H
ỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN
TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
H
ỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN
TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành : Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số́ : 62 31 23 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trương Thị Bạch Yến
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
6
Chương 1: TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN - NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
28
1.1. Xã và nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các
tỉnh Tây Nguyên 28
1.2. Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các
tỉnh Tây Nguyên - khái niệm, phương thức và vai trò 54
Chương 2: NGUỒN VÀ TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY
NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN,
KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
76
2.1. Thực trạng nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở
các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 76
2.2. Thực trạng tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu
số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 82
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐẨY MẠNH TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY
NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020
113
3.1. Dự báo những yếu tố tác động và phương hướng tạo nguồn cán
bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên
đến năm 2020 113
3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ,
công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên đến
năm 2020
121
KẾT LUẬN
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
160
PHỤ LỤC
174
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CB,CC : Cán bộ, công chức
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DTTS : Dân tộc thiểu số
GS : Giáo sư
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTCT : Hệ thống chính trị
KT-XH : Kinh tế - xã hội
Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó giáo sư
ThS : Thạc sĩ
TS : Tiến sĩ
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Luật Cán bộ, công chức (2008), cán bộ cấp xã là người được bầu cử
giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy
ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, để có cán bộ, công chức (CB, CC) giữ các chức danh trong hệ
thống chính trị (HTCT) ở xã, việc bầu cử, tuyển dụng là khâu chốt cuối cùng.
Nhưng đội ngũ đó có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng
và có sự chuyển tiếp vững vàng, liên tục giữa các thế hệ hay không lại phụ thuộc
vào yếu tố có tính quyết định: chất lượng nguồn do công tác tạo nguồn trước đó
mang lại. Phát hiện, thu hút, quy hoạch tạo nguồn tốt, số lượng nguồn phong
phú, đa dạng giúp cấp ủy chủ động chọn nguồn đủ số dư cho nhân sự bầu cử,
tuyển chọn thuận lợi, tránh được tình trạng hẫng hụt cán bộ, nhất là khi chuyển
giai đoạn cách mạng. Đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa nguồn tốt, đội ngũ nguồn
sớm đạt chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất thì công tác quy hoạch, bố trí, sử
dụng CB, CC sẽ chủ động.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác tạo nguồn
cán bộ. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) đất nước, việc chủ động phát hiện tài năng trẻ, cán bộ có triển
vọng đưa vào quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, xuất
thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ
dân tộc thiểu số (DTTS), cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần
chúng được các cấp bộ đảng quán triệt sâu sắc và quyết liệt tổ chức thực hiện,
mang lại những chuyển biến tích cực về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức đảng ở nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước.
2
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của cả nước, nơi cư trú của hơn 5,2 triệu
người, trong đó có gần 2 triệu người thuộc 46 DTTS (chiếm tỷ lệ 37,84% số dân).
Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở hiện có trên 23.500 người, trong đó 26,8% là người
DTTS. Bên cạnh cán bộ người Kinh đến từ nhiều nguồn, đội ngũ cán bộ người
DTTS đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội
(KT-XH), giữ vững ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là các xã có đông đồng
bào DTTS sinh sống. Đó là kết quả của quá trình tạo nguồn và xây dựng đội ngũ
cán bộ cơ sở có kế hoạch của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên, đặc biệt là từ khi có
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Đảng.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới
theo hướng CNH, HĐH, xét một cách toàn diện, đội ngũ CB, CC xã là người
DTTS ở Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít hạn chế. Số lượng, cơ cấu thành
phần, năng lực, trình độ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cả đội ngũ chưa
đồng bộ. Khá phổ biến tình trạng cán bộ có trình độ thấp; năng lực bao quát,
quyết đoán trong chỉ đạo thực tiễn không cao; có nơi bắt đầu hẫng hụt cán bộ sau
khi lớp cán bộ trưởng thành trong kháng chiến nghỉ công tác Thực tế đó tạo
nên trở ngại lớn cho việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở một địa bàn miền
núi chiến lược trọng yếu đông đồng bào DTTS sinh sống.
Những hạn chế đó có nguyên nhân từ việc tạo nguồn CB, CC xã là người
DTTS ở Tây Nguyên vừa qua còn nhiều bất cập. Công tác tuyên truyền, vận
động, xây dựng các phong trào hành động cách mạng tại các thôn, buôn nhằm
bồi dưỡng, rèn luyện, phát hiện quần chúng ưu tú là người DTTS hiệu quả còn
thấp. Công tác giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho học sinh, sinh
viên, công chức tập sự, cán bộ giữ vị trí thấp là người DTTS để chuẩn bị nguồn
cho công chức và cán bộ ở vị trí cao hơn chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa
nguồn. Việc xây dựng chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh để thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao là người DTTS về các xã. Công tác phát triển đảng viên mới
người DTTS còn hạn chế, trong một thời gian dài còn có nhiều thôn, buôn chưa
có chi bộ đảng độc lập, thậm chí “trắng” đảng viên Khắc phục những hạn chế,
3
yếu kém ấy là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên
trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, tôi chọn vấn đề “Tạo nguồn cán bộ, công
chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” làm đề
tài Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, với mong muốn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, thúc đẩy
việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên ngày một tốt hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tạo nguồn CB, CC xã
là người DTTS ở Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp
chủ yếu đẩy mạnh việc tạo nguồn đội ngũ này đến năm 2020.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Khái quát tình hình Tây Nguyên, hệ thống chính trị các xã, đặc điểm, vai
trò của CB, CC và nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên.
- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò tạo nguồn CB, CC xã
người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên.
- Đánh giá đúng thực trạng nguồn và công tác tạo nguồn CB, CC xã người
DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên, rút ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh
nghiệm và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh việc
tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
* Đối tượng nghiên cứu của Luận án: là tạo nguồn CB, CC xã người
DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án khảo sát, nghiên cứu việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở
5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắc, Đắk Nông, Lâm Đồng.
4
- Thời gian nghiên cứu từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước ra đời đến nay, phương hướng, giải pháp đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Luận án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
* Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác cán
bộ, công tác tạo nguồn cán bộ. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học có liên quan đã được công bố.
* Cơ sở thực tiễn: Luận án được nghiên cứu từ thực tiễn xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung, công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây
Nguyên nói riêng, được phản ánh trong các văn bản báo cáo, các bảng biểu
thống kê lưu trữ của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan
chức năng có liên quan, và kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của Luận án
Luận án được nghiên cứu trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin; sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên
ngành và chuyên ngành, như: lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, hệ thống, thống
kê-so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án
- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức tạo nguồn CB, CC xã người
DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên.
- Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã là
người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên những năm vừa qua.
- Đề xuất hai giải pháp có tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn CB,
CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển
và giao trách nhiệm cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở giáo dục
- đào tạo trên địa bàn Tây Nguyên tham gia tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. Hai
là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò HTCT xã, lực lượng người có uy tín trong
cộng đồng DTTS ở thôn, buôn trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS.
5
6. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo, giúp các cấp ủy đảng đẩy mạnh công tác tạo nguồn CB, CC xã là người
DTTS ở Tây Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu của Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ hoạt động nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ
sở đào tạo khác, đặc biệt là các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện ở Tây Nguyên.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận
án gồm Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 3 chương, 6 tiết.
6
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có tạo nguồn cán bộ của đảng cộng sản
là vấn đề đã được trình bày trong nhiều tác phẩm kinh điển của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh; bài viết của các lãnh tụ của Đảng, Nhà
nước; công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong thời gian gần đây, có
thể tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án như sau:
I. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ và tạo nguồn
cán bộ nói chung
Công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam. Bài học mà V.I.Lênin từng tổng kết: “Trong lịch sử, chưa
hề có một giai cấp nào nắm được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có
đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [82, tr.473] trở thành mối quan tâm
hàng đầu của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Khi Đảng ta tiến
hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ra đời (1997) đến nay, nhiều công trình
khoa học được triển khai, đề cập tổng thể những vấn đề lý luận và thực tiễn công
tác cán bộ của Đảng.
Sách “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ
thống chính trị đổi mới” (1998) của PGS,TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) và sách
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001) của Nguyễn Phú Trọng,
Trần Xuân Sầm là hai công trình nghiên cứu lớn, xác định rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ta trong thời kỳ mới,
đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ trong HTCT các
cấp. Theo các tác giả, việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam và thế giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng đã
7
được kiểm nghiệm từ cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn
quan chức trong các vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con
người Việt Nam truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu
khoa học quản lý của các nước. Đây là những quan điểm rất đổi mới về công tác
cán bộ của Đảng, Luận án có thể kế thừa và vận dụng vào việc luận bàn về mục
tiêu tạo nguồn và đổi mới việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn CB, CC xã người
DTTS phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của vùng Tây Nguyên.
Nhiều công trình khác như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09 “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2002-2004) của Bộ Nội vụ; sách “Xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” (2007) của Vũ Văn Hiền (chủ biên), Trần Quang Nhiếp,
Lê Đức Bình…; sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức”
(2011) của TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội) tiếp tục đưa ra nhiều luận cứ khoa học của việc xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành nước ta. Qua đó, nhiều vấn đề được khẳng
định: về vị trí, vai trò nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của cán bộ và
công tác cán bộ; về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ
đặt trong trong quan hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế của thời đại; về trách
nhiệm của các cấp chủ thể, nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, HTCT; về
quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH. Luận án có thể kế thừa
các kết quả nghiên cứu trên để vận dụng vào việc làm rõ vai trò của đội ngũ CB, CC
và những yêu cầu đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên.
Bài viết “Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của
Đảng” (2004) của Vũ Văn Hiền và Tạ Xuân Đại (Hội thảo lý luận giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc: Xây dựng đảng cầm quyền -
kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc) khẳng định công tác
cán bộ của Đảng ta là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt; xây dựng đội
8
ngũ cán bộ chủ chốt là điều cốt lõi của vấn đề then chốt, vì vậy cần chuẩn bị
chiến lược cán bộ, với nội dung quan trọng là tạo nguồn, xây dựng quy hoạch và
chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục cán bộ.
