Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.91 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu............................................................................................................2
Nội dung................................................................................................................3
Phần I: Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội..........3
I.1. Khái niệm ý thức xã hội và tồn tại xã hội:..............................................3
I.2. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội:..................................5
I.3. Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội....................7
I.4.Ảnh hưởng của ý thức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội đến xã
hội:.................................................................................................................8
Phần II: Liên hệ trong xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay........9
II.1. Thực trạng:.............................................................................................9
II.2. Giải pháp xây dựng:.............................................................................11
Kết luận...............................................................................................................14
Tài liệu tham khảo...............................................................................................15

1


Chủ đề 6. Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội.
Liên hệ trong xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay.

Lời mở đầu
Ở mọi thời đại thì triết học ln có một vai trị quan trọng trong cuộc
sống. Nó làm cho con người hiểu về thế giới; về vai trị, vị trí của con người
trong thế giới ấy. Ngày nay có nhiều vấn đề mà con người đề cập đến trong triết
học. Một trong số đó là mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, đặc biệt
ý thức xã hội có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì bản sắc
dân tộc lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta chỉ có thể lấy bản sắc dân
tộc để hoà nhập vào tổ chức lớn nhất toàn cầu này mà thơi. Tuy nhiên chúng ta
phải có cái nhìn đúng đắn giữa một bên là bản sắc dân tộc với một bên là phong


tục, tập quán lạc hậu kìm hãm sự phát triển một đất nước
Với chủ đề “Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội” nhằm nghiên cứu, tìm hiểu để có cái nhìn đúng đắn về nó từ đó đưa ra một
số giải phải nhằm xoá bỏ những tàn dư cũ, đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.

Nội dung
Phần I: Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội
I.1. Khái niệm ý thức xã hội và tồn tại xã hội:
I.1.1. Khái niệm và cấu trúc của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm cùng những tình
cảm, tâm trạng, truyền thống... về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học,
thẩm mỹ, tôn giáo và khoa học của một cộng đồng người, phản ánh tồn tại xã
hội của họ.
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có
thể tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác nhau.
2


Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao
gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tơn giáo, ý thức
thẩm mỹ.
Theo trình độ phản ánh, ý thức xã hội được chia thành ý thức thông
thường và ý thức lý luận.
Ý thức thơng thường là tồn bộ những tri thức, những quan niệm, v.v..
của những cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ
hoạt động thực tiễn hàng ngày của họ, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành lý luận.
Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm của một cộng đồng xã hội,

một giai cấp, tầng lớp xã hội đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các
học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy
luật. Nói khác đi ý thức lý luận phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng hệ thống lý
luận.
Ngồi những cách phân chia trên, người ta cịn phân chia ý thức xã hội
theo hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tồn
bộ những tình cảm, tâm trạng, tập qn, thói quen, v.v.. của con người, của một
bộ phận xã hội hoặc của tồn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác
động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ, phản ánh điều kiện sống,
cũng như bản thân đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh
sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi
lại những mặt bề ngồi của tồn tại xã hội. Nó khơng có khả năng vạch ra đầy
đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người. Những
quan niệm ở trình độ tâm lý xã hội cịn ở trình độ kinh nghiệm, những yếu tố trí
tuệ, tình cảm đan xen nhau. Tuy nhiên, tâm lý xã hội đóng vai trị quan trọng
trong đời sống thường ngày của con người. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai
cấp có điều kiện sinh sống riêng. Do vậy, tâm lý xã hội của con người trong xã
3


hội có giai cấp cũng mang tính giai cấp. Tâm lý xã hội cịn mang tính dân tộc.
Bởi lẽ, nó không chỉ phản ánh điều kiện sinh sống của từng cá nhân, của từng
giai cấp mà còn của cả dân tộc. Tính dân tộc trong tâm lý xã hội được hình
thành trong quá trình phát triển lâu dài của mỗi dân tộc. Do vậy, nó có ý nghĩa
rất đặc biệt trong tâm lý xã hội.
Hệ tư tưởng là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý
luận, thành các học thuyết về xã hội phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định
như hệ thống quan điểm triết học, chính trị, pháp luật, kinh tế, v.v..

Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trị chỉ đạo
thực tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng
được hình thành một cách tự giác. Có hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng
khơng khoa học. Trong xã hội có giai cấp thì hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
bao giờ cũng là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có quan hệ biện chứng. Tâm lý xã hội
và hệ tư tưởng đều có nguồn gốc chung là tồn tại xã hội, nhưng là hai cấp độ
khác nhau về chất trong trình độ phản ánh và là hai phương pháp phản ánh
khác nhau. Tâm lý xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách tự phát, trực tiếp.
Hệ tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội một cách tự giác cùng sự kế thừa những tư
tưởng trước đó. Tuy vậy, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng có quan hệ
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình tác động đến hoạt động thực tiễn
của con người. Tuy nhiên, hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã
hội. Hệ tư tưởng không phải là “sự cô đặc” của tâm lý xã hội. Do vậy, không
được coi nhẹ hay tuyệt đối hóa hoặc tâm lý xã hội hoặc hệ tư tưởng. Cần xác
định đúng vai trò của cả tâm lý xã hội, của cả hệ tư tưởng phù hợp với mỗi
trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
I.1.2. Khái niệm tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Những điều kiện đó là hoàn cảnh địa lý, dân số và phương tức
sản xuất vật chất của xã hội; trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
4


cơ bản nhất.
V.I.Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật
chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người với người đã cho rằng: việc anh
sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm,
anh trao tặng sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm
những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh

và ý thức này không bao giờ bao qt được tồn vẹn cái chuỗi đó
Các yếu tố chính tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất, điều
kiện tự nhiên- hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số… trong đó phương
thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
I.2. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội:
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ,hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau, chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã
hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ
tư tưởng của giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng(đặc biệt là tư tưởng
khoa học tiến bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động và phong
phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm.
Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng
thời cũng kế thừa những học thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn
tại trước đó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của
xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể
tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là khơng thể
tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của
một thời đại nào đó cũng sẽ khơng thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức
của thời đại ấy.
Những quan điểm trên đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng,
xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự
5


phát triển xã hơi và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở
kinh tế- xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những

tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn sẽ biến đổi theo.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải
dừng lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà
còn chỉ ra rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách đơn
giản trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư
tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và
trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì
chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này
hay cách khác trong các tư tưởng ấy
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
và ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái
lại cịn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tếxã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ
với tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hố vai trị của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường, hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã
hội trong đời sống xã hội. Ph.Ăngghen viết:” Sự phát triển của chính trị, pháp
luật, triết học, tơn giáo, văn học, nghệ thuật… đều dựa trên cơ sở sự phát triển
kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ
sở kinh tế”
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà
6


trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trị lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng;
vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã
hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.

