Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tín ngưỡng dân gian ở lễ hội chử đồng tử tiên dung và ảnh hưởng của nó đối với đời sống của người dân huyện khoái châu, tỉnh hưng yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.73 KB, 86 trang )

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

======

NGUYỄN THỊ LAN

TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN Ở LỄ HỘI
CHỬ ĐỒNG TỬ - TIÊN DUNG VÀ
ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
CỦA NGƢỜI DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU,
TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. HOÀNG THANH SƠN

HÀ NỘI – 2014

SV: Nguyễn Thị Lan

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2



LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Giáo
dục chính trị trường ĐHSP Hà Nội 2 đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến
thức cho em trong suốt thời gian học tập tại trường cũng như trong quá trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Th.S Hoàng Thanh Sơn người đã tận
tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã tạo điều
kiện để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Lan

SV: Nguyễn Thị Lan

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin khẳng định những kết quả nghiên cứu trong bài khóa luận của
mình hòan toàn không trùng lặp hoặc sao chép của người khác. Số liệu trong
bài khóa luận là hoàn toàn trung thực. Khóa luận này chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách

nhiệm .
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Lan

SV: Nguyễn Thị Lan

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
Ở LỄ HỘI CHỬ - TIÊN DUNG Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU
TỈNH HƯNG YÊN ......................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Tín ngưỡng dân gian .................................................................................. 7
1.2. Vài nét về quê hương Khoái Châu –Hưng Yên ....................................... 24
1.3. Truyền Thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung .............................................. 29
1.4. Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung ........................................................... 37
1.4.1. Phần lễ hội tại đền Đa Hòa.................................................................... 37
Chương 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI CHỬ ĐỒNG TỬ TIÊN DUNG ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU,
TỈNH HƯNG YÊN ......................................................................................... 47
2.1. Ảnh hưởng tích cực .................................................................................. 47
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực .................................................................................. 63
2.3.Phương hướng và giải pháp ...................................................................... 68

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 81

SV: Nguyễn Thị Lan

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt tinh thần ra đời và lưu
truyền trong nhân dân từ xa xưa. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử dựng
nước và giữ nước, tín ngưỡng dân gian đã đi vào mạch sống của từng cộng
đồng người, tạo lên những nét văn hóa của đậm đà bản sắc của mỗi dân tộc.
Cũng giống như tôn giáo, tín ngưỡng dân gian có mối quan hệ chặt chẽ với
đời sống con người. Ở các mức độ khác nhau, nó ảnh hưởng (tích cực hoặc
tiêu cực) đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa,
đạo đức, giáo dục,… trong đó có đời sống tinh thần của con người. Bởi vậy ở
mỗi địa phương, mỗi dân tộc cần có sự quan tâm, nghiên cứu, tìm tòi những
nét hay, nét đẹp trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian để duy trì và phát huy
những phong tục, tập quán tốt đẹp và ngăn chặn những mặt tiêu cực còn len
lỏi trong đời sống cộng đồng.
Là một tỉnh thuần nông nên mọi biểu hiện trong đời sống văn hóa
(trong đó có đời sống tâm linh) của người Hưng Yên từ trước đến nay mang
đậm bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt. Tín ngưỡng dân gian của
người Hưng Yên có những đặc điểm chung của cư dân đồng bằng Bắc bộ vừa

có những yếu tố đặc sắc riêng. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình
dân chủ hóa đời sống xã hội, các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo có xu hướng
phục hồi và phát triển. Sinh hoạt tín ngưỡng dân gian cũng trở nên sôi động
và thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Cùng với nó, các lễ hội dân gian
truyền thống đã trỗi dậy ở mọi miền quê, được phục hồi và tái tạo với một
sinh khí mới. Lễ hội là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
con người.
Ngay sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Nghị quyết 24 của
Bộ chính trị năm 1990 Về tăng cường công tác tôn giáo trong tinh hình mới

SV: Nguyễn Thị Lan

1

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đã xác định tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài và có ý nghĩa
quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành Trung ương khóa IX năm 2003 cũng nêu:
“Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những
người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng của
đồng bào có đạo…” [4, tr.52]. Đặc biệt, ngày 29 tháng 06 năm 2004, chủ tịch
nước Trần Đức Lương đã ký lệnh số 18/2004/L-CTN công bố Pháp lệnh tín
ngưỡng , tôn giáo được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày
18/06/2004. Tại khoản 1 điều 3 của pháp lệnh quy định: Hoạt động tín

ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh
những người có công với đất nước, với cộng đồng, thờ cúng thần thánh, biểu
tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác, tiêu
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. Trong đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI một số văn kiện quan trọng thể hiện quan
điểm của đảng ta trong lĩnh vực tôn giáo, đó là: “Tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo
quy dịnh của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại
đến lợi ích của tổ quốc và nhân dân”[ 5, tr. 15 ]
Tín ngưỡng dân gian luôn tác động hai mặt tới đời sống của nhân dân ở
tỉnh Hưng Yên. Mặt tích cực: nó góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa vật thể và phi vật thể, thúc đẩy sự phat triển tiến bộ của xã hội. Mặt
tiêu cực: nó dễ bị lợi dụng để phục vụ mưu lợi ích cá nhân, ảnh hưởng không
tốt đến sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Do đó phát huy ảnh
hưởng tích cực, loại bỏ ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng dân gian đối với
các lĩnh vực của đời sống xã hội là việc làm rất cần thiết cho sự bứt phá đi lên
của tỉnh nhà hiện nay.