Đối với hai khâu quan trọng của công tác cán bộ là đào tạo và luân chuyển,
có các công trình: Đề tài khoa học cấp Bộ (1998-1999) “Những căn cứ lý luận và
thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi
đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay” do TS Trần Ngọc Uẩn
(Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm, nhấn mạnh việc xây
dựng một chương trình phù hợp phải được coi là nội dung cốt lõi trong công tác
đào tạo cán bộ. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2002)-07 "Cơ sở lý luận và thực tiễn
đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đạ hóa đất nước", chủ nhiệm PGS, TS Trần Đình Hoan lần đầu tiên bàn về công
tác luân chuyển với tư cách là khâu góp phần đào tạo cán bộ qua thực tiễn. Luân
chuyển gắn liền với quy hoạch, và có thể theo 3 hướng: luân chuyển ngang, trên
xuống, dưới lên. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nơi đi và nơi đến của
cán bộ luân chuyển đều được nhấn mạnh. Những vấn đề liên quan đến chế độ
chính sách hỗ trợ đời sống, điều kiện, phương tiện để hoàn thành tốt nhất nhiệm
vụ cũng là nội dung được tổng kết và đề xuất trong Đề tài. Những kết quả nghiên
cứu của đề tài có thể giúp Luận án hoàn thiện hơn trong giải pháp đổi mới nội
dung tạo nguồn CB, CC xã, phần đổi mới công tác luân chuyển tạo nguồn.
Tạo nguồn cán bộ nằm trong phạm vi công tác cán bộ, nên có khá nhiều
công trình nghiên cứu bàn về nó, sử dụng thuật ngữ “tạo nguồn” trong tên công
trình, hoặc phạm vi rộng hơn là “xây dựng đội ngũ cán bộ”, trong đó có cán bộ
người DTTS, nhưng nhìn chung nội hàm khái niệm “tạo nguồn” chưa được minh
định. Tuyệt đại bộ phận các bài báo khoa học hiện nay đều xuất phát từ quan
niệm tạo nguồn cán bộ tập trung ở quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn, nên
thực trạng và giải pháp cho tạo nguồn cũng hướng chủ yếu về nâng cao chất
lượng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tiêu biểu có: bài viết “Bộ đội
Biên phòng với việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số” của Thiếu tướng Võ
9
Trọng Việt (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 15-2-2007); “Tạo nguồn cán bộ từ
đồng bào dân tộc thiểu số” của Nguyễn Văn Bình (Webside Quảng Nam online,
5-10-2009); “Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã phường ở Đồng Nai”
của Thủy Anh (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9-2009); “Hải Phòng tạo nguồn
cán bộ lãnh đạo trẻ” của Lê Xuân Lịch (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 1-2010);
“Tạo nguồn lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” của Bùi Văn Tiếng (Tạp chí Xây
dựng Đảng, tháng 4/2010) v.v Tuy còn hạn hẹp trong quan niệm và giải pháp tạo
nguồn, nhưng giá trị của các bài viết cho thấy bức tranh khá đa dạng về thực trạng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cùng những mô hình, kinh nghiệm hay, có thể
dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng tâm, những vấn đề đặt ra trong
công tác tạo nguồn cán bộ trên bình diện chung và cho đề tài Luận án nói riêng.
Bên cạnh đó, một số đề tài khoa học, luận văn, luận án gần đây mở rộng
được phạm vi hoặc đi sâu vào một số nội dung tạo nguồn cán bộ cụ thể:
Tại Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ” (1998)
thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH.05, TS Đỗ Xuân Định có
bài “Vấn đề tạo nguồn trong quy hoạch cán bộ” bàn về hai cách tạo nguồn: từ xa và
trực tiếp. Theo tác giả, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí là
cách tạo nguồn từ xa, còn việc đưa cán bộ vào hoạt động thực tiễn và phong trào
cách mạng của quần chúng để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, sàng lọc là cách tạo
nguồn trực tiếp từng loại cán bộ. Thực chất của tạo nguồn trực tiếp là “sự tiếp tục
đào tạo trong thực tiễn”, là “sự đào tạo trong quá trình sử dụng”, vì vậy cần sử dụng
đúng chuyên ngành đào tạo, bố trí công việc thích hợp, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Trong tạo nguồn, không chỉ đòi hỏi cao về đạo đức, năng lực công tác
cán bộ, mà phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, khuyến khích lợi ích vật chất, bởi nó
“như là một tất yếu đi đôi với những giá trị tinh thần và việc bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng”. Những tiếp cận mang tính khái quát này là gợi mở quan trọng cho việc
xây dựng bộ khung lý thuyết về nội dung tạo nguồn của Luận án.
Đề tài khoa học cấp Bộ (2005) “Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở
các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay” do TS Đoàn Minh Huấn làm chủ nhiệm, đưa ra
10
các khái niệm và cách tiếp cận vấn đề tạo nguồn cán bộ chủ chốt, phân tích đánh giá
thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho HTCT cấp xã các tỉnh Tây Bắc
nước ta những năm qua. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong việc tạo
nguồn cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc qua việc nghiên cứu
hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu vực, đề xuất những giải pháp đẩy
mạnh công tác tạo nguồn cán bộ HTCT cơ sở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.
Đề tài khoa học “Vấn đề tạo nguồn cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt
khó khăn - thực trạng và giải pháp” (Mã số KHBD (2009) - 51) của ThS Trần Thị
Hương đưa ra khái niệm “Tạo nguồn cán bộ cơ sở cấp xã vùng cao, vùng xa đặc
biệt khó khăn là quá trình phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những người
công tác tại cơ sở xã, thôn bản thuộc khu vực này, hoặc có thể là học sinh, sinh
viên, để giúp họ có đủ các điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở”. Khái niệm cho
thấy: đối tượng tạo nguồn là người đang công tác tại chỗ, hoặc học sinh, sinh viên;
nội dung tạo nguồn là phát hiện, quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đối tượng; mục
tiêu tạo nguồn là giúp đối tượng có đủ điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở. Có thể
đánh giá: với mục tiêu nói trên, thì nội dung tạo nguồn mà tác giả đề cập chưa thể
đáp ứng, bởi sau khi phát hiện và quy hoạch, chỉ bằng công tác đào tạo, bồi dưỡng
thì sẽ không đủ để chuẩn hóa nguồn theo tiêu chuẩn cán bộ cơ sở.
Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng “Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” (2010) của Trần Hoàng Khải đưa ra được một số
quan niệm mới về nguồn và tạo nguồn cán bộ. Tác giả phân biệt 4 loại nguồn:
Nguồn kế cận (đã được quy hoạch, đang trực tiếp tham mưu, giúp việc cho cán bộ
đương chức giữ chức danh mình được quy hoạch và sẵn sàng cho việc thay thế
ngay chức danh đó khi có nhu cầu sử dụng cán bộ). Nguồn dự bị dài hạn (là những
CB, CC đã được quy hoạch và đang trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng). Nguồn cán
bộ hoạt động thực tiễn (trong phong trào quần chúng) và Nguồn học sinh, sinh viên
(trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ
thông). Từ quan niệm về nguồn nói trên, tác giả cho rằng “Tạo nguồn là hoạt động
tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể để hình thành nguồn”; “Tạo nguồn cán
11
bộ lãnh đạo, quản lý là tổng thể những chủ trương, biện pháp, cách thức của hệ
thống chính trị, các tổ chức, các lực lượng và toàn thể xã hội mà trực tiếp là tổ chức
đảng các cấp trong việc chuẩn bị nguồn cán bộ có số lượng dồi dào, cơ cấu phù hợp
và có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị sẵn sàng thay thế vào các chức
danh lãnh đạo, quản lý”. Nội dung tạo nguồn bao gồm: phát hiện, lựa chọn đối
tượng; đánh giá đối tượng; quy hoạch nguồn; đào tạo, bồi dưỡng; quản lý; bố trí, sử
dụng nguồn. Đây là những nghiên cứu khung bước đầu, có nhiều nội dung đã được
làm rõ. Tác giả bám sát các khâu của công tác cán bộ nói chung để xây dựng nội
dung tạo nguồn. Tuy nhiên còn những khoảng trống trong các khâu đó. Ví dụ, việc
xây dựng tiêu chuẩn nguồn (cơ cấu đội ngũ, phẩm chất cá nhân) để định hình mục
tiêu tạo nguồn; hay xây dựng môi trường (phong trào hành động cách mạng, cơ chế
chính sách…) để phát hiện, thu hút và thử thách, rèn luyện nguồn v.v khá quan
trọng nhưng chưa được đề cập trong phần lý luận chung về tạo nguồn cán bộ. Trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu nói trên, Luận án sẽ tiếp tục khảo sát thực tiễn ở Tây
Nguyên và khảo cứu quan điểm của Đảng qua các giai đoạn lịch sử để xác định đầy
đủ hơn các nội dung tạo nguồn cán bộ.
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cán bộ cấp xã, cán bộ dân tộc
thiểu số và tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số
Xây dựng đội ngũ cán bộ của HTCT cấp xã là đối tượng nghiên cứu được
nhiều nhà khoa học quan tâm, không chỉ bởi vai trò của HTCT cấp cơ sở, mà
còn liên quan đến vai trò và thực tế việc xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ cán
bộ cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt ở đây. Nhiều sách, đề tài, luận án, luận văn, bài
viết đã phân tích sâu sắc, trên từng góc độ tiếp cận thực trạng của HTCT cấp cơ
sở, nhất là ở vùng nông thôn miền núi, vùng DTTS, với những khó khăn, vướng
mắc về điều kiện kinh tế - xã hội, về đội ngũ CB, CC, với nhiều nguyên nhân
khách quan, chủ quan, trong đó có 2 yếu tố quan trọng nhất: con người và cơ chế
- những điều kiện đảm bảo cho HTCT vững mạnh. Tiêu biểu như: sách: “Hệ
thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội vùng nông thôn miền
núi, vùng DTTS” của Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà
12
Nội, 2000); sách: “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” của
Hoàng Chí Bảo (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005); sách “Hệ thống chính trị
cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới” của Bộ Nội vụ - Viện nghiên cứu
khoa học tổ chức nhà nước (Nxb CTQG, Hà Nội, 2004); đề tài khoa học cấp Bộ
2007 “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX)”
của ThS Nguyễn Thế Vịnh; luận văn thạc sĩ “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức xã trước yêu cầu đổi mới” (2003) của Lê Thị Lý v.v kết quả nghiên cứu
của các công trình trên có thể giúp cho Luận án định hướng rõ yêu cầu công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ luôn gắn với trách nhiệm của cấp ủy đảng các cấp, vai
trò chủ động tham mưu và tổ chức thực hiện chủ trương của cấp ủy của các cơ
quan, tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong HTCT.
Cán bộ người DTTS là nhóm đối tượng đặc biệt quan trọng của công tác
cán bộ vùng miền núi, dân tộc. Nghiên cứu của Đàm Thị Uyên trong sách “Chính
sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ XI - XIX)” (Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998) cho thấy đã có nhiều chính sách, biện pháp cai trị
đặc biệt của các triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử đối với các DTTS
vùng miền núi. Từ thời Lý (thế kỷ XI), chính sách “nhu viễn” (mềm dẻo với
phương xa) được ban hành, sau này vẫn là quốc sách hàng đầu, phổ biến và lâu
dài của các vương triều phong kiến. “Nhu viễn” xây dựng mối quan hệ đặc biệt
giữa nhà nước trung ương (phong kiến tập quyền) với cộng đồng các tù trưởng
(người có uy tín, thế lực, đang điều hành, quản lý các tộc người bằng tự trị, theo
luật tục) thông qua việc ban phẩm tước cho tù trưởng; phân phong một số hoàng
thân, quan lại lên trấn giữ vùng biên; đặc biệt là câu thúc, lôi kéo bằng quan hệ
thân tộc (qua hôn nhân) giữa các tù trưởng với công chúa, cung phi của triều đình.
Song song với “nhu viễn”, các nhà nước còn kiên quyết dùng chính sách “cương
bạo lực” lúc cần thiết để trừng trị những kẻ gây mất đoàn kết các dân tộc, chống
lại triều đình và cắt đất cho ngoại bang. Chính sách nhu, cương hợp lý có ý nghĩa
tích cực trong củng cố quốc gia thống nhất, đẩy lùi các thế lực cát cứ, xâm lấn và
giữ gìn được an ninh biên giới. Đó là kinh nghiệm lịch sử để luận án, trong quá
13
trình đề xuất giải pháp tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên chú ý
đến những chính sách đối với người DTTS: phải trên cơ sở tình thân (không kỳ thị
dân tộc); phải hướng đến đối tượng tạo nguồn là những người có uy tín trong cộng
đồng; phải tăng cường sức mạnh cho đội ngũ này bằng việc điều động, luân
chuyển cán bộ nơi khác về; đồng thời cương quyết sàng lọc nguồn trong quá trình
tạo nguồn trên cơ sở tiêu chuẩn CB, CC do pháp luật quy định.
Sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” (2005) của TS Lê Thị
Phương Thảo, PGS, TS Nguyễn Cúc, TS Doãn Hùng đồng chủ biên (Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội) là tập hợp kết quả nghiên cứu của 34 nhà khoa học, tập trung
vào những vấn đề: lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cùng một số các yếu tố tác động
về tâm lý, văn hóa tộc người liên quan đến vấn đề dân tộc, cán bộ DTTS, công tác
cán bộ DTTS; thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS nói chung
và trên một số lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nhiều giải pháp đổi mới công tác cán
bộ DTTS được đề xuất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, thể hiện trong
các chuyên đề: Quy hoạch cán bộ DTTS trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (của
TS Ngô Kim Ngân); Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng (của TS Nguyễn Hữu
Ngà); Phát huy vai trò của HTCT trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
DTTS (của TS Nguyễn Văn Sáu); Đổi mới chính sách ưu tiên đại học, cao đẳng
đối với con em đồng bào DTTS (của PGS, TS Ngô Kim Khôi); Đổi mới cơ cấu
đầu tư theo hướng tạo cơ hội phát huy năng lực nội sinh của đồng bào các DTTS
(của TS Hoàng Văn Hiện). Các kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần làm sâu sắc
thêm những luận giải trong chương 1 và chương 3 của Luận án.
Sách “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay” của Lô Quốc Toản (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010) đưa ra định nghĩa khái niệm Nguồn cán bộ DTTS “là những người có
nguồn gốc xuất thân từ các DTTS, được tuyển chọn, được đào tạo, bồi dưỡng,
được rèn luyện, thử thách để bố trí, sắp xếp vào các cương vị công tác trong bộ
14
máy của hệ thống chính trị”. Tác giả phân biệt tiêu chuẩn nguồn cán bộ nói
chung so với nguồn cán bộ DTTS chỉ khác ở chỗ thành phần dân tộc xuất thân
(DTTS không phải là dân tộc Kinh), còn các tiêu chuẩn khác thì giống nhau.
Điều này theo chúng tôi là chưa phù hợp, bởi trong thực tế điều kiện phát triển
của đồng bào DTTS vùng miền núi chưa cho phép. Khi quan niệm Phát triển
nguồn cán bộ DTTS là “phát triển những con người ở các DTTS, tạo điều kiện
thuận lợi để họ trở thành cán bộ” và “phát triển về năng lực và trình độ công tác
của đội ngũ cán bộ DTTS”, là tác giả đã phân biệt 2 nhóm nguồn khác nhau:
người DTTS chưa là cán bộ và cán bộ người DTTS. Điều này đồng nhất với
nhiều tác giả trong quan niệm về nguồn cán bộ, và cho thấy phát triển nguồn
nằm trong nội hàm khái niệm tạo nguồn, nhưng chỉ là một khâu của tạo nguồn. Ở
mục đánh giá về công tác phát triển nguồn, tác giả đề cập đến 3 việc cụ thể: khôi
phục và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú; thực hiện chế độ cử
tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp; đào tạo cán bộ nguồn quy
hoạch lãnh đạo, quản lý càng thể hiện rõ quan niệm phát triển nguồn theo tác giả
thực chất chỉ là nội dung đào tạo, bồi dưỡng nguồn. Tuy vậy, xét trên khía cạnh
này, thì đây là những gợi ý quan trọng để Luận án tiếp tục triển khai nội dung đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS.
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến Tây Nguyên, các dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên và tạo nguồn cán bộ ở Tây Nguyên
Tây Nguyên và các DTTS ở Tây Nguyên từ trước đến nay luôn hấp dẫn,
thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong nghiên cứu, khám phá những giá
trị về văn hóa, những đặc trưng về xã hội, những biến động về kinh tế, chính trị
Nhất là từ sau những biến động chính trị do các thế lực thù địch kích động đồng
bào DTTS tại chỗ chống phá chính quyền, phá hoại khối đoàn kết các dân tộc
năm 2001 và 2004, hàng loạt công trình khoa học được triển khai: sách “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên” (2005)
và sách “Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên” (2008)
của PGS, TS Trương Minh Dục (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); sách “Văn
15
hóa xã hội và con người Tây Nguyên” (2005) của GS Nguyễn Tấn Đắc (Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội); sách “Kinh tế - xã hội các tỉnh miền Trung, Tây
Nguyên những năm đầu thế kỷ XXI - Thực trạng và xu hướng phát triển” (2007)
của PGS,TS Phạm Hảo chủ biên (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội); sách “Một số
vấn đề về văn hóa - xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay” (2010)
của Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng, Đậu Tuấn Nam đồng chủ biên (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội) v.v Điểm chung của các công trình là phản ánh được điều
kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tây Nguyên, sự tác động
của các yếu tố dân tộc, tôn giáo, sự chống phá của các thế lực thù địch cùng
những giải pháp có tính đồng bộ về tận dụng lợi thế, tiềm năng, về xây dựng
HTCT cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS, về phát huy bản sắc văn hóa các
dân tộc để tiếp tục xây dựng Tây Nguyên ngày càng ổn định và phát triển.
Cùng với các công trình trên, tác giả Bùi Minh Đạo (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội) trong sách “Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền
vững vùng Tây Nguyên” (2010) đề cập đến nhiều đặc trưng văn hóa, xã hội, con
người Tây Nguyên hình thành từ những tác động của điều kiện tự nhiên - xã hội.
Trong đó, có một yếu tố quan trọng được nhiều tác giả lưu ý, đó là hình thái tổ
chức xã hội cổ truyền “làng” (plei, plơi, buôn, bon) - đơn vị tự quản, cư trú độc
lập và duy nhất, có chung quy tắc ứng xử lệ tục. Mỗi làng là một thể chế kinh tế,
văn hóa, xã hội và một không gian sinh tồn tự nhiên khép kín. Đồng bào DTTS
sống trong làng, chịu sự quy định của lệ tục làng, và nhân cách con người cũng
từ đó mà được hình thành. Tuy nhiên hiện nay, làng của các DTTS Tây Nguyên
không còn là thực thể đơn nhất, mà bao trùm lên nó là hệ thống thể chế chính trị
của Nhà nước. Vì vậy buôn làng trở thành “cánh tay nối dài” của chính quyền xã
đến các hộ gia đình. Đặc trưng xã hội này là điểm cần chú ý để Luận án xác định
những yếu tố tác động (cả tích cực lẫn tiêu cực) đối với mỗi con người thuộc
cộng đồng các DTTS Tây Nguyên.
Tạo nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS ở Tây Nguyên vừa là đối
tượng, vừa là mục tiêu của nhiều công trình nghiên cứu.
16
Luận án tiến sĩ "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các
cấp ở Tây Nguyên hiện nay" (2000) của Nguyễn Mậu Dựng đề cập đến vai trò của
việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, trong đó có cán bộ DTTS ở Tây Nguyên là
việc làm thường xuyên và cấp bách, quyết định sự ổn định và phát triển của HTCT
nơi đây. Bài viết “Đặc điểm tâm lý, văn hóa các dân tộc thiểu số khu vực Tây
Nguyên ảnh hưởng tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hiện nay” của
TS Nguyễn Hồng Sơn (trong Sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước
ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp”
(2005) của TS Lê Thị Phương Thảo, PGS,TS Nguyễn Cúc, TS Doãn Hùng đồng chủ
biên) cho rằng đặc điểm tâm lý - văn hóa của người DTTS Tây Nguyên là sự đan xen
giữa yếu tố tích cực lẫn tiêu cực, tiến bộ lẫn lạc hậu: giữa thụ động và phóng khoáng;
giữa tư duy trực quan và ý tưởng thẩm mỹ bay bổng; chịu thương chịu khó nhưng ít
thích làm giàu; tôn vinh trưởng thôn, già làng hơn thích làm quan; thích tự quản hơn
lãnh đạo; thích cái cộng đồng hơn cái tôi tự do; thích nghệ thuật hơn làm kinh tế. Bên
cạnh cái bao dung, thật thà, dũng cảm, cần mẫn, biết sống chấp nhận quá khứ, trọng
người già, phụ nữ, trọng đức, giản dị thì trong quá trình biến đổi tâm lý - văn hóa,
trong một bộ phận cán bộ và nhân dân đã xuất hiện tính tự ti dân tộc, tính “tự trị”,
“bài Kinh”, nhẹ dạ cả tin, dễ bị lôi kéo, kích động thù hằn Đây là những tổng kết
mang tính thực tế, thực tiễn sâu sắc, cần thiết cho Luận án khi bàn về đặc điểm nguồn
CB, CC người DTTS và những vấn đề đặt ra trong quá trình lựa chọn, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng giáo dục nguồn CB, CC người DTTS ở Tây Nguyên.
Thực trạng và giải pháp tạo nguồn cán bộ cấp xã người DTTS ở Tây
Nguyên được nhiều tác giả bài báo khoa học, nhiều tham luận tại các Hội thảo
của khu vực quan tâm.
Đối với cán bộ cấp xã người DTTS ở Tây Nguyên nói chung có các công
trình tiêu biểu:
Hội thảo “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở
Tây nguyên” do Đại học Đà Nẵng tổ chức năm 2009 tập hợp được khá nhiều thông
tin về thực trạng nguồn nhân lực DTTS, những tìm tòi, nỗ lực trong công tác giáo
17
dục nâng cao trình độ, năng lực cho người lao động DTTS, cùng những đề xuất trên
nhiều khía cạnh để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao người DTTS ở Tây
Nguyên. Tiêu biểu có các tham luận: “Một số vấn đề về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cán bộ là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” của Nguyễn Bạn; "Đề
xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho người dân
tộc thiểu số" của Blong Tiến; “Cách thức đào tạo đại học cho người dân tộc thông
qua hình thức hệ cử tuyển" của TS Đoàn Gia Dũng; “Cần đổi mới phương pháp
giảng dạy đối với sinh viên các dân tộc thiểu số” của Thái Thị Bích Vân.
Trong bài viết “Thực trạng và giải pháp để xây dựng cán bộ dân tộc thiểu số
tại chỗ cấp xã ở các tỉnh Tây Nguyên” (Tạp chí Dân tộc, số 3-2009), TS Nguyễn
Thị Tâm đề xuất giải pháp chủ động tạo nguồn cán bộ để phục vụ cả trước mắt và
lâu dài, trong đó nhấn mạnh: Quy hoạch cán bộ cần chú ý cơ cấu nhưng phải đảm
bảo tiêu chuẩn và “mở” để có thể thay đổi theo tình hình cụ thể. Chú trọng chất lượng
phát triển đảng viên, giáo dục và thử thách quần chúng qua phong trào thực tiễn, qua
quan hệ với dân; chú ý phát hiện và loại bỏ phần tử cơ hội. Trong đào tạo, nghiên cứu
mô hình trường nội trú dân tộc cấp I cụm xã; đánh giá lại hiệu quả của chế độ cử
tuyển đại học. Thành lập trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số trong
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các Học viện khu vực. Giải quyết
những bất cập giữa đào tạo và sử dụng, quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ.
Bài viết: “Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng
Tây Nguyên” của Nguyễn Văn Quý, Bộ Nội Vụ (Webside của Sở Nội vụ Đắk
Lắk, 7-3-2011) cho thấy từ khi có Quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 5-3-2003
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Một số giải pháp củng cố,
kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên" giai đoạn 2002-2010, HTCT cơ
sở ở Tây Nguyên được củng cố, tăng cường về nhiều mặt; năng lực, trình độ đội
ngũ cán bộ được nâng lên. Bên cạnh đó, vẫn còn một số khó khăn: tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhưng chưa ổn định; tỷ lệ hộ đói nghèo trong đồng bào DTTS
còn cao; trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung của cả nước; an ninh chính
trị vẫn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn; trình độ của đội ngũ CB, CC cơ sở được
18
nâng lên nhưng năng lực quản lý, điều hành, thuyết phục, tập hợp quần chúng
còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Vì vậy, trong
8 giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vững mạnh, tác giả đề cập đến
giải pháp quy hoạch tạo nguồn cán bộ và bảo đảm tỷ lệ cơ cấu cán bộ người
DTTS trong đội ngũ CB, CC cấp xã tương đương với tỷ lệ DTTS trong dân cư. Để
làm được điều đó phải: Tăng cường kinh phí hàng năm để đào tạo CB, CC là
người dân tộc, đồng thời bổ sung, hỗ trợ thêm trong việc cử tuyển đi đào tạo, bồi
dưỡng để nâng cao trình độ. Tăng cường chỉ tiêu cử tuyển trên cơ sở đề nghị có
địa chỉ theo nhu cầu của địa phương. Ưu tiên bố trí và sử dụng hết số học sinh,
sinh viên người dân tộc sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp về công tác lâu dài ở địa phương. Xây dựng, hoàn thiện chế
độ, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, có chính sách thu hút CB, CC có trình độ, có
năng lực hoạt động thực tiễn giảng dạy cho đội ngũ CB, CC người dân tộc. Củng
cố nâng cấp các trường dân tộc nội trú, các trung tâm giáo dục thường xuyên.
Sách “Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối
với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực
trạng và giải pháp” của GS,TS Nguyễn Đình Tấn và TS Trần Thị Bích Hằng
(Nxb Chính trị quốc gia, 2010) đưa ra nhiều số liệu điều tra xã hội học đối với 4
vùng có đông đồng bào DTTS ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền
Nam. Trong đó, tỷ lệ đồng bào DTTS ở Tây Nguyên có nhận thức, thái độ và
hành vi đối với chính sách dân tộc là thấp nhất, chưa tích cực nhất so với 3 vùng
còn lại. Các kiến nghị của tập thể tác giả như nâng cao tính tích cực trong nhận
thức, thái độ, hành vi của đồng bào DTTS; phát huy vai trò của cộng đồng,
người có uy tín; phối hợp trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể v.v là
gợi mở tích cực cho công tác tạo nguồn CB, CC người DTTS.
Công tác tạo nguồn cán bộ xã trên từng địa bàn Tây Nguyên có các công
trình sau:
Về Gia Lai, có bài viết “Gia Lai coi trọng đào tạo cán bộ nguồn là người
dân tộc thiểu số cho cơ sở” của Trần Ngọc Chi (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử,
19
9-9-2007) phản ánh chủ trương đào tạo cán bộ nguồn cho cơ sở của Tỉnh ủy qua
việc tuyển chọn và mở 4 khóa dự nguồn hệ trung cấp lý luận chính trị cho học
viên là người DTTS. Kinh nghiệm tác giả rút ra là phải gắn đào tạo với quy hoạch;
gắn đào tạo chính trị song song với chuyên môn; đảm bảo trình độ học vấn của học
viên thông qua phát huy trách nhiệm của cấp huyện trong động viên, khuyến khích
con em các dân tộc hoàn thành phổ thông trung học Bài viết “Gia Lai: Tuyển
chọn sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở công tác - Kết quả và kinh nghiệm” của
Trần Thiết (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 19-9-2011) phản ánh tình hình sau 2
năm thực hiện Đề án 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai về "tuyển chọn sinh
viên tốt nghiệp đại học bố trí về cơ sở công tác", bước đầu cho thấy mục tiêu của
công tác này (tăng cường người có trình độ về vùng khó khăn; rèn luyện, thử thách
cán bộ để đưa vào quy hoạch tạo nguồn) đang đúng hướng, nhưng để đạt mục tiêu
thì phải rút kinh nghiệm để bổ sung, điều chỉnh một số khâu, như: trước khi bố trí
sinh viên về xã cần bổ sung cho sinh viên kiến thức về chuyên môn, quản lý nhà
nước theo từng nhóm chức danh; xây dựng các văn bản pháp quy về chế độ ưu tiên
trong xét tuyển, chuẩn hóa chuyên môn theo chức danh được tuyển dụng hằng năm;
phân công cán bộ, đảng viên theo sát, giúp đỡ các sinh viên tiếp cận với thực tiễn,
nhanh chóng hòa nhập vào môi trường công tác mới.
Về Lâm Đồng, có bài “Tạo nguồn cán bộ xã ở Lâm Hà” của Viết Trọng
(Lâm Đồng online, 26-12-2010) khái quát lộ trình thực hiện chính sách đào tạo
cán bộ công chức cấp xã của huyện, hướng tới hoàn thiện qui trình đào tạo từ
đầu vào cho đến đầu ra, từ việc xác định nhu cầu đào tạo, tạo môi trường làm
việc, sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý, đánh giá CB, CC một cách khách
quan khoa học. Bài “7 năm thực hiện Quyết định 253/QĐ-TTg: Cán bộ cấp xã
đang từng bước “trẻ hóa” và “chuẩn hóa” của Đức Hưng (Lâm Đồng online, 11-
4-2012). Nói chung các bài viết đều đứng trên góc độ công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ để phản ánh kết quả tạo nguồn.
Về Đắk Nông, có bài “Kết quả và kinh nghiệm thực hiện công tác dân tộc
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” của Trần Thanh Long (bdt.daknong.gov.vn ngày
20
15-11-2012) phản ánh kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ vùng dân tộc theo
phương châm “chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” và phong
cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân”. Chú trọng phát huy vai trò
người có uy tín trong đồng bào để xây dựng HTCT ở cơ sở. Trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cơ sở vùng đồng bào DTTS, ngoài kiến thức lý luận chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ cần có thêm kiến thức về phong tục, tập quán, ngôn ngữ, tâm lý dân tộc. Nhà
nước cần có chính sách tạo nguồn đào tạo cán bộ DTTS thông qua các trường phổ
thông dân tộc nội trú của huyện và tỉnh. Ưu tiên cho cơ sở chỉ tiêu thu nhận sinh viên
DTTS đã qua đào tạo cao đẳng, đại học.
Về Kon Tum, có bài “Đảng bộ huyện Kon Plong đào tạo cán bộ dự nguồn
cơ sở” của Huỳnh Trung Kim (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 1-9-2006) phản
ánh một mô hình mới, một cách làm hay: các cơ quan, đơn vị của Huyện tiết
kiệm chi ngân sách thường xuyên để nhận đỡ đầu, nuôi dưỡng con em DTTS ở
các xã có trình độ học vấn từ lớp 8/12 trở lên và số cán bộ đương chức còn trẻ,
có trình độ học vấn lớp 9 trở lên, trong quy hoạch cán bộ dự nguồn của xã để đào
tạo theo hình thức vừa học văn hóa, vừa học lý luận chính trị vừa tập việc. Sau
đào tạo, các đối tượng được ưu tiên bố trí công tác, nhanh chóng góp phần đảm
bảo số lượng và chất lượng cán bộ cho cơ sở. Bài “Công tác đào tạo, bồi dưỡng
tạo nguồn cán bộ cơ sở tỉnh Kon Tum - Thực trạng và giải pháp” (Tham luận của
Sở Nội vụ Kon Tum tại Hội thảo “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là người
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” ngày 10-11-2009 do Phân hiệu Đại học Đà
Nẵng tại Kon Tum tổ chức) đề xuất: bên cạnh việc đẩy mạnh dạy bổ túc văn hóa
tại chỗ, cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng với các hình thức phù hợp với điều kiện
công tác của cán bộ cơ sở như: đào tạo tại chức tại địa phương, kết hợp với dạy
bổ túc văn hóa và lý luận chính trị để rút ngắn thời gian đào tạo và giảm chi phí;
đào tạo, bồi dưỡng phải gắn liền với qui hoạch, tạo nguồn cán bộ; chú ý chọn các
em tốt nghiệp phổ thông các trường dân tộc nội trú để đưa vào qui hoạch, tạo
nguồn tại chỗ, đồng thời phải thực hiện tốt việc bố trí sử dụng cán bộ sau đào tạo;
sớm khắc phục việc bố trí sử dụng không phù hợp với chuyên môn được đào tạo.