu những rủi ro khó lường trước. Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư góp phần giải quyết sự khan hiếm
vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động
trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng tới nền kinh tế.
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
1.2.1.Khái niệm
- FDI viết tắt của Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) là hình thức đầu tư dài hạn của cá
nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay tổ chức
nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
- Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam có đưa ra định nghĩa như sau về đầu tư trực tiếp (FDI) (phân biệt với đầu tư
gián tiếp – FII [Indirect Foreign Investment]). Cụ thể như sau:
“Đầu tư trực tiếp FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu
tư.” (Điều 3.2 Luật Đầu tư). Khác với FDI, đầu tư gián tiếp (FII) là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần,
4
S.O.S
cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung
gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Theo Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân người nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hóa hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài theo quy định của luật này.
- Tổ chức thương mại thế giới thì lại định nghĩa như sau về FDI: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư ) có được một tài sản ở nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở
kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được
gọi là “công ty con” hay “ chi nhánh công ty””.
- Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đưa ra định nghĩa về FDI như sau: “FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện
nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế
khác nền kinh tế của nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý toàn bộ doanh

nghiệp”.
Phân tích định nghĩa của IMF:
+ Lợi ích lâu dài (hay mối quan tâm lâu dài): Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài), các nhà đầu tư thường đặt
ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đỏi hỏi phải có quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và
doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp đồng thời có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh
nghiệp này.
+Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp nói đến ở đây chính là quyền kiểm soát doanh nghiệp. Quyền kiểm soát
doanh nghiệp là quyền tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triểncủa doanh
nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, thông qua phê chuẩn kế hoạch hành động do người quản
lý hằng ngày của doanh nghiệp lập ra, quyết định việc phân chia quyền lợi doanh nghiệp, quyết định phần vốn góp
giữa các bên, tức là những quyền ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, sống còn của doanh nghiệp.
=>Kết luận: Nói tóm lại đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa
vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản khác vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát
một thực thể kinh tế tại một quốc gia đó với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn và
quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế (được gọi chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh
nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi
là doanh nghệp FDI hay doanh nghiệp chi nhánh hay chi nhánh nước ngoài).FDI chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có
5
S.O.S
một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh ngiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nhau.Tiếng nói
hiệu quả trong quản lý phải đi kèm với một mức độ sở hữu cổ phần nhất định thì mới được là FDI.
1.2.2 Nguyên nhân xuất hiện FDI
Cần phải hiểu rõ vì sao lại có FDI. Theo thông tin mà nhóm thu thập được thì FDI xuất hiện do những nguyên
nhân sau:
- Sự chênh lệch của vốn giữa các nước: Có những nước thì thừa
vốn trong khi đó một số nước khác lại thiếu vốn. Tình trạng này sẽ
dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn
thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên không phải nước nào

thiếu vốn cũng được các doanh nghiệp đầu tư sản xuất. Những doanh
nghiệp ấy còn có những hoạt động quan trọng, là sống còn của doanh
nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động đó không thu lại lợi
nhuận cao.
- Chu kì sản phẩm: Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kì sống của sản phẩm
này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoạn sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chin muồi; giai đoạn sản phẩm
chuẩn hóa. Có ý kiến cho rằng sản phẩm mới được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất
khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu thị trường trong nước
tăng lên nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yêu dựa
vào vốn, kĩ thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa,
nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kì và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
Có ý kiến lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình
cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên
cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản
xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp
hơn.
- Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia: Các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn
năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đó sẽ chọn nơi nào có các điều kiện về lao động, đất
đai, chính trị… cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những công ty này thường có lợi thế lớn về vốn
và về công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ
tiềm năng…
6
S.O.S
- Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại: Trong thương mại thường có các xung đột thương mại song
phương. Ví dụ: Nhật Bản thường bị Mĩ và các nước Tây Âu phàn nàn do có thặng dư thương mại còn các nước kia
bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Do đó Nhật Bản đã đối phó bằng cách tăng cường đầu tư trực
tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất sản phẩm ngay tại Mĩ và Châu Âu để giảm phí xuất khẩu. Họ còn đầu tư
trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mĩ và Châu Âu.
- Khai thác chuyên gia và công nghệ: Không phải FDI chỉ theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém

phát triển. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Các nước kém phát triển nếu có điều kiện về vốn họ sẽ
đầu tư vào các nước có kinh tế phát triển hơn. Để từ đó thu hút được các chuyên gia và công nghệ mới, khai thác
tiềm năng của chúng, thu về những sản phẩm mang tính hiện đại, khoa học.
- Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên: Để có những nguồn nguyên liệu cần thiết, nhiều công ty đa quốc gia
tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú mà đất nước đó lại khan hiếm về tài nguyên này.
1.2.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp:
1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.
4. Đầu tư phát triển kinh doanh.
5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác
2. Phân loại FDI
Có nhiều cách phân loại FDI theo các tiêu chí khác nhau, trong đó về cơ bản có thể phân chia FDI thành các loại
sau:
2.1.Theo bản chất đầu tư
- Có hai hình thức chủ yếu là: Đầu tư mới (Greenfield Investment (GI)) và Mua lại và sáp nhập (Cross-border
Merger and Acquisition(M&A), ngoài ra còn hình thức Brownfield Investment
+ Đầu tư mới là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài hoặc
mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh đã tồn tại. Với loại hình này phải bỏ nhiều tiền để đầu tư nghiên cứu thị
trường, chi phí liên hệ cơ quan nhà nước và sẽ có nhiều rủi ro.
+ Mua lại và sáp nhập qua biên giới là hình thức FDI đến việc mua lại hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp
nước ngoài đang hoạt động. Với hình thức này, có thể tận dụng lợi thế của đối tác ở nơi tiếp nhận đầu tư ( tận dụng
tài sản sẵn có của thị trường), vì vậy tiết kiệm được thời gian, giảm thiểu rủi ro.
7
S.O.S
• Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ, và
lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp
bị sáp nhập.

• Hợp nhất hóa doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp của mình để hợp thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị hợp nhất.
• Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp
khác đủ để kiểm soát , chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
• Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.
• Sáp nhập theo chiều ngang là hình thức sáp nhập diễn ra giữa các công ty trong cùng một ngành kinh
doanh ( hay có thể nói là giữa các đối thủ cạnh tranh).
• Sáp nhập theo chiều dọc là hình thức sáp nhập của các công ty khác nhau trong cùng một dây chuyền sản
xuất ra sản phẩm cuối cùng.
• Back ward: giữa nhà cung cấp và công ty sản xuất.
Forward: giữa công ty sản xuất và nhà phân phối.
• Sáp nhập hỗn hợp: là hình thức sáp nhập giữa các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau.
2.2. Theo tính chất dòng vốn.
+ Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một
công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của
công ty.
+ Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh
trong quá khứ để đầu tư thêm
+ Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty
đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
2.3. Theo mục đích, động cơ đầu tư.
+ Vốn tìm kiếm tài nguyên
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai
thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi
8
S.O.S
dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận
(như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận.

Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay
đối thủ cạnh tranh.
+ Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên
liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận
tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v
+ Vốn tìm kiếm thị trường
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh dành
mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận
với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực
và toàn cầu.
II. Đặc điểm của FDI
1. Tìm kiếm lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Các
nước nhận đầu tư đặc biêt là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải
xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI
vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nước mình, tránh tình trạnh FDI chỉ phục vụ cho
mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
2. Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỉ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ
tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh
nghiệp nhận đầu tư. Luật các nước thường không quy định giống nhau về vấn đề này.
3. Tỷ lệ đóng góp cuả các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia theo tỷ lệ này.
4. Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kêt quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn
đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.
5. Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà
đầu tư được quyền chọn lĩnh vực đầu tư, hình thúc đầu tư, thị trường đầu tư ,quy mô đầu tư cũng như
công nghệ cho mình, do đố sẽ tự đưa ra quyết định có lợi nhất cho họ.
6. FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư thông qua hoạt động FDI,
nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.
III.Tác động của FDI và các giải pháp khắc phục

9
S.O.S
1. Tích cực
- Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả
vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. FDI mở rộng các nguồn thu thuế ở nước chủ nhà và đóng góp cho
nguồn thu của chính phủ. Thậm chí nếu các nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế thông qua các chính sách
ưu đãi đầu tư thì chính phủ vẫn có được nguồn thu gia tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi FDI tạo ra
các việc làm mới, tạo khoản thu ngoại tệ
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luồng vốn ổn định hơn so với các luồng
vốn đầu tư quốc tế khác bởi FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng mà
không tạo ra nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy ít có khuynh hướng thay đổi khi có tình huống
bất lợi. Vì thế FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp thiếu hụt về vốn, ngoại tệ của nước nhận
đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
- Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các
nước đang phát triển thì vai trò này càng được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là
một trong những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia.Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này
đòi hỏi các quốc gia không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một trình độ phát triển nhất định của khoa học
kỹ thuật
Lê nin cũng từng khẳng định: “ Không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh mới
nhất định của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà nước có khoa học khiến cho hàng triệu người
phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản
phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”.
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách
thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó.
FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà, vai trò này được thể
hiện qua khía cạnh là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và sự phát triển khả năng công nghệ của
các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước nhà. Đây là mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ

các đầu tư nước ngoài.
Mặt khác, trong quá trình sử dụng của công nghệ nước ngoài (nhất là ở các doanh nghiệp liên doanh) các
doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế, chế tạo nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp vơi điều kiện sử
dụng của mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với việc phát triển công
nghệ ở những nước đang phát triển.
10
S.O.S
Nói chung thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết
quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí
lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc
rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
- Tăng số lượng việc làm và chất lượng đào tạo công nhân
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư
địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê
mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang
phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước
thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm
việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
FDI cũng có tác động tích cực trong việc phát triển nguồn lực của nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư
vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân làm viết cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội
học hỏi nâng cao trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến. Các doanh nghiệp
FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc
biệt là các công ty bạn hàng. Những cải thiện về nguồn lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt hiệu
quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang làm việc trong các doanh
nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp mới.
- Thúc đẩy mở rộng thị trường và xuất khẩu, tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng.Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố
sản xuất ở được chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang
phát triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn trong việc