I.3. Tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là cái phản ánh của tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội là cái
được phản ánh bởi ý thức xã hội. Do vậy, ý thức xã hội với tư cách là cái phản
ánh bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội - cái được phản ánh.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội có nhiều nguyên nhân
khác nhau:
Thứ nhất, do sức ỳ của tâm lý xã hội, nhất là của thói quen, phong tục,
tập quán, truyền thống. Khi tâm lý xã hội đã trở thành thói quen, tập qn,v.v. .
thì nó bám rễ tương đối bền vững ở mỗi người, mỗi nhóm cộng đồng, tầng lớp
xã hội.
Thứ hai, trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ, chẳng hạn như ý
thức tôn giáo phản ánh không đúng và không kịp sự vận động, biến đổi của tồn
tại xã hội.
Thứ ba, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội ln gắn với lợi ích của
những nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau.
I.4.Ảnh hưởng của ý thức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội đến
xã hội:
Nhận thức về tính giới hạn của sự lạc hậu tương đối của văn hóa thể hiện
sự khôn ngoan của con người trong việc phân loại những cơng cụ hỗ trợ sự phát
triển. Có thể nói, sự lạc hậu về mặt văn hố, nếu nhìn từ góc độ này, sẽ ảnh
hưởng đáng kể đến tiến trình phát triển của mỗi cá thể, mỗi cộng đồng, mỗi dân
tộc, thậm chí, tạo ra những trở ngại rất lớn trên phạm vi tồn cầu.
Nếu có bề dày kinh nghiệm văn hố, chúng ta sẽ có khả năng đồng cảm
với những cộng đồng khác trong quá trình tương tác. Sự hiểu biết lẫn nhau sẽ
khiến mỗi cộng đồng trở nên tinh tế hơn trong các hành vi tìm kiếm lợi ích của
mình. Ngược lại, sự phát triển q nhanh sẽ không tạo điều kiện cho sự ngưng tụ
7


của các kinh nghiệm văn hóa và tạo ra trạng thái hời hợt về mặt văn hoá. Điều

này sẽ khiến cho các hành vi tìm kiếm lợi ích của mỗi cộng đồng trở nên khó
chấp nhận trong mắt những cộng đồng khác.
Thực tế cho thấy, ở những cộng đồng có nền văn hóa lạc hậu, thái độ
cứng nhắc, khơng cởi mở và khơng khách quan đối với văn hóa tạo ra sự đối
kháng không phải chỉ giữa tầng lớp này với tầng lớp kia, giữa thế hệ này với thế
hệ kia trong cộng đồng mà hơn thế giữa chính cộng đồng đó với thế giới bên
ngồi.
Trong thời đại hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hố,
mỗi một quốc gia khơng thể tồn tại độc lập với thế giới bên ngồi. Nền văn hóa
lạc hậu, khơng cởi mở chắc chắn không đủ khả năng giúp con người vượt qua
ngưỡng của sự chậm phát triển do nó cản trở sự đồng thuận trong nhận thức của
cộng đồng. Văn hóa tạo ra mơi trường sống và khơng gian tinh thần để nâng đỡ
các khơng gian chính trị và khơng gian kinhtế. Chính bởi vậy, sự phát triển về
kinh tế và chính trị phụ thuộc đáng kể vào khơng gian tinh thần đó. Nếu khơng
gian tinh thần lạc hậu, con người sẽ nảy sinh tâm lý tự mãn về những giá trị của
mình, rất khó khăn trong việc nhận ra cái mới và tiếp cận cái mới, và do đó, sẽ
bỏ lỡ các cơ hội phát triển.
Các quốc gia đang và kém phát triển thường có khuynh hướng duy trì bản
sắc văn hóa như một bằng chứng về sựkhác biệt, thậm chí lo ngại rằng, tồn cầu
hóa sẽ xói mịn bản sắc văn hóa và bản lĩnh văn hố, quên mất rằng bản sắc văn
hóa hay bản lĩnh văn hóa đều được hình thành sau những q trình lâu dài, tự
nhiên và không thể biến mất trước những tương tác về văn hố. Chính những lo
ngại khơng có cơ sở và phản ứng tự vệ phi lý này đã gây ra những xung đột về
văn hoá, thể hiện qua những xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tiến trình phát triển và tạo nên những phản ứng cực đoan đối
với vấn đề toàn cầu hố. Mặt khác, các quốc gia đang phát triển ln cảm thấy
mình bị thua thiệt khi tham gia vào quá trình hội nhập và tồn cầu hố, cho đến

8



khi nhận ra rằng các cơ hội bị bỏ lỡ do sự dị biệt về văn hóa chính là thơng điệp
về ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với sự phát triển.
Phần II: Liên hệ trong xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện
nay.
II.1. Thực trạng:
Trong truyền thống văn hố của dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong
mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội. Phong tục có thứ trở thành
luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những
đạo luật.Một cuộc cách mạng có thể thay đổi chính thể nhanh chóng, tiếp theo
sau hàng loạt hệ thống pháp luật được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng
biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội, nhưng dai dẳng hơn và có quy
luật riêng của nó, khơng dễ gì một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà,
mọi tầng lớp tuân theo.
Bản thân các phong tục cũng nằm trong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang và
sẽ tiếp diễn mãi giữa cái cũ và cái mới. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Hiện nay, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc thiểu số ở Việt Namđã
tốt hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số tập tục lạc hậu trong tang lễ, cưới xin…tồn
tại hết sức dai dẳng.
Về việc tang, quan niệm của khơng ít đồng bào dân tộc thiểu số là mời
thầy Tào, thầy Mo, thầy cúng yểm bùa, trừ ma và con cháu lăn đường, đội mũ
rơm; một số gia đình dân tộc Tày ở tỉnh Lạng Sơn có tục viếng thơng gia và tế lễ
riêng, khi cha mẹ mất thì các con (đã trưởng thành) phải mỗi người một lễ, Tế
rườm rà, tốn kém; rồi tục đưa đám trước 12 giờ đêm ảnh hưởng cộng đồng dân
cư; một số bản, làng dân tộc Mông tỉnh Sơn La để người chết trong nhà nhiều
ngày; có nơi ngồi việc làm ma tươi cho người chết, cịn phải làm ma khơ cúng
bằng trâu, bị.
Về việc cưới, một bộ phận thanh niên dân tộc thiểu số tin vào lá số, số
mệnh và việc "nhập ma" cô dâu về nhà chồng; các dân tộc Dao và Sán Chỉ ở
vùng sâu, vùng xa tỉnh Quảng Ninh cịn tục tảo hơn, ép gả, mua bán, thách cưới

9


cao, tổ chức cưới dài ngày; dân tộc Sán Dìu có tục một nhà trong một năm
khơng được đẻ hai người, nếu có người cưới dâu thì người đến kỳ sinh đẻ phải
ra ngoài rừng đẻ con; ở tỉnh Ðiện Biên, tại một số thôn, bản của dân tộc Hà Nhì
và Si La việc cưới, việc tang có q nhiều thủ tục phức tạp. Nhiều bản, làng,
thơn, ấp cịn tình trạng trọng nam, khinh nữ; em dâu, con dâu không được ngồi
ăn cơm chung mâm với anh chồng, bố chồng; con gái không được học lên lớp
trên; một số gia đình có người đau ốm đã làm Then, cúng ma để giải hạn mà
không đưa tới trạm y tế xã; tập quán dùng thuốc phiện lưu cữu ở vùng cao.
Ðồng bào ở nhiều bản, làng, nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn giữ cách nghĩ,
nếp sống tuy không phải là hủ tục, nhưng không phù hợp cuộc sống thời nay, đó
là thói quen sử dụng nhà vệ sinh, nhà tắm ngồi trời; ít trồng rau xanh trong khi
đất rừng rộng; thói quen uống nhiều rượu làm bê trễ sản xuất; tục tôn thờ đạo
giáo ngoại nhập tăng lên ở một số vùng cao, v.v.
Riêng đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xa thực chất còn rất nhiều hạn chế, càng ở xa càng thiếu thông tin,
càng khao khát các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Các hủ tục mê tín dị đoan như
thầy cúng, thầy bói vẫn cịn lén lút hoạt động. Trong khi đó sinh hoạt văn hóa
mang đậm các sắc tộc bản địa đang bị lấn át và mai một.
Hiện nay, việc thách cưới đã trở nên nhẹ nhàng hơn, đặc biệt là ở những
gia đình tri thức, thị dân thì tục thách cưới chỉ như một hình thức ước lệ. Tuy
nhiên, ở những vùng nơng thơn thì tục thách cưới vẫn còn tồn tại với nhiều thủ
tục nặng nề. