Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Ruộng đất công làng xã dưới triều Nguyễn trong thời gian nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.01 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Ruộng đất công làng xã ra đời từ rất sơm sinh ra từ các xã nông thôn.
Ruộng đất công làng xã khi mới ra đời và bắt đầu phát triển là do các làng xã tự
quản, tự chi và cũng tự sử dụng theo tập quán riêng của mỗi làng và được thông
qua hương ước của làng. Những thành viên trong làng xã đều xem ruộng đất đó
như tài sản thiêng liêng của làng lưu truyền lại cho bao thế hệ. Nên mọi người
phải giữ gìn, bảo vệ nó như báu vật thiêng liêng và chỗ dựa cơ bản của chính
sách cộng đồng. Do đó, còn tồn tại ruộng đất công làng xã là còn cơ sở đảm bảo
sự cố kết bền chặt các mối quan hệ bên trong cộng đồng.
Từ lúc ra đời cho đến thế kỷ XV, quyền sở hữu và quyền tự quản ruộng
đất công làng xã là quyền gần như tuyệt đối của mỗi làng. Vào đầu thời phép
quân điền đặt ra là một thách đố về quyền lợi và quyền sở hữu của nhà nước đối
với dân làng. Làng xã đã chịu nhiều nhân nhượng trước sự tấn công của luật
nước về ruộng đất. Vào thời Nguyễn, khi đó quyền và tập quyền được khẳng
định, chế độ phong kiến nhà nước được phát triển. Triều Nguyễn lại can thiệp
mạnh hơn vào thế giới tự trị của thôn xã cổ truyền bằng luật ruộng đất, việc ưu
tiên về khẩu phần và chất lượng cho quan viên chức sắc cao hơn so với thời Lê.
Nhưng vòng quay quân cấp chỉ có 3 năm. Triều Nguyễn tỏ rõ khả năng to lớn
của đám ruộng công làng xã này trong việc thu thuế, điều động lực dịch, binh
lính và sự ổn định xã hội qua sự bất biến của khẩu phần mà người dân vẫn
nương tựa.
Việt Nam là một nước nông nghiệp cổ truyền. Do đó, ruộng đất là tư liệu
sản xuất hết sức quan trọng. Cũng như các triều đại phong kiến trước đó, từ khi
triều Nguyễn thành lập đã hết sức chú trọng tới vấn đề ruộng đất để thúc đẩy
kinh tế xã hội. Đặc biệt là ruộng đất công làng xã – cơ sở cho sự tồn tại của bộ
máy nhà nước phong kiến.
Bài tiểu luận này, tôi đề cập tới vấn đề “Ruộng đất công làng xã dưới
triều Nguyễn trong thời gian nửa đầu thế kỷ XIX”. Để thấy được những nét cơ
bản nhất mà nhà Nguyễn đã thực hiện nhằm phát triển loại hình ruộng đất này.
1
Nhà Nguyễn can thiệp sâu vào ruộng đất công làng xã và đưa ra nhiều


biện pháp chính sách để khẳng định quyền sở hữu của nhà nước đối với loại
ruộng này. Và những kết quả thu được sẽ chứng minh cho ta thấy, chính sách và
biện pháp của nhà Nguyễn là tiến bộ hay tụt hậu so với sự phát triển của lịch sử.
2
I. Chính sách của nhà Nguyễn đối với ruộng đất công làng xã
Ruộng công làng xã xuất hiện từ rất lâu đời. Có ý kiến cho rằng thời Lý
và Trần, ruộng công làng xã là loại “quan điền bản xã”. Vào thời nhà Lê, nó
mang tên là xã dân công điền. Ở triều đại các ông vua đều có chính sách quản lý
chặt chẽ đối với loại ruộng đất công làng xã để tỏ rõ quyền sở hữu của nhà nước
đối với loại ruộng này. Sang thế kỷ XIX, Nhà Nguyễn với quyền lực tuyệt đối
trong tay đã ngày càng can thiệp sâu hơn nữa đối với loại ruộng này. Nhà
Nguyễn đã chính thức tuyên bố quyền sở hữu nó là thuộc về nhà nước. Để tỏ rõ
quyền sở hữu của mình, các đời vua nhà Nguyễn đã thi hành hàng loạt các chính
sách khác nhau để duy trì, bảo vệ, mở rộng ruộng đất công làng xã.
Năm 1803, Triều đình nhà Nguyễn nhắc lại việc cấm các làng xã không
được bán đứt hay cầm cố ruộng công “Theo lệ cụ thì công thổ quân cấp cho dân
đem bán là có tội”. Như vậy, từ những triều đại trước đã thực hiện quyền sở hữu
của mình đối với ruộng đất công làng xã. Và đến khi Gia Long lên ngôi sau một
năm cũng thực hiện chính sách này. Nhà Nguyễn đã chính thức công bố và nhắc
đi nhắc lại quyết định cấm bán ruộng đất công làng xã. Ngay năm 1803 sắc chỉ
ghi: “Phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm
trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền. Nếu nhân có việc mà bán cho người
mướn để chi dùng trong xã thôn thì chỉ hạn trong 3 năm, quá hạn sẽ bị tội nặng.
Người nào tố cáo đúng thực thì thưởng cho ruộng nhất đẳng một mẫu, cày cấy 3
năm hết hạn trả về dân”(1). Vậy là trên pháp lệnh, Nhà nước tỏ ra kiên quyết và
tích cực ngăn cấm việc bán ruộng đất công làng xã. Lệ này được nhắc lại nhiều
lần trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX như năm 1844, 1855…
Như vậy lệnh cấm bán ruộng đất công làng xã là biểu hiện của việc nhà
nước tuyên bố quyền sở hữu của nó đối với loại ruộng đất ấy. Mặc dù vậy, ta
phải nhìn rõ quan điểm rằng tính không thể nhượng bán là thuộc về bất cứ một

loại tài sản nào thuộc quyền sở hữu công cộng tập thể. Bản thân làng xã cũng
3
yêu cầu tính không thể nhượng bán đối với ruộng đất công của làng. Vì vậy lệ
cấm bán ruộng đất công làng xã trước hết mang mục đích ngăn cấm việc tư hữu
hoá nhiều ruộng đất thuộc sở hữu công cộng, chặn đứng sự hao hụt ruộng đất
công về mặt số lượng, diện tích. Vả lại khi nhà nước ra lệnh cấm bán ruộng đất
công, nhà nước phong kiến Nguyễn chưa bao giờ quy định rõ thêm ai có quyền
đem bán ruộng đất ấy. Và điều đó cho ta thấy rằng, đối với ruộng công làng xã
hầu như không ai, không tập thể nào có quyền đem bán cả. Trong khi đó nhà
nước lại thừa nhận cho làng xã có thể đem ruộng đất công cho thuê một thời hạn
nhất định 3 năm, với điều kiện việc đó là nhu cầu thực sự, thiết yếu của làng xã
của tập thể.