thâm nhâp thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước
ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là chính sách đặc biệt trong
chính sách thu hút FDI của các nước này.Thông qua FDI các
nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới.Đây
cũng là một tác động tích cực quan trọng trong việc mở rông thị
trường tiêu thụ của các nước được đầu tư, góp phần tăng trưởng
kinh tế trong nước của các nước này.
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp
có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp
khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ
11
S.O.S
tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng
lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế mà còn
là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng
của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia càng nhiều vào quá trình liên kết giữa
các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân
công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển
chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại, chính FDI lại góp phần thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà vì nó làm xuất hiện những lĩnh vực và ngành nghề
kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế. Mặt
khác dưới sự tác động của FDI, một số ngành nghề được kích thích phát triển nhưng cũng có một số ngành
nghề bị mai một và dần dần bị xóa bỏ.
- Tác động văn hóa, xã hội
FDI tác động tích cực đến nền văn hóa của các nước nhận đầu tư: đổi mới tư duy, thái độ, đạo đức, nghề
nghiệp, lối sống, tập quán, giao tiếp ứng xử,bình đẳng giới và các vấn đề xã hội.
Đầu tư nước ngoài còn có vai trò đáng kể đối với tăng cường sức khỏe và dinh dưỡng cho người được nước
chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào ngành y tế, dược phẩm, công nghệ sinh học và chế biến thực phẩm.

2. Tiêu cực
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới mọi dạng sẽ an toàn và tốt hơn việc trực tiếp vay nợ thương mại (kể
cả dưới dạng mua hàng trả chậm ). Hơn nữa, điều này còn tránh cho nước tiếp nhận đầu tư những khó khăn,
lúng túng ban đầu về thị trường, kinh nghiệm quản lý-kinh doanh quốc tế. Cùng với những bảo đảm pháp lý
có tính quốc tế, bằng cách điều chỉnh những chiếc “van” như: Ưu đãi thuế, tài chính, tiền tệ, phát triển hạ tầng
cứng-mềm, các thủ tục hải quan, hành chính, các nước chủ nhà có thể hướng dẫn luồng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào đúng chỗ, đúng lúc, đủ khối lượng cần thiết theo kế hoạch định hướng sự phát triển kinh tế-xã
hội của mình. Song, trong lĩnh vực tưởng chừng toàn những điều tốt lành này, những tác động mặt trái của
FDI vẫn ẩn khuất đâu đó:
- Gây cạnh tranh khốc liệt:
Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn FDI có thể gây cạnh
tranh khốc liệt với các doanh nghệp trong nước mà phần thua
thiệt thường là doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp
trong nước bị mất thị trường,bị mất lao động có kỹ năng và
vì vậy có thể dẫn tới phá sản. Ngoài ra vốn FDI có thể làm
12
S.O.S
cho đầu tư trong nước bị thu hẹp do nhiều doanh nghiệp bị mất cơ hội đầu tư hoặc đầu tư không hiệu quả do
trình độ công nghệ thấp kém, vốn ít. Điều này xảy ra khi xuất hiện tác động lấn át đầu tư của doanh nghiệp
FDI.
- Tăng khả năng lạm phát:
Thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này chỉ thực sự tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng
làm tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó
làm tăng tiềm lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nước
chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực tế. Ngược lại, nếu thiên về khuynh hướng kích thích
nền kinh tế bong bóng, kích thích và thoả mãn những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích
luỹ cần thiết của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực tăng trưởng kinh tế,
tăng nhập siêu và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát tương lai của đất
nước.
Để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của các chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng

phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong
nước sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng. “Hợp lực” của những yếu
tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra.
- Hiệu quả chuyển giao công nghệ chưa cao:
Nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần “mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ
chuyển giao những công nghệ lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị
tước bỏ – đó là một mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện được tình trạng công
nghệ, khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ “bất cập”
này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào
đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp
nhận vốn đầu tư sẽ không như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về
chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức “một tiền gà, ba tiền thóc”.
- Tác động tiêu cực đến môi trường:
Nước tiếp nhận đầu tư cần tính đến tác động kinh tế-xã hội và môi trường tổng hợp của các dự án FDI, nhất là
các dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường
lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự án xây dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đất màu mỡ và những dự án
“bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế
hệ tương lai.
- Tăng khoảng cách giàu nghèo:
13
S.O.S
Đầu tư trực tiếp FDI là một trong những nguyên nhân làm khoảng cách giàu nghèo ngày càng được nới rộng.
Các vùng nhận được FDI có cơ hội phát triển hơn so với các vùng khác từ đó làm gia tăng khoảng cách giàu
nghèo giữa các vùng, các cá nhân.
3. Giải pháp
Nhận biết được những vai trò cũng như những hạn chế của FDI, các nước đầu tư đã đề ra nhiều biện pháp để
phát huy tính tích cực và khắc phục những tiêu cực, trong đó có ba giải pháp chúng ta cần lưu tâm.
Thứ nhất là tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, từ thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực
Thứ hai là cách thức mở cửa, tinh thần của cac nước là hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, bảo hộ ít đi
là đúng nhưng cách thức mở cửa như thế nào cho phù hợp, nhất là trong lĩnh vực tài chính để có thể né tránh