SV: Nguyễn Thị Lan

2

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Từ những lý do trên đây, tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu vấn đề: Tín
ngưỡng dân gian ở lề hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung và ảnh hưởng của nó
đối với đời sống của người dân huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên hiện nay
làm đề tài của mình
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Về tín ngưỡng dân gian và ảnh hưởng của nó với đời sống xã hội cho
đến nay chưa có thật nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu. Trong cuốn sách, bài
viết đăng trên các báo, tạp chí hoặc các đề tài khoa học, luận án, luận văn
cũng có ít nhiều đề cập đến vấn đề này, song lại đi vào nghiên cứu khái niệm,
phân loại các loại hình tín ngưỡng của từng cộng đồng, từng dân tộc cụ thể.
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Những tác phẩm nghiên cứu về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng dân
gian nói chung của các dân tộc trên đất nước Việt Nam bao gồm: Toàn Ánh
(1991), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Quyển thượng nxb TP. Hồ Chí Minh;
Nguyễn Minh San (1998) Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb văn hóa
dân tộc, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (2001) Các hình thái tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Đức Lữ ( chủ biên)
(2005) Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam,Nxb tôn giáo, Hà
Nội; Vũ Thị Khánh Duyên (2001) Đặc điểm và vai trò của một số tín ngưỡng
dân gian ở Quảng Ninh, Luận văn tốt nghiệp hệ cao cấp lý luận chính trị học,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Tri Nguyên
(2002) Mối quan hệ giữa lễ hội và tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Luận văn
tốt nghiệp hệ cao cấp lý luận chính trị học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội…. Trong các tác phẩm trên, tác giả chủ yếu đi vào tìm hiểu,
phân biệt khái niệm tín ngưỡng dân gian với các khái niệm có liên quan như
tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán… đồng thời, tìm hiểu về nó với tư cách
là một thành tố của văn hóa dân gian, văn học dân tộc.

SV: Nguyễn Thị Lan


3

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Một số tác giả đã nghiên cứu các loại hình tín ngưỡng dân gian cụ thể
dưới những khía cạnh khác nhau như : Ngô Đức Thịnh (1996) Tín ngưỡng
thành hoàng làng, Nxb Khoa học Xã Hội ,Hà Nội ; Trần Thị An, Bùi Xuân
Mỹ , Phạm Minh Thảo (1997) Thành Hoàng Làng, Nxb Văn hóa thông tin Hà
Nội ; Vũ Ngọc Khánh, Mai Ngọc Phúc, Phạm Hồng Hà ( 2002) Nữ thần và
Thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội
Hiện trong huyện cũng có một số công trình nghiên cứu, như Đền Đa
Hòa - Đền Dạ Trạch và truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung của tác giả
Nguyễn Phúc Lai, Nxb Sở văn hóa- Thông tin Hưng Yên ( 2000 ), Chử Đồng
Tử ( in lần thứ 5 ) tác giả Nguyễn Minh San, Nguyễn Phương Thảo ( 2007 ),
Lễ hội Chử Đồng Tử- Tiên Dung ( 2007 ), Nguyễn Văn Ba ( 2008 ) Lễ hội
Đền Đa Hòa Và Hóa Dạ Trạch…
Những công trình trên đã nghiên cứu khá sâu ở một số khía cạnh về tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng dân gian nói riêng. Tuy nhiên,
nghiên cứu về ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian ở lề hội Chử Đồng Tử-Tiên
Dung đối với đời sống của người dân Hưng Yên còn ít được đề cập. Trên cơ
sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả của các thế hệ đi trước, kết hợp với
nghiên cữu tìm tòi, khảo sát của bản thân trong quá trình học tập, tôi quyết
định tìm hiểu, nghiên cứu về Ảnh hưởng tín ngưỡng dâng gian ở lễ hội Chử
Đồng Tử- Tiên Dung đối với đời sống của người dân Hưng Yên hiện nay
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là phân tích những đặc điểm và ảnh hưởng của
tín ngưỡng dân gian ở lễ hôi Chử Đồng Tử - Tiên Dung đối với đời sống của
người dân tỉnh Hưng Yên hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lễ hội, góp phần lành
mạnh đời sống của người dân

SV: Nguyễn Thị Lan

4

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của Lễ hội đến đời sống của người dân huyện
Khoái Châu tỉnh Hưng Yên
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu về đặc điểm và ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian
ở lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung đối với đời sống của người dân tỉnh Hưng
Yên hiện nay trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc khái quát các loại hình tín
ngưỡng dân gian ở Hưng Yên, đồng thời nhấn mạnh các nét đẹp văn hóa và
cách thức sinh hoạt của nhân dân ở lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung

Đề tài chủ yếu nghiên cứu sự tác động ảnh hưởng và các giải pháp nhằm
phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế tiêu cực của lề hội Chử Đồng Tử Tiên Dung đối với người dân huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên hiện nay
5. Cơ sở nghiên cứu và Phƣơng pháp để nghiên cứu đề tài
5.1 Cơ sở nghiên cứu
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và tín
ngưỡng và các công trình nghiên cứu khoa học về tín ngưỡng, tôn giáo và
những công trình nghiên cứu về Lễ hội Chử Đồng Tử- Tiên Dung
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp áp dụng cho đề tài : Lịch sử và lôgic, phương
pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê,
khái quát hóa, trừu tượng hóa và phương pháp phỏng vấn, điều tra
6. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận luận giải có hệ thống những vấn đề lí luận về tín ngưỡng
dân gian

SV: Nguyễn Thị Lan

5

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Khóa luận góp phần làm sáng tỏ những nết đặc trưng về tín ngưỡng
dân gian ở lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung, phân tích những ảnh hưởng của
nó đối với đời sống của người dân tỉnh Hưng Yên hiện nay