Năm 1844, Nhà nước đã quy định: “ Từ nay, phàm ruộng đất công các xã
thôn, theo đúng lệ định, không được bán đứt, bán cố. Nếu xã thôn nào có việc
chung khẩn trọng phải đem cầm cố hay cho thuê lấy tiền tiêu dùng thì lý dịch xã
ấy báo khắp hương mục cho đến dân chúng trong xã, nhưng không được quá 3
năm. Văn khế đem cầm cố phải nhiều người ký tên, điểm chỉ. Nếu xã lớn thì vài
chục người, nếu xã nhỏ thì 5-6 người ký tên điểm chỉ liền nhau thì mới là việc
công của làng”(2)
Khi các công trình công cộng xâm phạm vào ruộng đất công làng xã cũng
như tư nhân, thì nhà nước có trách nhiệm đền tiền và miễn tô thuế. Đối với tất cả
các công trình: “Đàn cao, đàn thấp, miếu, chùa, tích điền, nhà học, thành, ao,
đồn, bảo, nhà trạm, đê điều, đường xá, các chỗ lấy đất nung ngói, trông dâu,
trồng gai, ở ngoài kinh kỳ mở vào ruộng đất công hay tư được theo hạng miễn
thuế, chiểu giá cấp tiền cho”(3). “ Chiểu giá” tức là chiểu theo giá tiền mua bán
ruộng đất lúc bấy giờ ở địa phương đó. Nếu đền bù theo giá bán thì rõ ràng nhà
nước đã bỏ tiền ra mua lại số ruộng đất đó và chính vì vậy nhà nước đã thừa
nhận quyền sở hữu các ruộng đất được đền bù ấy không thuộc về nhà nước mà
thuộc về các tư nhân hay làng xã. Gia Long đã thực hiện nguyên tắc quyết định
đền bù như sau:

4
Địa phương làm các công
trình công cộng
Mức và biện pháp đền bù
Ở Quảng Trị làm doanh trại
đắp đường 1809
Nhất đẳng cấp 100 quan mỗi mẫu
Nhị đẳng cấp 75 quan mỗi mẫu
Tam đẳng cấp 50 quan mỗi mẫu
Ở Quảng Bình, đắp thành
doanh-1812
Lấy quan điền trả cấp
Ở Thừa Thiên xây làng
năm 1814
Nhất đẳng:200 quan
Nhị đẳng:150 quan
Tam đẳng:100 quan
Ở doanh Quảng Đức: làm lò
nung vào đất vườn 1817
Đất vườn:10 quan mỗi xào
Nguyên tắc đền bù trên được thực hiện nghiêm chỉnh trong suốt thời Gia
Long nhưng từ thời Minh Mệnh trở đi, nguyên tắc trên bị vi phạm. Năm 1827,
Minh Mệnh đã quyết định: ruộng công làng xã chỉ được miễn thuế chứ không
được đền bù nữa (ruộng tư vẫn theo lệ cũ). Đây là một hành động mãnh mẽ của
vua Minh Mệnh. Nó là một sự tuyên bố dứt khoát quyền sở hữu của nhà nước
trên số ruộng đất công làng xã, vì vậy nhà nước không phải đền bù một đồng
nào cho làng xã cả. Cho nên đây là một sự tước đoạt với làng xã. Tuy nhiên,
chính sách trên cũng chưa được thực hiện triệt để. Năm 1835, khi đào sông Phả
Lại ở Thừa Thiên, triều đình nhà Nguyễn đã đền bù như sau:
Ruộng lúa: mỗi sào 2 quan, tức mỗi mẫu 20 quan.

Ruộng dâu: mỗi thức 20 đồng, tức mỗi mẫu 30 quan.
Ta có thể thấy đây là mức đền tiền thấp nhất, rẻ mạt nhất. Nhưng dù sao
vẫn là sự đền bù, do đó phần nào đấy vẫn thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất của
làng xã.
Ngoài ra nhà Nguyễn bản thân nó cũng cố giữ số lượng ruộng công khỏi
bị sứt mẻ nhiều. Mọi thứ ban cấp ruộng đất trích từ ruộng công ra đều hầu như
5
bị bãi bỏ hết. Riêng việc ban cấp tự điền là còn được duy trì, nhưng cũng bị hạn
chế rất nhiều; và có khi còn được trích cả ruộng tư nữa. Năm 1802, Gia Long
lấy một vạn mẫu ruộng cả công lẫn tư ban làm tự điền cho con cháu vua Lê.
Hoặc năm 1815 triều Nguyễn sai lư thủ Quảng Nam chi tiền kho 3 vạn quan và
3000 lạng bạc để mua ruộng của dân dùng vào việc tế tự ông tổ ba đời của Tống
quốc công phu nhân Lê Thị. Đó là biện pháp tránh làm hao hụt số lượng ruộng
đất làng xã trong trường hợp phải ban cấp nhiều.
Bên cạnh những biện pháp trên, nhà nước còn tích cực tạo điều kiện để
phát triển số lượng công điền công thổ. Triều Nguyễn khôi phục lại những ruộng
đất công bị chiếm đoạt từ trước, đồng thời dùng quyền lực cắt xén bất cứ loại
ruộng đất nào thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào để nhập vào ruộng đất công
làng xã. Từ khi Gia Long lên ngôi cho đến đầu thời kỳ Tự Đức, nhà nước đã ban
hành 24 quyết định mở rộng quỹ công điền( Gia Long 2, Minh Mênh 18, Thiệu
Trị 2, Tự Đức 2), lấy từ ruộng đất do nhà nước quản lý trực tiếp (58% số quy
định), từ kết quả khai hoang ( 29 % số quy định), và từ ruộng đất của tư nhân
( 13% số quy định). Hai hình thức đầu không có gì đặc biệt vì nó đều thuộc
quyền sở hữu trong tay nhà nước, hình thức 3 được thực hiện bằng áp chế từ
trên xuống mà hiện tượng điển hình là việc thực hiện thi hành phép quân điền ở
Bình Định vào những năm của thời Minh Mệnh.
Trong công cuộc khai hoang mà đối tượng là những đất công của nhà
nước, chính quyền nhà Nguyễn cho phát triển song song hai loại hình sở hữu
ruộng đất, sở hữu tư nhân và sở hữu làng xã. Năm 1828, thời kỳ mà công việc
khai hoang đang tiến hành mạnh mẽ nhất, Minh Mệnh đã ra một đạo dụ quyết

định rằng những ruộng đất công mới khai hoá thành ruộng thì một nửa thuộc
khai phá, còn một nửa nạp vào công điền. Đây là một biện pháp khá mạnh mẽ
của Minh Mệnh để phát triển diện tích công điền công thổ. Đồng thời với công
cuộc khai hoang của dân, nhà Nguyễn còn trực tiếp cho tù binh đi vỡ đất rồi
trích toàn bộ hay một phần ruộng khẩn được giao cho làng xã sở tại để mở rộng
diện tích công điền. Ví dụ: Quảng Định năm 1818 cấp toàn bộ ruộng đất do tù
phạm khẩn được ở Tam Độc cho xã sở tại làm công điền. Dụ năm 1840, Nhà
6
Nước đã nói rõ : “Nay cứ quan tỉnh Biên Hoà tâu bày trước đã phái vát biền
binh khai phá ruộng ở Xích Lam thuộc hạt ấy, hiến số đến 300 mẫu, nên phải
chia nợ cho dân… Vậy cứ số nguyên trước phát cho tù phạm… còn bao nhiêu
chiểu theo các xã thôn cận tiện, sức cho nhận lĩnh cày cấy nộp thuế, xung làm
ruộng công, chia cấp cho quân dân. Lại như các tỉnh Khánh Hoà trở vào Nam,
tỉnh nào có ruộng mới khai khẩn như thế thì cũng cho chiểu theo đây mà
làm.”(4).
Đối với các ruộng của nhà nước như quan điền quan trại và đồn điền
chính quyền phong kiến cũng đem một phần xung vào làm ruộng công làng xã.
Năm 1820, vua Nguyễn ra lệnh đem tất cả những quan trại bị bỏ hoang cấp trả
cho địa phương, nhập vào công điền, chia cho dân và chịu thuế như ruộng công
làng xã. Quan điền quan trại đang canh tác cũng có thể bị chuyển sang làm
ruộng công làng xã.
Quyết định trên chứng tỏ sự mạnh dạn và quyết tâm khá cao của chính
quyền nhà Nguyễn nhằm đi tới mở rộng diện tích ở các làng xã. Quyết tâm này
đã lên tới đỉnh tối cao của nó kể từ năm 1837, khi nhà Nguyễn thực hiện 2 biện
pháp có ý nghĩa lớn lao trong vấn đề ruộng đất như sau:
1. Áp đặt chế độ công điền công thổ vào Nam kỳ.
2. Tịch thu ruộng tư để khôi phục công điền ở Bình Định.
Trước kia trên đất Nam kỳ đã tồn tại loại ruộng đất của làng xã. Nhưng do
đến cuối thời Minh Mệnh, loại ruộng này bị thu hẹp lại rất nhiều do chính sách
phát triển của ruộng tư nhân. Sang đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn vẫn tiếp tục

phát triển chính sách trên trong những năm khai phá ào ạt bằng việc mộ dân vào
làm ăn ở miền đất này. Bởi vậy, loại ruộng công làng xã dù có tồn tại cũng
không thể phát triển mà còn bị tàn lụi đi trước sở hữu tư nhân, vì sở hữu tư nhân
kích thích hứng thú sản xuất hơn.
Vì thế mà chế độ công điền công thổ đã được áp đặt và mở rộng vào Miền
Nam, nơi có khá nhiều ruộng đất phì nhiêu. Tuy nhiên, số lượng công điền ở đây
không nhiều vì thế muốn phát triển diện tích công điền, không có cách nào khác
hơn là xâm phạm vào ruộng đất tư hữu. Triều Nguyễn đã đi tới một quyết định
7
quyết liệt là tịch thu một phần ruộng đất tư hữu bổ sung vào ruộng công làng xã
đã có. Năm 1840 bố chính Gia Định Lê Khánh Chinh tâu xin trích 50% ruộng tư
xung làm ruộng quân điền quân cấp. Minh Mệnh cân nhắc rồi xuống dụ: “ các
tỉnh Nam kỳ có đất tốt và nhiều ruộng. Chỉ lo dân không chăm cày ruộng chứ
không lo dân không chẳng đủ ruộng cày. Nếu khéo điều hoà để ruộng người
giàu đem ruộng dư cho thêm người nghèo không đủ ruộng cày, bằng cách
khuyên bảo khiến dân đều được hưởng lợi, há lại không tránh khỏi sự tranh
giành? Chứ chia cắt lấy một nửa ruộng tư không khỏi gặp phải một phen sửa đổi
sổ sách, gây nhiều phiền nhiễu. Nay thuận cho xem xét, xã thôn nào có nhiều
ruộng đất hoang, khiến dân hợp lực khai khẩn làm ruộng công, rồi đem cấp cho
lính và dân. Hoặc làng nào có nhiều ruộng đất tư không canh tác hết, thì quan
phải thân hành kiến thị khiến người có ruộng trích ra một nửa, hoặc ba, bốn
phần mười giao cho làng xung công điền, để dân cùng hưởng lợi chung” Tuy
nhiên kết quả cho thấy lại chưa đạt được hiệu quả. Số người tự nguyện đem
ruộng tư nhượng làm ruộng công chỉ có 6-7 trăm mẫu so với số ruộng 6-7 ngàn
mẫu.
Ở tỉnh Bình Định đến cuối thời Minh Mệnh là nơi có tỷ lệ ruộng công
thấp( bằng khoảng 10% ruộng tư). Năm 1838, lưỡng thổ tổng đốc Bình- Phú Vũ
Xuân Cẩn đã tâu lên vua về tình hình ruộng công tư ở đây và cho biết: “ Các
ruộng tư đều bị bọn hào phú chiếm cả người nghèo không nhờ cậy gì”. Ông đề
nghị người nào có ruộng tư chỉ được để lại 5 mẫu, còn bao nhiêu đều xung vào

ruộng công.(5).
Việc làm trên, một mặt là thí điểm của nhà Nguyễn dùng sức ép hành
chính để mở rộng công điền công thổ, mặt khác cũng thể hiện tham vọng áp đặt
chế độ công điền công thổ ở một vùng đất hầu như chỉ có ruộng tư (Nam bộ).
Những chính sách này bộc lộ rõ quan điểm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc
giải quyết vấn đề ruộng đất ở nửa đầu thế kỷ XIX.
Đồng thời với các biện pháp trên, nhà nước đã ban hành chính sách “quân
điền” 1804, tức là chỉ sau 2 năm Gia Long lên ngôi. Mục đích của chính sách
này là nhằm duy trì và bảo vệ ruộng đất công làng xã, lấy đó làm cơ sở để giải
8
quyết những vấn đề kinh tê xã hội và ổn định tình hình đất nước. Chính sách
quân điền quyết định rất tỷ mỉ và chi tiết những đối tượng được nhận ruộng,
khẩu phần ruộng đất của từng đối tượng và thời gian chia lại ruộng. Quan lại
vẫn là đối tượng được nhà nước ưu tiên ban cấp ruộng đất cho họ nhiều hơn cả,
khẩu phần của họ tuỳ theo chức bậc được chia từ 8-18 mẫu. Tiếp sau là binh lính
được chia từ 7-9 mẫu. Năm 1806 nhà nước ban hành thêm chính sách “Lương
điền” ưu tiên chia thêm cho binh lính. Dân đinh được chia 6, 5 phần. Ngoài ra
nhà Nguyễn còn có phần quan tâm đến những đối tượng chính sách xã hội (dân
đinh già ốm 5 phần, lão nhiêu cố cùng, trẻ em mồ côi, tàn phế, đàn bà góa 3
phần). Đến năm 1840, Minh Mệnh lại rút nhiều khẩu phần của quan lại, binh
lính xuống bằng khẩu phần của dân đinh, lão nhiêu, lão hạng được một nửa, trẻ
em mồ côi, đàn bà góa được một phần ba.
Về thời hạn chia ruộng công, các triều đại trước quy định là 6 năm, còn
thời nhà Nguyễn đã sửa lại 3 năm chia lại ruộng một lần. Sở dĩ như vậy vì trong
một thời gian ngắn quyền sở hữu công cộng của làng xã và nhà nước đối với
ruộng công được đảm bảo hơn, sẽ tránh khỏi tình trạng “biến công vi tư” do thời
gian dài tạo nên những thuận lợi cho các chủ chiếm hữu. Bên cạnh đó, chia cấp
trong một thời gian ngắn còn có thể nắm vững năng suất ruộng đất và do đó
kiểm tra được chắc chắn việc thu nộp tô thuế. Việc làm này đã gây tác động đến
độ phì của đất vì khoảng cách trong hai lần chia ruộng ngắn ngủi khiến cho

người canh tác thửa ruộng không chú ý chăm sóc đất đai mà chỉ biết khai thác
triệt để từ đất đai, làm cho đất đai ngày càng cằn cỗi.
Nhìn chung những chính sách của nhà Nguyễn không có tác dụng nhiều
lắm đối với ruộng đất công làng xã. Tuy nhiên, những việc làm của nhà Nguyễn
chỉ là cố gắng phục hồi lại chế độ sở hữu công cộng, một hình thái sở hữu đến
lúc này đã trở nên lỗi thời và cản trở quá trình tiến hoá của lịch sử.
II. Tô thuế ruộng đất công làng xã
Tô thuế chính là nguồn lợi để nuôi sống bộ máy chính quyền phong kiến.
Chính quyền phong kiến cũng dựa vào tô thuế để tăng thêm sức mạnh quyền lực
trong tay đối với sở hữu ruộng đất. Bởi có quyền chiếm hữu ruộng đất thì cũng
9
đồng thời có quyền chiếm hữu địa tô, và mặt khác chiếm hữu địa tô chính là
hình thức biểu hiện quyền sở hữu ruộng đất. Người dân không những phải chịu
nhiêù khoản thuế khác nhau mà còn phải chịu thuế ruộng khá nặng nề. Thuế
ruộng đất dưới thời Nguyễn trong thời gian này không ổn định, khá phức tạp và
thay đổi theo địa phương và dưới mỗi triều vua.
Ngay năm 1803, thuế ruộng đất công làng xã đã được quyết định . Gia
Long chia cả nước thành 4 khu vực đánh thuế. Mỗi khu vực chịu một mức thuế
khác nhau:
- Khu vực I bao gồm: Các phủ Quảng Bình, Triều Phong, Điện Bàn,
Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hoà, Diên Khánh.
- Khu vực II bao gồm: Nghệ An, Thanh Hoá, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải
Dương, Sơn Nam thượng, hạ và Phủ Phụng Thiên.
- Khu vực III bao gồm 6 trấn: Yên Quảng, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng.
- Khu vực IV bao gồm: Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên,
Kiên Giang.
Cụ thể như sau:
Biểu số 1
10

×