được những bất ổn.
Thứ ba là cần phân loại các dòng vốn FDI vào theo tiêu chí tác động tốt
hay không tốt, bởi trong thực tế, FDI có nhiều loại, có loại vào để khai thác
tài nguyên, khai thác thị trường, tìm kiếm hiệu quả, đặc biệt là những ngành
liên quan đến xuất khẩu, FDI vào các lĩnh vực dịch vụ như tài chính, ngân
hàng, bất động sản
Trong thời gian tới, để tiếp tục duy trì về lượng và nâng cao hiệu quả thu
hút vốn nước ngoài, nhất là dòng FDI , các nước đầu tư cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Hoàn chỉnh và ban hành quy định quản lý các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, gồm cả các dự án
có vốn đầu tư nước ngoài (theo Luật Đầu tư) để áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài (như về quản lý đầu tư xây dựng, một đầu mối liên thông cải cách thủ tục hành chính…). Tình hình
triển khai các dự án đầu tư có vốn nước ngoài cũng cần có nhiều chuyển động tích cực. Các cơ quan quản lý
nhà nước cả cấp trung ương lẫn địa phương, song song với cải cách thủ tục hành chính, phải chủ động bám sát
dự án để kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc, đôn đốc nhà đầu tư. Tuy nhiên, do môi trường pháp lý
biến động nhiều, liên tục và còn nhiều bất cập, không thống nhất, rõ ràng (thủ tục đầu tư kinh doanh, xây
dựng cơ bản, đất đai, môi trường, quy định trong gia nhập các tổ chức thế giới, cam kết song phương đa
phương…), nên cũng gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan trong việc thực thi pháp luật để
triển khai các dự án, nhiều vấn đề phải nghiên cứu làm rõ mới có thể thực hiện, nên chưa thể mang lại kết quả
ngay.
- Tiếp tục điều chỉnh và ổn định các quy hoạch thu hút vốn nước ngoài theo hướng phát triển bền vững,
tránh chạy theo lợi ích trước mắt, địa phương và cá nhân, đồng thời đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng cơ
chế, chính sách thích hợp nhằm khuyến khích áp dụng hình thức đầu tư mới có sử dụng vốn nước ngoài như
BOT/BTO/BT, PPP… trong đầu tư xây dựng các công trình kết cầu hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ,
nhằm xúc tiến một số dự án lớn, trọng điểm quốc gia và địa phương.
14
S.O.S
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài, cập nhật, bổ sung nội dung thông tin mới về môi
trường, chính sách đầu tư và danh mục dự án kêu gọi vốn nước ngoài trên các trang thông tin điện tử và in
mới sách, đĩa CDROM phát hành rộng rãi; Đẩy mạnh áp dụng các phần mềm chuyên dụng hiện đại trong
quản lý dự án có vốn nước ngoài; tăng cường cung cấp thông tin, quảng bá môi trường đầu tư, hỏi đáp và đối

thoại với các nhà đầu tư…
- Đổi mới căn bản phương thức quản lý và sử dụng vốn vay, tích cực phòng chống thất thoát, lãng phí và
tham nhũng.
- Các giải pháp cho vấn đề bảo vệ môi trường
+ Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước và sự tham gia của xã hội về vấn đề bảo vệ môi trường.
+ Thu phí hoặc thuế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường.
+ Quy định giới hạn ô nhiễm

IV. Liên hệ với Việt Nam
1. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam:
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát
triển, kinh tế - xã hội ở mức thấp hơn rất nhiều so với nước khác. Với
tốc độ phát triển nhanh chóng của các nước phát triển, thì khoảng cách
kinh tế ngày càng dãn ra.Vì vậy nhiệm vụ phát triển kinh tế của nước ta
trong những năm tới là vượt qua tình trạng của một nước nghèo, nâng
cao mức sống của nhân dân và từng bước hội nhập vào quỹ đạo Kinh Tế
Thế Giới.
Với mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp và tiến
hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá với mục tiêu lâu dài là cải biến
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế phù hợp … cộng với thực hiện mục tiêu ổn định và phát
triển kinh tế trong đó có việc nâng cao GDP bình quân đầu người lên hai lần như đại hội VII của Đảng đã nêu
ra. Muốn thực hiện tốt điều đó cần phải có một lượng vốn lớn. Muốn có lượng vốn lớn cần phải tăng cường
sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhưng với tình hình của nước ta thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng cũng
là một cách tích luỹ vốn nhanh có thể làm được. Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng là
một hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí vai trò ngày càng quan trọng, trở thành xu thế của thời đại. Đó là
kênh chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và thu nhập,
nâng cao tay nghề cho người lao động, năng lực quản lý, tạo nguồn thu cho ngân sách…
15
S.O.S

