Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số nhà khoa bảng thời Lý - Trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.3 KB, 19 trang )

I. DẪN NHẬP
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống hiếu học và trọng người tài.
Quan điểm này được thể hiện rõ rệt qua các mặt của đời sống kinh tế, văn hoá,
xã hội. Với một cơ cấu xã hội mà việc phân chia đẳng cấp dựa vào nghề nghiệp,
địa vị trong xã hội với bốn dẳng cấp chính là “Sĩ - nông - công - thương” trong
đó “sĩ” kẻ sĩ được đứng đầu và nhận được sự tôn trọng của xã hội. Vì thế mà
việc học hành thì cửa được quan tâm đúng mức và vai trò của nó cũng rất lớn.
Những người giàu có, có những điều kiện thuận lợi đi học suy cho cùng cũng là
một bình thường. Nhưng không chỉ thế mà ngay cả những anh học trò nghèo,
những người áo vải cũng cần cù theo đòi nghiên bút dưới sự nuôi nấng của mẹ,
cha, bằng sự chăm lo ân cần của người vợ thảo. Họ chăm chỉ học hành đến kỳ
thi họ dự thi những mong vinh quy bái tổ về làng, làmg rạng rỡ tổ tiên, để được
làm quan cho bõ công bao ngày đêm miệt mài đèn sách, đáp lại tấm lòng của gia
đình, bạn bè, họ hàng, làng xóm.
Từ xưa đến nay không ai có thể phủ nhận được vai trò của những bậcanh
tài đứng ra giúp vua trong việc quản lí đất nước. Đó là những người có tài năng
có nhân cách góp phần gây dựng cơ cấu xã hội và xây dựng đất nước. Bởi một
lẽ nhân tài là tinh hoa của đất nưcớ, là nguyên khí của quốc gia. Và để tìm ra,
tuyển chọn bộ máylãnh đạo trong tương lai này, các triều đại phong kiến Việt
Nam đa phần là thông qua chế độ khoa cử tức là qua các kỳ thi đó tuyển chọn
nhân tài. Vì thế, chế độ khoa cử được đặt ra cốt là để kén chọn người tài cho đất
nước.
Qua năm tháng, chế độ khoa cử ở Việt Nam đã có những bước hình thành
và phát triển của mình ngày càng hoàn thiện đáp ứng được yêu cầu và mục đích
đặt ra. Lúc ban đầu, bộ máy nhà nước khi chế độ khoa cử chưa phát triển còn
dựa vào hình thức nhiệm tứ, cử tuyển. Về sau hầu hết bộ máy chính quyền đều
được đặt trong tay những người đã chứng tỏ được tài năng, khí phách của mình
qua các vòng thi. Thi hương, thi hội, thi Đình. Như chúng ta đã biết, dưới thời
Bắc thuộc, chữ Hán đã được các quan lại Trung Hoa dạy cho người Việt nhưng
chỉ nhằm mục đích đào tạo những tên tay sai để phục vụ cho bộ máy cai trị của
1


chúng. Đến thời tự chủ qua các triều Ngô - Đinh - Tiên - Lê do phải chỉnh đốn
lại nội bộ, hơn nữa các triều đại đó nắng ngủi nên không có nhiều thời gian.
Chính sách để chăm lo đến việc học hành, thi cử, việc dạy chữ Hán thời
kỳ này được phó thác cho các nhà sư. Đến các triều Lý - Trần, do sự phát triển
về kinh tế xã hội, văn hoá đã dẫn đến những bước phát triển nhảy vọt trong giáo
dục. Dưới thời kỳ này, triều đình phong kiến bên cạnh việc tiến hành các hình
thức nhiệm tử đã bắt đầu tổ chức các kỳ thi đầu tiên để tuyển chọn nhân tài cho
bộ máy nhà nước. Việc tiến hành khoa thi đầu tiên vào năm 1075 dưới triều Lý
và các khoa thi tiếp theo trong thời Lý và thời Trần đã góp phần hình thành nên
nền móng của chế độ khoa cử Việt Nam. Qua các khoa thi cũng đã tuyển chọn
được nhiều nhân tài giúp vua xây dựng bộ máy chính quyền, quản lý nhà nước
và nhân dân. Có thể nói hình thức thi, nội dung thi… của các kỳ thi ngày càng
hoàn thiện góp phần không nhỏ vào việc ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy sự phát
triển của quốc gia, dân tộc.
Chính bởi lẽ đó, chúng em quyết định lấy đề tài nghiên cứu là “Chế độ
khoa cử thời Lý - Trần”. Tuy vậy do mới là sinh viên năm thứ nhất kiến thức
còn hạn hẹp, kỹ năng còn thiếu nên những vấn đề chúng em trình bày còn hết
sức sơ lược và còn nhiều thiếu sót. Chúng em rất mong các thầy cô chỉ bảo và
đánh giá giúp chúng em ngày càng hoàn thiện kỹ năng của mình.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA KHOA CỬ VIỆT NAM THỜI
LÝ - TRẦN
Các triều đại Lý - Trần là những triều đại đầu tiên của Việt Nam thực sự
coi trọng đến vấn đề khoa cử và cũng là những triều đại đặt nền móng cho sự
phát triển của giáo dục Đại Việt trong thời kỳ phong kiến.
Nói về thi cử thời Lý - Trần, có rất nhiều tư liệu lịch sử khác nhau. Các
sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục”, “Lịch triều
kiến chương loại chí”… đều có ghi chép về vấn đề này. Tuy nhiên còn hết sức
sơ lược. Thông qua các tài liệu đã biết có thể chia thi cử thời kỳ này ra làm ba
loại chính là thi văn, thi võ và thi lại viên. Hai loại hình thi sau được sử sách nói
đến it và sơ lược còn hình thức thi văn thì phổ biến hơn cả. Vì vậy trong khuôn

2
khổ của một báo cáo khoa học nhỏ, chỉ xin trình bày về các kỳ thi văn thời Lý -
Trần và cũng chỉ ở mức đô sơ lược.
1. Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời và phát triển của thi cử thời Lý - Trần
Thời Lý - Trần ở nước ta có những sự thay đổi lớn về hệ tư tưởng. Đó là
sự chuyển đổi dần từ hệ tư tưởng Phật giáo sang hệ tư tưởng Nho giáo. Nhất là
trong nội bộ tầng lớp thống trị.
Đạo Phật xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm (thế kỷ I) do sự truyền bá của
các găng sĩ Ấn Độ. và Trung Quốc suốt thời kỳ Bắc thuộc - Phật giáo trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu của quần chúng biến động vì nó hết sức gần
gũi với tín ngưỡng dân gian của người Việt. Người Việt tiếp thu Phật giáo và
biến nó thành vũ khí chống lại chính sách đồng hoá của các triều đại phương
Bắc nhằm biến người Việt thành người Hoa, biến nước ta thành “thuộc quốc”.
Nó đã giúp người Việt đứng vững trong những năm đen tối của lịch sử dân tộc.
Cũng giống như đạo Phật, đạo Nho cũng ược du nhập vào Việt Nam từ rất
sớm bởi sự thống trị của các thế lực phong kiến Trung Hoa. Tuy nhiên, khác với
đạo Phật, đạo Nho thời kỳ này không được đông đảo nhân dân tin theo. Nó chỉ
tồn tại trong tầng lớp trên của xã hội và bọn quan lại đô hộ. Vai trò của đạo Nho
thời kỳ này nhìn chung là mờ nhạt.
Sau khi giành lại được nền độc lập, tỏng suốt thế kỷ X, cá triều đại Ngô -
Đinh, Tiên - Lê đều lấy Phật giáo làm hệ tư tưởng thống trị. Đến khi nhà Lý
được thành lập vào thế kỷ XI thì Phật giáo vẫn đóng vai trò ghi phối toàn bộ đời
sống chính trị, văn hoá của đất nưcớ. Điều này thể hiện rõ trong chính sách của
triều đình trong đó có hệ thống tăng quan. Đây là tổ chức có tính chất tôn giáo
liên quan chặt chẽ với hệ thống nhà nước. Tăng quan triều lý là những người
giúp việc cho nhà vua quản lí các tăng đồ về mặt hành chính đồng thời trên thực
tế cũng là người bảo vệ quyền lợi của Phật giáo. Vua còn cho xây dựng nhiều
chùa chiền và số người đi tu cũng rất đông. Việc Lý Thái Tổ cho xây dựng văn
miếu (1070) thờ Khổng Tử và sau đó là Quốc Tử Giám (1076) làm trường quốc
học dạy chữ thánh hềin chứng tỏ đạo Nho đã bắt đầu có vai trò và các triều đại

đã bắt đầu coi trọng đến việc truyền bá Ng.
3
Vai trò của Phật giáo giảm cùng với sự đi xuống của triều Lý vào cuối thế
kỷ XIII. Từ khi nhà Trần thay thế nhà Lý thì Nho giáo đã dần trở thành hệ tư
tưởng chính thống của giai cấp thống trị. Tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo
và đóng vai trò lớn trong xã hội.
Tất cả những điều trên để nói rằng trong giáo dục và cả thi cử thời Lý -
Trần đều chú trọng nhiều đến Nho giáo, hay giáo dục và thi cử Nho giáo đóng
vai trò chi phối cả hệ thống giáo dục thời kỳ này. Bời mục tiêu chính của nền
giáo dục Nho học là đào tạo những người biết “tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên
hạ”. Những người làm chính sự tham gia bộ máy chính quyền theo học thuyết
của Khổng -Mạnh đã đề ra. Xã hội Đại Việt trong sự hưng thịnh của mình tất
yếu có sự phân hoá. Đội ngũ các nhà Nho học có vai trò rất lớn trong việc ổn
định xã hội nên tạo ra những người có tư tưởng Nho giáo là mục tiêu hàng đầu
của hệ thống giáo dục và thi cử nhằm tìm kiếm những người hiền tài, thông hiểu
đạo Nho mà quản lý đất nước.
2. Nội dung của chế độ khoa cử thời Lý - Trần
Khoa thi đầu tiên của thời Lý và cũng là khoa thi đầu tiên trong lịch sử
dân tộc được tổ chức vào năm 1075 dưới thời Lý Nhân Tông với nội dung thi
“khoa học tam trường” (theo “lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy
Chú0 người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh (Người xã Đông Cứu, huyện Gia Định - tức
Bắc Ninh ngày nay). Từ đó đến cuối triều Lý, đã tổ chức thi được 9 khoa (theo
thống kê của tác giả Nguyễn Tiến Cường - “Sự phát triển của giáo dục và chế độ
thi cử ở Việt Nam thời phong kiến”. Xin được trích nguyên văn bảng sau.
CÁC KHOA THI VĂN DO TRIỀU ĐÌNH TỔ CHỨC TRONG THỜI
LÝ.
Thứ
tự
Năm âm
lịch

Dương
lịch
Tên Khoa thi
nội dung thi
Tên người
đỡ đầu
Số
đỗ
Ghi chú
1 ất Mão 1075 Nho học tam
trường
Lê Văn
Thịnh
Chọn minh kinh
bác học
2 Bính Dần 1086 Thi những
người có văn
học
Mạc Hiến
Tích
Sung làm quan
hôn lâm
4
3 Canh Ngọ 1150 Thi Điện Việt sử lược
chép ĐVSKTT,
C.M chép
4 Nhâm
thân
1152 Thi Điện
5 ất Dậu 1165 Thi học sinh

6 Ký hội 1179 Thi đọc kinh
Bát nhã (con
em tăng quan
- Thi chép
thơ cổ nhân
và làm toán
(Hoàng Nam.
Thi chép thơ
cổ làm thơ,
phú kinh
nghĩa (con
em Tam
giáo)
Viết sử lược
chép.
- Con em tăng
quan và Hoàng
Nam thi ở điện
Phượng Minh.
- Con em Tam
giáo thi ở điện
Sùng Chương
7 ất Tị 1185 Thi thông thi
thư
Bùi Quốc
Khái
Đặng
Nghiêm
Chọn người hầu
vua học “Khoa

mục chỉ” chép
đỡ 20 người`
8 Quý Sửu 1193 Thi sĩ nhân
thiên hạ
Chọn người hầu
vua học
9 ất Mão 1195 Thi Tam giáo Cho đỗ xuất
thân
10 Bính Thìn 1196 Thi con em
tam giáo
(chép thơ cổ,
toán, thơ
phú)
Việt sử lược
chép cho phân
biệt cập đệ, xuất
thân
11 Kỷ Mùi 1199 Thi học sinh
5
(Ghi chú: 2 khoa Canh Ngọ (115) và Nhâm Thân (1152) có thể chỉ là một
khoa chép ở 2 sách thành ra khác nhau, 2 khoa ất Mão (1195) và Bính Thìn
(1196) cũng tương tự).
Như vậy nhìn vào bảng trên và cũng qua sử chép có thể thấy rõ các khoa
thi thời Lý không theo những năm nhất định và có thể khi nào cần thì mở. Càng
về sau các khoa thi ược tổ chức đều đặn hơn. Về nội dung cụ thể các khoa thi
thể các khoa thi thời Lý sử chưa thấy chép. Khoa thi đầu tiên năm Ất Mão
(1075) gọi là Minh Kinh Bá học tức thi chọn người hiểu nội dung, nghĩa lí của
Tứ thư, Ngũ kinh và các sách thánh hiền. Các khoa thi Canh Ngọ (1150) và
Nhâm Thân (1152) chép là thi Điện, có thể là một dạng thi được tổ chức trong
cung điện nhà vua. Các năm Ất Dậu (1165) và Kỷ Mùi (1192) viết là khi học

sinh ngoài ra còn có thi Tam giáo vào các năm 1195, 1196…
Còn về số người đỗ và người đỗ đầu thì sử chép còn thiếu rất nhiều nên
việc tìm hiểu về vai trò của thi cử trong thời Lý là hết sức khó khăn.
Sang thời Trần, tuy thời gian tồn tại ngắn hơn thời Lý nhưng lại tổ chức
được nhiều khoa thi hơn và chất lượng khoa cử đã được nâng lên một cách rõ
rệt. Xin được trích nguyên văn bảng sau của tác giả Nguyễn Tiến Cường.
CÁC KHOA THI VĂN DO TRIỀU ĐÌNH TỔ CHỨC TRONG THỜI
LÝ.
Thứ
tự
Năm âm
lịch
Dương
lịch
Tên Khoa
thi nội dung
thi
Tên người
đỡ đầu
Số
đỗ
Ghi chú
1 Đinh
Hợi
1227 Thi con em
tam giáo
Những người nối
nghiệp tam giáo
2 Nhâm
Thìn

1232 Thi Thái học
sinh
Trương
Hanh
5 Chi tam giáp. Sử
chép 5 người đỗ
3 Bính
thân
1236 Tuyển Nho
sinh trúng
vào hầu vua
4 Kỷ Hợi 1239 Thi Thái học Lưu Miễn 4
6
sinh đỗ đầu
5 Đinh
Mùi
1247 Thi Đại Tỉ Nguyễn
Quan
Quang
trạng
nguyên
44 Định Tam giáp,
Tam khôi
6 Đinh
Mùi
1247 Thi các khoa
thông tam
giáo
Ngô Tần -
giáp khoa

Chia giáp khoa, ất
khoa, sử ghi tên 4
người
7 Bính
Thìn
1256 Thi Đại Tỉ Trần Quốc
Lặc,
Trương Sán
đều đỗ
trạng
nguyên
32 Chia kinh và trại
trạng nguyên. Tam
khôi 4 người
8 Bính
Dần
1266 Thi Đại Tỉ Trần Cố,
Bạch Liêu
đều đỗ
trạng
nguyên
47 Kinh và trại trạng
nguyên, Tam khôi
4 người, KVT2
chép 51 người
9 Giáp
Tuất
1274 Tuyển học
trò hầu
Đông cung

học
Lý Đạo
Thái (Tài
đạo) đỗ đầu
ĐVSKTT và Quốc
triều Trương Khoa
lục chép
10 Ất Hợi 1275 Thi Đại tỉ
(C.M chép
thi thái học
sinh)
Đào Tiêu
trạng
nguyên
27 Bỏ chia kinh và
trại trạng nguyên -
tam khôi 3 người -
KVTL: 36 người
đỗ
11 Giáp
Thìn
1304 Thi Đại tỉ
(C.M: thi
thái học
Mạc Đính
Chi trạng
nguyên.
44 Bắt đầu có hàng
giáp. Sử chép phép
thi tiến sĩ. Tam

7

×