7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 2 chương và 7 tiết

SV: Nguyễn Thị Lan

6

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chƣơng 1: TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN Ở LỄ HỘI CHỬ - TIÊN DUNG
Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƢNG YÊN
1.1. Tín ngƣỡng dân gian
1.1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành tín ngƣỡng dân gian
1.1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín
Các hình thức khác nhau của tín ngưỡng, tôn giáo đã hình thành và tồn
tại cùng xã hội loài người hàng ngàn năm nay, song việc đưa ra một khái
niệm nhất quán về các khái niệm này cho đến nay vẫn chưa có cụ thể. Hiện
nay có nhiều quan điểm khác nhau khi sử dụng khái niệm “tín ngưỡng”, “tôn
giáo”.Có tác giả cho đây là hai vấn đề khác nhau, coi tín ngưỡng là sự phát
triển ở trình độ thấp so với tôn giáo, nhưng có tác giả lại đồng nhất chúng là
một và đều gọi chúng là tôn giáo. Trong phạm vi khóa luận này, tôi không có
tham vọng nghiên cứu sâu về mặt thuật ngữ, khái niệm, mà chỉ tìm hiểu khái
quát quan điểm của các nhà nghiên cứu xung quanh khái niệm tín ngưỡng, tôn

giáo trước khi đi vào khái niệm tín ngưỡng dân gian.
Trong Đại từ điển tiếng Việt, từ “tín ngưỡng” được hiểu là: “lòng tin và
sự tôn thờ một tôn giáo” [ 20, tr.1646]; còn “tôn giáo” có hai nghĩa: “1. Hình
thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần
linh. 2. Các đạo nói riêng như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hồi” [ 24,
tr.1668]. Tìm trong ngôn ngữ quốc tế, từ “tín ngưỡng” trong tiếng Anh là
“Belief”, trong tiếng Pháp là “La croyance”; từ “tôn giáo trong tiếng Anh là
“Religion”, và trong tiếng Pháp là “Réligieuse”.
Bàn về vấn đề này Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn cho rằng:
“Ở nước ta, thuật ngữ tín ngưỡng có thể được hiểu theo hai nghĩa. Khi nói đến
tự do tín ngưỡng, người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin noi chung
(belief, believe, croyance) hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance

SV: Nguyễn Thị Lan

7

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

religrieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo,
nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief, believe theo nghĩa hẹp croyance
religrieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành nên tôn
giáo [ 23, tr.76].
Theo tác giả Đào Văn Tập, Đào Duy Anh: tín ngưỡng là sự ngưỡng mộ,
lòng tin vào một tôn giáo hay một chủ nghĩa. Các tác giả Hà Văn Tăng,

Trương Thìn cũng có những quan điểm tương tự khi cho rằng: “ Tín ngưỡng
hiểu theo nguyên dịch nghĩa từ chữ croyance của tiếng Pháp thì chỉ có nghĩa
là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm
tin tôn giáo (croyance religrieuse)” [ 17, tr.50].
Trong từ điển Hán Việt: Tín ngưỡng: tín: tin, ngưỡng: ngưỡng mộ,
ngưỡng vọng. Tín ngưỡng là tin và ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một thực
thể siêu nhiên, thần bí, phi hiện thực. Tôn giáo: tôn (tông) nghĩa là dòng phái,
giáo nghĩa là đạo. Tôn giáo là một hình thức tổ chức mà đặc điểm là sự tin
tưởng vào những lực lượng siêu tự nhiên…và thực hiện những lễ nghi để tỏ
lòng sùng bái. Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ
là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc người ta những sức mạnh tự nhiên chi
phối đời sống hàng ngày của họ. Chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức
mạnh thế gian biến thành sức mạnh siêu thế gian” [ 13, tr.437]. Tôn giáo là
yếu tố thuộc hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo,
lệch lạc hiện thực khách quan.
Tín ngưỡng được hiểu là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng
thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc Việt Nam và
được coi là một thành tố của văn hóa dân gian (folklore). Đó là quan niệm của
các tác giả như Toàn Ánh, Phan Kế Bính,… tác giả Nguyễn Đức Lữ cho rằng
nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người

SV: Nguyễn Thị Lan

8

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

vào một lực lượng siêu nhiên nào đó – một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô
hình, trong đó có tín ngưỡng dân gian…” [ 11, tr.6]
Một số tác giả khác lại cho tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm
tin thiêng liêng), với ý nghĩa nó không phải là tôn giáo mà chỉ là khả năng dẫn
tới tôn giáo. Đó là niềm tin, sự trông cậy, yêu mến một thế lực siêu nhiên mà
với chi thức và kinh nghiệm của con người chưa đủ để giải thích và lí giải.
Tác giả Nguyễn Minh San nhận định:
“Theo chúng tôi, tín ngưỡng là một biểu hiện của ý thức về một hiện tượng
thiêng, một sức mạnh thiêng do con người tưởng tượng ra hoặc do con người
suy tôn, gán cho một hiện tượng, một sức mạnh chỉ cảm thụ được mà chưa
nhận thức được. Tín ngưỡng là môt sản phẩm văn hóa của con người được
hình thành tự phát trong mối quan hệ giữa con người với chính mình, với
người khác và với thế giới tự nhiên” [ 14, tr.7].
Trong các lý luận và thực tiễn, tín ngưỡng và tôn giáo luôn có sự đan xen,
hòa quện với nhau nên rất khó khăn cho việc xác định đâu là tín ngưỡng, đâu
là tôn giáo. Nhiều khi, cũng bởi sự phức tạp trong việc phân tách hai khái
niệm này mà người ta đành gọi chung chúng bằng một cụm từ ghép: tín
ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau nhưng lại có mối
quan hệ mật thiết với nhau, đan xen vào nhau. Ranh giới để phân biệt chúng
chỉ mang tính chất tương đối. Khái niệm tín ngưỡng (theo nghĩa rộng) có nội
hàm rộng hơn khái niệm tôn giáo (trong tín ngưỡng có tôn giáo). Mỗi tôn giáo
có thể chỉ là một hình thức (loại hình) tín ngưỡng cụ thể. Tác giả Ngô Đức
Thịnh đã lập bảng phân biệt về sự khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo [ 19,
tr.18]
Sự phân biệt như trên cũng gần với quan niệm của tác giả Nguyễn
Minh San:

SV: Nguyễn Thị Lan


9

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

“Trước hết chúng tôi cho rằng, tín ngưỡng và tôn giáo không phai là một như
một số người đã nhận xét mà là hai khái niệm. Tín ngưỡng là hiện tượng có
trước, là nền tảng để từ đó hình thành một tôn giáo khi nó phát triển lên đáp
ứng một yêu cầu nhất định. Hay nói cách khác, tôn giáo là sự phát triển của
một tín ngưỡng, được một cộng đồng người thể chế, quy phạm hoá cao độ
như : Tôn sùng một vị chủ; có hệ thống giáo điều, giáo lý, hệ thống nghi lễ và
thế chế thờ tự theo những luật lệ nghiêm chỉnh : có tổ chức tôn giáo ( giáo
hội ) chức sắc và các tín đồ…” [ 13, tr. 17 ]
Tôn giáo dựa trên niềm tin, tín ngưỡng cũng dựa trên căn bản niềm tin ,
vậy lấy cái gì để làm tiêu chí để phân định sự khác nhau giữa chúng? Có lẽ ,
chúng ta chỉ có thể căn cứ vào việc niềm tin ở tôn giáo đã trở thành hệ thống
luận thuyết được dựa trên nền tảng triết học duy tâm. Còn niềm tin trong tín
ngưỡng là một đấng vô hình , không cần giáo chủ, không cần hệ thống giáo ý
như niềm tin tôn giáo . Bất cứ tôn giáo nào cũng có : Giáo chủ, giáo hội ,giáo
lý, giáo luật, lễ nghi …( Tín ngưỡng nói chung không nhất thiết – Trừ tín
ngưỡng được hiểu theo một tôn giáo cụ thể ), mặt khác, tín ngưỡng thuần túy
là một thói quen được chấp nhận không cần sự lí giải, còn tôn giáo ít nhiều
cần đến sự lí giải có tính lôgic. Đó là những dấu hiệu nhận biết, phân biệt tôn
giáo với tín ngưỡng. Riêng đối với đặc tính mở của nền văn hóa Việt Nam
truyền thống, người Việt Nam luôn quan niệm rằng tín ngưỡng, tôn giáo nào

cũng đều hướng con người vươn tới cái thiện, tránh xa cái ác, nên tín ngưỡng,
tôn giáo còn được gọi chung một thuật ngữ là “ Đạo ’’ ( đạo lý, đạo đức, đạo
làm người ). Vì vậy giữa tín ngưỡng và tôn giáo dường như có khoảng cách
rất hẹp. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh : “ Người dân An-nam… không có
cách nghĩ tôn giáo theo kiểu của Châu Âu [ 7, tr. 497 ]. Ý kiến này cũng trùng
với linh mục Léopold Cadiere chuyên nghiên cứu về tín ngưỡng Việt Nam

SV: Nguyễn Thị Lan

10

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

“ Nếu ta coi tôn giáo là một niềm tin vào một đấng tuyệt đối, đầy lớn lao
và hoàn hảo, là sự hợp nhất cả tấm lòng của bản thân với đáng tối cao hiện
diện ở khắp mọi nơi ; là sự hợp nhất lòng tất cả trái tim của đức chúa đầy lòng
bác ái, ngự trị và nắm vững tất cả cuối cùng vì lòng biết ơn về sự hoàn thiện
tột cùng, thể hiện ra bằng sự tôn sùng một cách xứng đáng với đáng tối cao
đó; thì ta phải nói người Việt Nam không có tôn giáo …” ( dẫn theo Đặng
Nghiêm Vạn ) [ 22, tr 204 ]
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định : “ Từ xa xưa ,tộc
Việt Nam không có tôn giaó theo nghĩa thông thường của nhiều nước
khác ”[ 6, tr. 75 ] . Do vậy, việc xác định đâu là tín ngưỡng, đâu là tôn giáo
cần được hiểu một cách hết sức linh hoạt
Mặc dù cũng có quan điểm khác nhau về khái niệm tín ngưỡng , tôn

giáo, chúng tôi thống nhất với quan điểm nêu trong Giáo trình chủ nghĩa xã
hội khoa học ( do hội đồng Trung Ương biên soạn ) “ Tín ngưỡng là niềm tin
là sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, một điều
gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo thường
được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan niệm, ý thức,
hành vi và có tổ chức tôn giáo” [ 9, tr. 449 ]
Tương tự như vậy, tín ngưỡng và mê tín dị đoan cũng có một ranh giới
khá mơ hồ và khó xác định.Từ điển tiếng việt định nghĩa : Mê tín : 1. Tin một
cách mù quáng vào những điều huyền bí, vào những chuyện thần thánh, ma
quỉ, số mệnh…; 2. Ưa chuộng một cách mù quáng không biết suy xét” [ 21, tr
976] . Còn dị đoan là gì ? theo nghĩa Hán – Việt : dị là khác thường còn đoan
là lắm mối, nhiều rắc rối, lắm vấn đề. Dị đoan là những điều quái lạ là hệ quả
của mê tín, là những điều không thật, không hợp lẽ phải. Dị đoan là mức độ
cao hơn mê tín. Cũng có thể từ mê tín dị đan dẫn đén hiện tượng tôn giáo mới,
tôn giáo lạ, tà giáo, tà đạo. Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào lực