Trên cơ sở thực trạng của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ta cũng cần phải chú ý tới vấn đề tính tiêu cực của
đầu tư FDI. Cũng không phải là một nước thụ động để mất dần vị thế mà xem vốn FDI là quan trọng nhưng
vốn trong nước trong tương lai phải là chủ yếu.
Nhận thức đúng vị trí vai trò của đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết. Chính phủ cũng đã ban hành chính
sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Chúng ta bằng những biện pháp mạnh về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh… để thu hút đầu tư nước
ngoài. Với phương châm của chúng ta là thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá hợp tác đầu tư nước ngoài
trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tôn trọng lẫn nhau. Bằng những biện pháp cụ thể để huy động và sử dụng có
hiệu quả vốn FDI trong tổng thể chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế là một thành công mà ta mong
đợi.
2.Tiềm năng và thách thức trong việc thu hút FDI ở Việt Nam.
2.1. Tiềm năng.
- Nguồn lao động dồi dào:Việt Nam là một nước đông dân cư, đặc biêt là số người trong độ tuổi lao động cao,
là điều kiện thuận lợi cho các công ty đầu tư phát triển các ngành công ngiệp cần nguồn nhân lực lớn, giá rẻ.
Mặt khác người Việt Nam xưa và nay có bản chất cần cù chịu khó,sáng tạo với trình độ tri thức ngày càng
cao. Đây chính là điều kiện lý tưởng thu hút sự đầu tư của các công ty nước ngoài.
- Hệ thống pháp luật: Môi trường pháp lý và thể chế kinh tế thị trường của nước ta tiếp tục được hoàn thiện
hơn và phù hợp với khu vực và thế giới. Các văn bản pháp lý cơ bản hướng dẫn thực thi Luật Đầu tư và Luật
Doanh nghiệp đang được tiến hành rà soát và sẽ được sửa đổi như Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22-9-
2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh
doanh. Bên cạnh đó các bộ, ngành và địa phương cũng đang tích cực triển khai các giải pháp để tiếp tục thu
hút và nâng cao hiệu quả của ĐTNN theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 7-4-2009 của Chính phủ. Những sửa
đổi này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng như tiếp
tục góp phần đáng kể cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam để thu hút ĐTNN.
- Hoạt động xúc tiến đầu tư của cả nước được đúc kết, rút kinh nghiệm trong thời gian qua đã trở nên
chuyên nghiệp, hiệu quả hơn cộng với sự hỗ trợ về kinh phí của Chính phủ, chất lượng và hiệu quả của hoạt
động xúc tiến đầu tư trong năm 2011 và các năm tới sẽ tiếp tục được nâng cao.
2.2. Thách thức
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, không thể phủ nhận những khó khăn thách thức mà
Việt Nam đã, đang và sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, ảnh hưởng đến việc thu hút ĐTNN, cụ

thể là:
16
S.O.S
- Hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam mặc dù đã được đầu tư nhiều trong một vài năm trở lại đây nhưng
vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư và doanh nghiệp đặc biệt là hệ thống cấp
điện, nước, đường giao thông, cảng biển, hệ thống kết cấu hạ tầng .
- Về luật pháp, chính sách: Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu
đồng bộ và nhất quán giữa các luật các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các
cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng
dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án.
- Về công tác quy hoạch: Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc
biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng
mất cân đối chung. Nhiều địa phương cấp phép tràn lan, khai tăng vốn đăng ký của dự án để có thành tích, để
cạnh tranh nhau, dẫn đến cùng cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không
tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp (ví dụ như trường hợp cấp phép các
dự án sản xuất thép, dự án sân Golf, dự án cảng biển ).
- Về cơ sở hạ tầng: Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo
ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án
theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong
không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là hệ
thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa.
- Về nguồn nhân lực: Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và
kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn
Hội mà còn ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương
Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 3 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn
trong điều kiện nhiều dự án ĐTNN, đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện.
- Vấn đề đất đai và công tác giải phóng mặt bằng: Công tác giải phòng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được
khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được các địa phương
quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và thu hút và sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều

địa phương đang lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như đã cam
kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
- Vấn đề môi trường: Việc xử lý chất thải của các dự án ĐTNN tập trung tại các khu công nghiệp tập trung
thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội,
trong đó đặc biệt là đối với các dự án sản xuất quy mô lớn. Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng
đã phát hiện một số vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh
17
S.O.S
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả các
khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của
dự án đầu tư.
- Về xúc tiến đầu tư: Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên
nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng
phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc
tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn
chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ,
ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định
rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này.
3.Tình hình FDI ở Việt Nam.
3.1. FDI theo giai đoạn.
Sau đại hội VI đất nước tiến hành mở cửa đổi mới. Từ đó năm 1987 những dự án đầu tư FDI đầu tiên đã vào
Việt Nam. Trải qua 20 năm FDI không ngừng biến động qua từng thời kì, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại WTO, FDI đã không ngừng tăng trưởng một cách mạnh mẽ và đỉnh điểm năm 2008
FDI đạt tới 64 tỷ USD. Sau đây chúng ta cùng điểm qua tình FDI vào Việt Nam trong 20 năm qua.
- Giai đoạn từ (1988- 1990): Đây là giai đoạn đầu tiên nên FDI vào Việt Nam rất khiêm tốn, tổng 3 năm chỉ
đạt 1,79 tỷ USD và chưa có tác động rõ rệt đến nền kinh tế- xã hội Việt Nam.
- Giai đoạn (1991- 1996): Đây là giai đoạn FDI tăng trưởng nhanh và góp phần quan trọng vào việc thực hiện
các mục tiêu xã hội. Giai đoạn này đã thu hút 25,179 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm
cao.Vốn đăng ký năm 1991 là 1,322 tỷ USD thì năm 1996 là 8,497 tỷ USD, bằng 6,43 lần.
- Giai đoạn (1997- 2003);

Đây là thời kỳ suy thoái của FDI. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Vốn đăng
ký bắt đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Năm 1996 vốn đăng ký là 8,498 tỷ USD,
thì năm 1997 chỉ bằng 50%, còn 4,649 tỷ USD. Tồi tệ hơn là năm 1999 chỉ còn 1,568 tỷ USD và tiếp tục
ngưng trệ cho đến năm 2003.
- Giai đoạn (2004- 2006):
18
S.O.S
Đây là giai đoạn FDI phục hồi và phát triển. Năm sau tăng gấp đôi so với năm trước. Năm 2004 chỉ mới đạt
2,084 tỷ USD thì năm 2006 lên tới 10,200 tỷ USD tăng 400% so với 2004.
- Giai đoạn (2007-2008):
Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại WTO các chính sách ngoại thương cởi mở hơn, đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhờ đó đã tạo ra một hiệu ứng rất tốt trong việc thu hút FDI, nó được phản
ánh qua năm 2007, 2008. Năm 2007 Việt Nam đã thu hút 1544 dự án và 21,3 tỷ USD, tăng gần 2 lần năm
2006, đó mới chỉ là kết quả của 1 năm gia nhập WTO. Chưa dừng lại ở đó qua năm 2008 Việt Nam đã thu hút
một con số cực kỳ ấn tượng với 64 tỷ USD gấp gần 3 lần so với năm 2007. Qua đó lọt vào top 10 nền kinh tế
hấp dẩn vốn đầu tư FDI nhất.
- Giai đoạn 2009-2010
Năm 2009, 2010 là năm khó khăn đối với thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam do tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu.Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như bối cảnh kinh tế vĩ mô trong
nước có những biến động , dòng vốn FDI đăng ký cũng có nhiều biến động. Tuy nhiên, theo đánh giá từ phía
các nhà tài trợ, chính sách thắt chặt tiền tệ, chính sách tỷ giá đã phát huy tác dụng. Triển vọng đầu tư trung và
dài hạn của Việt Nam vẫn được coi là tốt, dòng vốn đăng ký trong hai năm này giảm đáng kể so với năm
2008 nhưng vẫn ở mức cao, khoảng trên 20 tỷ USD/năm, đưa tổng vốn đăng ký của 5 năm 2006-2010 có thể
lên tới mức 135 tỷ USD, vượt 2,4 lần kế hoạch đề ra cho cả giai đoạn này
19
S.O.S
- Dựa vào những số liệu thực tế, ta có biểu đồ vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 1999-2008
3.2. FDI theo cơ cấu ngành.
Cơ cấu FDI vào các ngành theo các năm có sự thay đổi. Một xu hướng rõ nét trong cơ cấu vốn FDI của 10
năm về trước đó là các doanh nghiệp nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, công nghệ chế