SV: Nguyễn Thị Lan

11

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, cuồng tín với những hành vi cực
đoan thái quá, phi nhân tính phản văn hóa. Mê tín thường gây ra hậu quả tiêu
cực đến đời sống xã hội. Hiện tượng mê tín dị đoan thường trà trộn với các

sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo
Trong các văn hóa của Đảng ta cũng nêu mê tín dị đoan là tin một cách mù
quáng, mê muội vào những điều mơ hồ dẫn đến hành vi gây hậu quả tiêu cực
đối với sức khỏe, thời gian, tài sản, tính mạng cho cá nhân, gia đình, xã hội và
cộng đồng. Nó được coi là một trong những tệ nạn xã hội bị pháp luật nghiêm
cấm, cần phải phòng chống và loại bỏ.
* Khái niệm “ tín ngưỡng dân gian ’’
Đây còn là khái niệm còn đang có nhiều tranh luận, chưa thống nhất.
Cho đến nay, chúng ta chưa tìm thấy một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về
khái niệm này. Cũng chính từ sự chưa ngã ngữ về ngữ nghĩa của hai khái
niệm tín ngưỡng, tôn giáo nên việc tìm hiểu những thuật ngữ có liên quan
như : tôn giáo, nguyên thủy, tôn giáo sơ khai, tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng
dân dã …tất yếu sẽ không tránh khỏi lúng túng, sơ khai là một. Bởi lẽ, chúng
đều là những hình thức thờ cúng ban đầu của con người, chưa trở thành tôn
giáo với những thiết chế cụ thể
Nếu nhìn từ góc văn hóa, tín ngưỡng dân gian được coi là một hình
thức văn hóa tâm linh,là một thành tố cấu thành văn hóa . Như vậy,tín ngưỡng
dân gian cũng được xem như là một thành tố văn hóa dân gian. Đây là quan
điểm của Phan Kế Bình, Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng và nhiều tác giả
khác. Từ quan niệm đó, tín ngưỡng dân gian được hiếu như một loại văn hóa
được ra đời từ sự sáng tạo của nhân dân, thì tín ngưỡng dân gian cũng có thể
xem như là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do nhân dân sáng tạo ra trước hết là
những người lao động sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lệch
dưới dạng kinh nghiệm, cảm tính từ cuộc sống hằng ngày. Tín ngưỡng dân

SV: Nguyễn Thị Lan

12

Lớp: K36 GDCD - GDQP



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và cả cộng đồng
là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ thờ cúng gắn liền với phong
tục tập quán, truyền thống. Đó cũng là đặc điểm cơ bản để phân biệt sự khác
nhau giữa tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo. Tác giả Hồ Bá Thâm
cũng nhất trí với cách gọi tín ngưỡng dân gian và cho đấy là một lĩnh vực
quan trọng trong đời sống tâm linh, rất cần đến sự quan tâm của toàn xã hội ”
[17, tr .9]. Những quan điểm trên tuy có vẻ trái ngược nhau nhưng đều chứa
đựng những yếu tố hợp lý nhất định.
Tác giả Nguyễn Minh San gọi tín ngưỡng dân gian là “ tín ngưỡng dân
dã ” có ý khẳng định về tính nguyên thủy, tính phổ biến, tính quần chúng của
nó.Tín ngưỡng dân dã bắt nguồn từ niềm tính sơ khai, ngây thơ, chất phác của
cư dân nông nghiệp, được lưu truyền từ đời này qua đời khác trong dân gian
[13, tr. 9]
Ngược lại, một số tác giả khác lại không tán thành với cách gọi tín
ngưỡng dân gian. GS Đặng Nghiêm Vạn cho rằng :” Thuật ngữ tín ngưỡng
udân gian cần được bàn lại ” [23,tr. 23]. Tác giả Nguyễn Đăng Duy cũng
đồng ý với ý kiến này và cho rằng : “ … không nên gọi tín ngưỡng dân gian
hay tín ngưỡng dân dã … cần phải đính chính lại …” [ 3, tr. 25 ]. Bởi lẽ theo
tác giả, đã có khái niệm tín ngưỡng dân gian thì phải có khái niệm tín ngưỡng
bác học, cũng giống như đã có khái niệm văn học nghệ thuật dân gian và khái
niệm văn học nghệ thuật bác học. Nếu không thể phân chia như vậy đối với
tín ngưỡng thì chỉ có tín ngưỡng nói chung của cộng đồng người, không có
cái gọi là tín ngưỡng dân gian….
Tóm lại tín ngưỡng dân gian là một thành tố của văn hóa dân gian được

hình thành và phát triển dựa trên cơ sở sản xuất tự nhiên, do chính người dân
– trước hết là người dân lao động tạo ra. Nó phản ánh đời sống tinh thần
phong phú cuả người Việt. Nó được lưu truyền từ đời này sang đời khác trong

SV: Nguyễn Thị Lan

13

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

dân gian qua nhiều thế hệ. Nó phản ánh những ước nguyện tâm linh của con
người và cả cộng đồng, là niềm tin vào thần thánh thông qua nghi thức thờ
cúng gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống.
1.1.1.2. Lịch sử hình thành tín ngưỡng dân gian
Cũng như nhiều dân tộc khác, ngay từ thời cổ đại, người Việt (dân tộc
Kinh ) ở Việt Nam đã sáng tạo và thực hành rất nhiều loại tín ngưỡng trong
tiến trình lịch sử của mình. Vì vậy, diện mạo tín ngưỡng của họ là tín ngưỡng
đa thần, dựa trên quan niệm “ Vạn vật hữu linh ”. Tín ngưỡng dân gian ra đời
và tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam
Về thời gian hình thành tín ngưỡng dân gian của người Việt, cho đến nay,
chưa có tài liệu nào khẳng định một cách chính xác. Tuy nhiên có thể thấy
rằng những mầm móng của tín ngưỡn thờ cúng tổ tiên trước khi Phật giáo du
nhập vào nước ta. Ví dụ như tín ngưỡng thờ Vua Hùng, thờ tổ tiên người Việt
có khoảng từ thế kí thứ VII đến khi thế thế kỉ III Trước công nguyên ( TCN),

mà Phật giáo là tôn giáo ngoại lai vào Việt Nam sớm nhất cũng phải đến thế
kỉ II TC.Trong cuốn “ Hỏi đáp về văn hóa Việt Nam ” cũng nêu : “ Đạo phật
vào nước ta từ rất sớm, sách Thuy Kinh Chú ( đời đường – Trung Quốc) có
ghi vào thế kỉ III TCN, vua Asoka đã dựng một ngôi tháp Phật ở núi Nê Lê
( Đồ Sơn – Hải Phòng )”. Lại có sách ghi rằng “ Phật giáo về đại thừa truyền
vào nước ta khoảng thế kỉ II, thứ III ”[ 01 tr.225]. Hòa thượng Thích Thanh
Từ cũng khẳng định : “ Đạo Phật có mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng cuối
thế kỉ thứ II, đầu thế kỉ thứ III”. Và các tác giả khác đều nhất trí với quan
điểm Phật giáo được lưu truyền vào nước ta từ đầu công nguyên, thời Bắc
thuộc. Như vào Việt Nam thì trước đó đã có sự hình thành mầm mống tín
ngưỡng dân gian của người Việt – đây là điều không ai có thể phủ nhận

SV: Nguyễn Thị Lan

14

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, hầu hết
các tín ngưỡng của nhân dân không được chính quyền Phong kiến thừa nhận
và bị đặt ra bên lề xã hội. Nhiều tín ngưỡng bị coi là mê tín, dị đoan bị cấm
đoán vì cho rằng đó chẳng qua là dân ta do “ ngu muội mà thờ ”. Tầng lớp
Nho sĩ tri thức trong xã hội đương thời lúc bấy giờ cũng hầu như nghiên cứu
sâu sắc về các loại hình tín ngưỡng của Việt Nam và vì thế, sử sách không ghi
chép lại. Tuy nhiên, trên thực tế, đời sống của người nông dân ở các làng xóm

với những khuôn phép, luật lệ riêng ( Phép vua thua lệ làng ) vẫn tiềm tàng
những tín ngưỡng của họ. Đương nhiên, để bảo tồn tín ngưỡng của mình
nhân dân phải thực hành tín ngưỡng của mình một cách kín đáo, tế nhị. Tín
ngưỡng dân gian đã dấu mình xen vào những lễ nghi tới những hình thức thờ
cúng, vào các trò diễn trong các lễ hội và trong cả những mảng tranh khắc ở
kiến trúc thờ tự tôn nghiêm. Đặc biệt, trong bất kì lễ hội nào cũng tìm thấy sự
đan xen của nhiều loại tín ngưỡng khác nhau.
Giống như bất cứ dân tộc của nền văn minh nông nghiệp nào trên thế giới,
người Việt cũng sống rất hòa đồng, gắn bó với thiên nhiên bởi chính thiên
nhiên đem lại nguồn của của nuôi sống họ.Từ đó, tín ngưỡng thờ đất,
nước,cây cối, súc vật, sông, núi, biển, trời…. đã hình thành. Có thể thấy rằng,
mọi vật mà tạo hóa sinh ra trong vũ trụ bao la và huyền bí này đều được
người Việt thờ cúng. Đó là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Trong tín ngưỡng ấy,
người Việt có xu hướng nữ tính hóa các hiện tượng của tự nhiên, biến thành
các thần tự nhiên trở thành các nữ thần, gắn liền với chế độ mẫu hệ, tục thờ
Mẫu được hình thành.
1.1.2. Khái lƣợc các loại hình tín ngƣỡng dân gian tiêu biểu
Việc phân loại tín ngưỡng dân gian hiện nay đang còn nhiều ý kiến
khác nhau. Người thì phân loại theo các hình thức phát triển nối tiếp nhau của
tiến trình lịch sử, người lại phân theo đặc trưng địa lý và chủng tộc. Có người

SV: Nguyễn Thị Lan

15

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

phân loại theo khu vực văn hóa, hoặc phân theo nội dung tín ngưỡng và đối
tượng sùng bái hay theo hình thái của tôn giáo, tín ngưỡng…Mỗi cách phân
loại có nhừng yếu tố hợp lý nhất định. Thông qua nghiên cứu tài liệu của các
tác giả ở Việt Nam như Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh,
Nguyễn Đức Lữ và nhiều tác giả khác về phân loại tín ngưỡng dân gian trên
cơ sở hình thái học của các tín ngưỡng, tôn giáo.
Một là tín ngưỡng phồn thực
Hai là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Ba là tín ngưỡng sùng bái con người
Bốn là các loại hình tín ngưỡng khác
1.1.2.1. Tín ngƣỡng phồn thực
Tín ngưỡng phồn thực là loại tín ngưỡng có từ xa xưa trong lịch sử loại
người . Bản chất của tín ngưỡng phồn thực ( phồn :nhiều, thực : nảy nở )chính
là tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con
người. Đây là một hiện tượng tín ngưỡng – văn hóa tổng thể, mang đậm bản
sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa phương. Nó được hình thành trên cơ sở
tư duy trực quan, cảm tính của cư dân nông nghiệp trước sự sinh sôi để sinh
sôi nảy nở duy trì sự sống của con người, cây trồng và vật nuôi. Thời xa xưa,
để duy trì sự sống của con người cần phải có mùa màng tươi tốt và con người
được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều kiện trên, những trí tuệ sắc sảo đã
tìm hiểu các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được
triết lý âm – dương, những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực
– tôn thờ đực - cái. Theo Trần Ngọc Thêm “ Cơ sở văn hóa Việt Nam ” thì ở
nước ta, tín ngưỡng phồn thực tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử được thể
hiện ở hai dạng : thờ sinh thực khí ( sinh : đẻ, thực : nảy nở, khí : công cụ ) và
thờ hành vi giao phối. Người ta tìm thấy ở Văn Điển - Hà Nội và thung lũng
Sa Pa- Lào Cai những tượng đá hình nam nữ có bộ phận sinh dục phóng to có


SV: Nguyễn Thị Lan

16

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

niên đại hàng nghìn năm trước công nguyên. Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều
nơi khác có tục cúng nõ (nõn), nường ( nõ = cái nêm – tượng trưng cho sinh
thực khí nam còn “ nường ’’ tượng trung cho sinh thực khí nữ ), ở hội làng
Đồng Kỵ - Bắc Ninh có tục rước khí thực bằng gỗ, tan hội, chúng được đốt đi
và đem chia cho mọi người rắc ra ngoài ruộng. Ở Hà Tây, Phú Thọ , Bắc
Ninh trước đây vào ngày hội làng, người ta rước 18 bộ sinh dục khí và khi
đám rước kết thúc, mọi người tranh cướp nhau vì tin rằng nó sẽ đem lại may
mắm và lo đủ trong cả năm.
Việc thờ cúng sinh thực khí còn thể hiện ở việc thờ các cột đá, cột đá đó có
thể là tự nhiên hoặc do con người tạc ra, và các loại hốc cây, hốc đá, kẽ nứt
trên đá ở chùa Dạm – Bắc Ninh có một số cột đá hình sinh thực khí nam nổi
hinhg rồng – thời Lý.
Ở làng Đào Thịnh ( Yên Bái ) người ta còn tìm ra một nắp đồng ở khoảng
500 năm trước công nguyên, xung quanh mặt trời là hình tượng bốn đôi nam
nữ đang giao phối. Vào dịp hội Đền Hùng, ở vùng đất tổ lưu truyền điệu múa
“ tùng di ” thanh niên nam nữ múa từng đôi, cầm trong tay những vật biểu
tượng cho sinh thực khí của nam và nữ, cứ mỗi tiếng trống “ tùng ’’ thì họ lại
“ dí ’’ hai vật đó với nhau.
Ở lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung thì tín ngưỡng phồn thực được thể hiện

rõ nét ở hai vật hiện linh là cái nón và cây gậy, tượng trưng cho hai bộ phận
sinh khí của nam và nữ, hai vật linh này cứu sống được nhiều người dân có
hàm ý sinh sôi nảy nở, hiện nay trong đền vẫn thờ hai vật linh này.
1.1.2.2 . Tìn ngƣỡng sùng bái tự nhiên
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên bao gồm việc thờ cúng các hiện tượng tự
nhiên và thờ các động vật, thực vật trong tự nhiên. Do Việt Nam là nước nông
nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều dễ hiểu. Đặc biệt là nước ta là tín
ngưỡng đa thần và âm tính ( trọng tình cảm, trọng nữ giới ). Có giả thuyết cho

SV: Nguyễn Thị Lan

17

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

rằng đó là ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ thời xa xưa của Việt Nam. Các vị
thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực
( như đã nói ở trên ) nên các vị nữ thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp
như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là bà mẹ, các Mẫu.
Tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên là việc tôn thờ các vị thần cai
quản tự nhiên ( ban đầu là cá nữ thần cai quản vùng Trời, Đất, Nước – âm
tính – nữ trội của văn minh lúa nước; sau đó có thêm ông Trời do ý thức được
sự đối lập theo nguyên lý âm- dương ). Các vị thần, các Mẫu cai quản những
lĩnh vực quan trọng của xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn
hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công Hà Bá…Thần Mặt Trời

là thần quan trọng nhất của xã hội nông nghiệp, có mặt trên tất cả các trống
đồng. Sùng bái trời, vì trên trời thường xảy ra các hiện tượng tự nhiên bất
thường, bất ngờ chi phối việc sản xuất hàng ngày của nông dân. Tứ pháp là
danh từ để chỉ các nữ thần Mây –Mưa –Sấm - Chớp, đại diện các hiện tượng
tự nhiên có vai trò quan trọng trong sản xất nông nghiệp. Sau này, khi Phật
giáo vào Việt Nam thì nhóm nữ thần này được biến thành Tứ Pháp với truyền
thuyết về Man Nương Phật Mẫu. Tứ pháp gồm: Pháp Vân ( thần Mây ); Pháp
Vũ ( Thần Mưa ); Pháp Lôi ( Thần Sấm ); Pháp Điện ( Thần Chớp ).
Trong tín ngưỡng thờ động vật và thực vật khác hẳn với phương Tây thờ
các con vật có sức mạnh như hổ, sư tử, chim ưng …người Việt thờ các con
vật hiền lành như con trâu, cóc, rùa, chim, cá, ắn, cá sấu, cá chép… Các con
vật đó gần gũi với đặc điểm của xã hội nông nghiệp. Dân gian còn đẩy các
con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng.Theo truyền thuyết thì tổ
tiên người Việt thuộc họ “ Hồng Bàng ’’ ( có nghĩa là một loài chim nước
lớn ), thuộc giống “ Rồng Tiên ’’, con rồng có được đặc tính của lối tư duy
nông nghiệp : tổng hợp của cá sấu, rắn: sinh ra ở nước nhưng có thể bay lên
trời không cần cánh ; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa

SV: Nguyễn Thị Lan

18

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

danh của Việt Nam có tên liên quan tới rồng như thành Thăng Long, cầu

Hàm Rồng, bến cảng nhà Rồng, chợ Rồng … Tại đền Chử Đồng Tử - Tiên
Dung hình ảnh con rồng được khắc trên các mái, cổng đền, trên kiệu rước
thánh, trên bát hương, trên cột, bia đá….Nó còn phổ biến trên các sắc phong,
đạo dụ, tranh thờ, tượng thờ, đồ tế khí. Đối với các triều đại phong kiến, con
rồng là biểu tượng của sức mạnh, quyền lực tối thượng, do đó mà nhân dân
cũng tôn thờ con vật trừu tượng này.
Thực vật được tôn sùng là cây lúa nên có nơi thờ thần lúa, hồn lúa, mẹ
lúa …đôi khi ta còn thấy thờ thần cây đa, cây si, cây gạo “ thần cây đa, ma
cây gạo ’’. Trong Việt Nam văn hóa sử cương tác giả Đào Duy Anh viết
“ Người ta tin rằng … những cây đa, cây đề, cây si, cây thị, cây đại là những
cây hay có thần ở, người ta gọi là tinh ( mộc tinh) . Những cây tinh có khi
không phải là tự nhiên, mà là linh hồn của những người con gái chết phải giờ
thiêng, thường hay hiện hình để trọc nghẹo con trai ’’[1, tr.268] . Leopoid
Cadiere miêu tả kĩ hơn : “… một số cây khác chủ yếu là cây đa, cũng sùng bái
xem như nơi ở của ma quỷ, đặc biệt la ma nữ ; những con ma đáng sợ và hung
ác, chúng là linh hồn của các thiếu nữ, thiếu nữ chết trẻ khi chưa được làm
mẹ…Tuy vậy, cũng phải lưu ý rằng, thường là những cây có đặc thù tự
nhiên : to lớn, cổ thụ, hình dáng độc đáo … việc tin thần nhập trong cây là do
đặc thù của cây. Mối liên kết giữa cây và thần gắn bó ” [10, tr 275-276 ]
Tuy nhiên, mặc dù rất coi trọng cây lúa nhưng đối với tín ngưỡng của
người kinh, họ không đẩy nó lên thành thần để thờ cúng, không sử dụng các
hình thức phù thủy- sa man giáo để cúng hồn lúa như các dân tộc thiểu số. Họ
chỉ cầu mong các thánh thần phù hộ cho mưa thuận gió hòa để được mùa lúa,
mùa khoai, cuộc sống no đủ, không bị mất mùa hạn hán, lũ lụt, đói kém. Sùng
bái tự nhiên là quy luật tất yếu của con người trong quá trình sinh sống.

SV: Nguyễn Thị Lan

19


Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Về thần đá ( thạch thần ) “ người Việt thờ kính một số viên đá được ghi là
thạch thần . Trong trường hợp này hình như thần cũng nhập vào đá, tuy độc
lập nhưng gắn liền vào đá. Trên các viên đá mốc, người ta thường khắc chữ
“ bất cảm đương ’’ ( cấm động đến ). Mốc đá thường được đặt để làm giới
hạn một nơi bất khả di tích, người ta không được dời nó đi, không được đụng
đến. Sự việc là viên đá đã được chọn làm thần thì nó mang tính bất khả xâm
phạm, đặc tính khế ước ấy được xây dựng trên một quan điểm hoàn toàn tự
nhiên, do lợi ích con người phân định ranh giới tư hữu, nhưng sẽ rất bình
thường nếu người ta đặt nó dưới sự che chở của một hữu thể siêu nhiên, biến
thành nơi thần cư ngụ …” [ 10, tr.227 ]
1.1.2.3 . Tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời
* Hồn và vía
Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn .
Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm “ hồn và vía ”. Vía được hình
dung như phần trung gian giữa xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba
hồn, nam có ba vía và nữa có chín vía, ba hồn gồm : Tinh ( sự tinh anh trong
nhận thức ) Khí ( năng lượng làm cho cơ thể hoạt động ) và Thần ( thần thái
của sự sống ). Bảy vía mà đàn ông cai quản là hai tai, hai mắt và hai lỗ mũi,
miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản là bảy vía như ở nam giới cộng thêm hai
vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích, chúng có thể là núm vũ có chức
năng nuôi con. Tuy nhiên có cách gải thích khác ( xem thêm chín vía ) .
Người Việt thường có câu nói với con trai “ ba hồn báy vía ” còn nữ “ ba hồn
chín vía ’’cũng từ các quan niệm trên mà ra

Hồn và vía dùng thể xác để trú ngụ, trường hợp hôn mê ở mức độ khác
nhau được giải thích là vía và hồn đã lìa khỏi xác ở các mức độ khác nhau.
Nếu phần thân của hồn mà rời khỏi xác thì đã chết. Khi người chết, hồn nhẹ
hơn sẽ bay sang kiếp khác còn hồn nặng sẽ bay là là mặt đất rồi tiêu tan.Thế

SV: Nguyễn Thị Lan

20

Lớp: K36 GDCD - GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nên mới có câu ngạn ngữ như “ hồn siêu phách lạc” ( phách tức là vía, ở đây
múm nói trạng thái run sợ, mất chủ động ) sợ đến mức hồn vía lên mây …
Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, coi đó được tưởng
tượng có nhiều sông nước như cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền
nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.
* Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Đây là hiện tượng xã hội xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử. Người việt là
một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất. Nếu
như người phương Tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất.
Thờ cúng tổ tiên có hai loại :
Một là, thờ cúng tổ tiên theo cộng đồng làng, xã, đất nước ( Thờ Vua
Hùng, thờ Thành Hoàng làng, thờ tổ nghề, thờ các anh hùng dân tộc và những
người có công vơi làng, nước …)
Hai là, thờ cúng tổ tiên trong phạm vi gia đình : thờ cha mẹ, ông bà, cụ kị

đến ông tổ dòng họ huyết thống.
Nếu thờ cúng trong phạm vi làng, nước, người dân hàng năm đều thờ
Vua Hùng và cùng nhau hướng về ngày giỗ tổ Hùng Vương . Còn thờ cúng tổ
tiên trong phạm vi gia đình, mỗi gia đình cộng đồng người Việt đều có một
bàn thờ gia tiên, bàn thờ gia tiên được lập ở gia đình con trai trưởng. Gia đình
con trai thứ cũng có bàn thờ riêng nhưng thường lấy việc thờ Thổ công là chủ
đạo. Hàng năm, con cháu thường nhớ tới ngày kị của tổ tiên và làm cơm cúng
cầu mong cho tổ tiên mình được siêu thoát…
Đó chính là nét độc đáo trong tín ngưỡng dân gian người Việt nói chung.
Nét văn hóa và ảnh hưởng của các loại hình tín ngưỡng này vẫn trường tồn
theo chiều dài lịch sử của dân tộc. Cho đến ngày nay, việc nhớ tới gia tiên
dòng tộc là một việc làm có ý nghĩa hết sức lớn lao. Nói như Nguyễn Đình
Chiểu “ Thà đui mà giữ đạo nhà ; còn hơn sáng mắt cha ông không thờ ’’

SV: Nguyễn Thị Lan

21

Lớp: K36 GDCD - GDQP


×