tạo chiếm đến hơn 80% vốn FDI, còn lại là ngành dịch vụ.
Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư FDI những năm gần đây lại chuyển mạnh mẽ sang lĩnh vực dịch vụ (trong đó lĩnh
vực bất động sản (BĐS) là chủ yếu, BĐS được xếp vào ngành dịch vụ), đặc biệt có những dự án lên đến hàng
tỷ USD. Cơ cấu vốn FDI hiện nay có đến 74,5% là dịch vụ, còn lại là ngành công nghiệp.
FDI vào Việt Nam tính đến hết quý 3 năm 2010
20
S.O.S
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
Trong báo cáo về tình hình thu hút vốn FDI năm 2010 vừa được Cục Đầu tư nước ngoài công bố, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo đứng thứ hai về tổng vốn thu hút với trên 5 tỷ USD vốn đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân
phối điện, khí, nước đứng thứ ba với trên 2,9 tỷ USD.
Tuy nhiên, nếu tính về số lượng dự án thì ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đứng đầu với 385 dự án
đăng ký mới. Số dự án tăng vốn khá lớn là 199 dự án với hơn 1 tỷ USD vốn tăng thêm.
Như vậy, so với năm 2009, vốn FDI đổ vào công ngiệp chế biến, chế tạo tăng đáng kể cả về số lượng dự án và
tổng vốn đầu tư. Trong năm 2009, số dự án trong lĩnh vực này là 245 dự án, với tổng vốn đăng ký 2,96 tỷ USD.
Trong số này, gần 750 triệu USD là vốn tăng thêm.
Tính luỹ kế đến tháng 12/2010, lĩnh vực công nghiệp chế biến vẫn tiếp tục đứng đầu với hơn 7.305 dự án với tổng
vốn đầu tư 93,9 tỷ USD.
Riêng lĩnh vực bất động sản, năm 2009, số vốn FDI thu hút được là 7,6 tỷ USD, là lĩnh vực đứng thứ hai về thu
hút vốn FDI, sau dịch vụ lưu trú (8,7 tỷ USD).
Bảng: Ba lĩnh vực thu hút nhiều vốn FDI nhất Năm 2010
21
S.O.S
4. Tác động của FDI vào Việt Nam.
4.1. Tích cực
- Đối với việc giải quyết việc làm cho người lao động. Thông qua hoạt động đầu tư các doanh nghiệp FDI
góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp FDI trực tiếp tạo việc làm thông qua
việc tuyển dụng lao động ở nước sở tại. Song song đó, doanh nghiệp FDI còn gián tiếp tạo việc làm thông qua
việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cho khu vực kinh tế này.

Mức độ tác động của FDI trong việc giải quyết việc làm phụ thuộc trực tiếp vào các nhân tố như: quy mô đầu
tư, lĩnh vực sản xuất, trình độ công nghệ, chính sách công nghiệp và chính sách thương mại của nước tiếp
nhận đầu tư. Bên cạnh đó, tác động của FDI đến thị trường lao động cũng phụ thuộc vào cơ cấu nền kinh tế,
định hướng phát triển cũng như chất lượng lao động và chính sách lao động của nước tiếp nhận đầu tư.
22
S.O.S
- Đối với sự phát triển của hàng hoá sức lao động: Ngoài tác động tạo việc làm cho người lao động FDI
còn đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng lao động và phát triển nhân lực ở nước tiếp nhận đầu tư.
FDI làm thay đổi cơ bản năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua hoạt động đào tạo và
quá trình làm việc của lao động. Làm việc trong các doanh nghiệp FDI đòi hỏi người lao động phải có kiến
thức và khả năng đáp ứng yêu cầu cao về cường độ và hiệu quả công
việc. Cụ thể:
+ Người lao động phải có sức khỏe tốt để có thể làm việc với cường độ
cao.
+Có trình độ văn hoá cao để đáp ứng những đòi hỏi của trang thiết bị và
kỹ thuật công nghệ hiện đại.
+ Có kỷ cương, tác phong công nghiệp nhằm đảm bảo hiệu quả lao động của cá nhân và tập thể. Ngoài ra, các
doanh nghiệp FDI luôn đòi hỏi người lao động nỗ lực không ngừng để hoàn thiện mình thông qua những yêu
cầu ngày càng cao đối với công việc, cơ hội phát triển, cơ hội thăng tiến…. Do vậy, trong các doanh nghiệp
FDI trình độ học vấn và trình độ nghiệp vụ của người lao động tương đối cao so với mặt bằng chung.
- Đối với sự phát triển của thị trường lao động: Bên cạnh những tác động tích cực trong việc giải quyết
việc làm cho người lao động cũng như sự phát triển nguồn nhân lực, thông qua các hoạt động của mình, đầu
tư FDI còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động. Cùng với sự gia tăng về chất lượng và
trình độ của lao động, người lao động có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn nơi làm việc. Bên cạnh đó, lao
động có trình độ cao có khuynh hướng tìm việc thông qua các kênh lao động chính thức cao hơn lao động
trình độ thấp. Đây là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của các dịch vụ tư vấn – giới thiệu việc làm và thị
trường lao động. Bên cạnh đó, khi nhận thức của người lao động được nâng lên, họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến
điều kiện lao động, những điều khoản quy định cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Đây
là nhân tố quan trọng góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường lao động. Chất lượng lao động
có mối quan hệ tỷ lệ thuận với hiệu suất lao động và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Và do đó, khuyến

khích doanh nghiệp tăng đầu tư cho phát triển. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, vốn đầu tư tăng sẽ
làm tăng cầu về lao động. Cạnh tranh thu hút lao động cũng là một nhân tố kích thích sự phát triển của thị
trường lao động. Với tư cách là một thành phần kinh tế, sự tham gia của khu vực FDI sẽ góp phần làm tăng
tính cạnh tranh của thị trường lao động. Với những ưu điểm về tiền lương, điều kiện làm việc, cơ hội phát
triển…thành phần kinh tế này có sức hấp dẫn rất lớn đối với người lao động. Do vậy, để cạnh tranh thu hút lao
động các thành phần kinh tế khác phải cải thiện môi trường làm việc, tạo thêm thu nhập cho người lao động.
Đồng thời, sự đa dạng của các thành phần kinh tế sẽ góp phần làm đa dạng hoá các nguồn cung cầu lao động
trên thị trường, yếu tố thuận lợi sự hình thành và phát triển của thị trường lao động.
Như vậy , trong quá trình hoạt động FDI – trực tiếp hay gián tiếp - tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự vận
hành và phát triển của thị trường lao động. Sự phát triển của thành phần kinh tế này không chỉ tạo ra những
23
S.O.S
ngoại tác tích cực cho sự phát triển thị trường lao động mà còn khuyến khích các thành phần kinh tế khác
tham gia vào thị trường lao động.
4.2 Tiêu cực
- Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với doanh
nghiệp trong nước. Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối thủ
cạnh tranh yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm chí phải
rút lui khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh
tranh lại kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững trên thị
trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện.
- Nguy cơ nhập khẩu công nghệ lạc hậu. Về kênh chuyển giao và phổ biến công nghệ giữa doanh nghiệp
FDI và DN trong nước cũng không hoặc ít diễn ra. Ngoài các nguyên nhân khách quan như khuôn khổ luật
pháp về sở hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, còn nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp trong
nước.
- Mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế: FDI thường tập trung vào những ngành có khả
năng sinh lợi cao như khai thác tài nguyên khoáng sản, dầu khí, công nghiệp nặng,…. Trong khi những ngành
như nông nghiệp lại thu hút được rất ít nguồn FDI. Điều này, dẫn tới sự mất cân đối giữa các ngành, các lĩnh
vực trong nền kinh tế.
- Xuất hiện nguy cơ rửa tiền :Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn

làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở nước ta còn kém phát
triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam
đang trên con đường mở cửa kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế giới. Việc
kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền.
Nguồn vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có thể
tiến hành đầu tư vào nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng thực chất không phải
để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất hợp pháp.
- Ảnh hưởng đến môi trường:
+ Gây ô nhiễm môi trường: Có thể nói một trong những tác động tiêu cực nhất của FDI đối với nước nhận
đầu tư là những ảnh hưởng về môi trường. Đặc biệt là tình hình xuất khẩu ô nhiễm từ các nước phát triển sang
các nước đang phát triển thông qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành
những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao, nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam Hiện nay vấn đề
xử lý nước thải tại Việt Nam chưa được chú trọng, hầu hết các xí nghiệp chưa có hệ thống xử lý chất thải. Các
chương trình giám sát, xử phạt vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện trong khi ngày càng có nhiều dự
án khai thác tài nguyên, vận chuyển dầu với hiểm họa tràn dầu có nguy cơ gia tăng trong các năm tới.
24
S.O.S
+ FDI ảnh hưởng tới đa dạng sinh thái: Bên cạnh những đóng góp quan trọng cho ngành Du lịch Việt Nam
thì sự đầu tư quá lớn và liên tục gia tăng trong những năm gần đây đã đặt môi trường tự nhiên Việt Nam trước
những thách thức lớn. Nguy cơ ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thuỷ sản, khí hậu và
gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông. Các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống,
nơi cư trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy. Trong khi đó, vấn đề bảo vệ tốt môi
trường vẫn đang là thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay.
5. Giải pháp khắc phục tiêu cực.
Trong những năm tới, nước ta phải tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế nhằm sớm ra khỏi tình trạng
nước đang phát triển có mức thu nhập thấp. Thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi phải tiếp tục phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực, kể cả nguồn lực trong nước và nước ngoài. Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả sử dụng
nguồn vốn ĐTNN sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước.
Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn FDI trong thời gian tới, Chính phủ đã và đang
chỉ đạo thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau

Một là, tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế chính
sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết,
góp phần tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực của
các thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát
triển. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị
trường (bất động sản, vốn, dịch vụ, lao động và khoa học-công
nghệ). Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và
doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát
sinh.
Hai là, tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục
đầu tư. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh giấy chứng nhận
đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành
liên quan. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định
tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN.
Ba là, tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, cảng biển,
dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong quá trình
tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam Ban hành các chính sách thích hợp nhằm khuyến
khích tư nhân, gồm cả doanh nghiệp ĐTNN tham gia tích cực vào đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng.
Bốn là, coi trọng và tăng cường hơn nữa công tác đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp ĐTNN nói riêng. Nâng cao hiệu quả hoạt
25

×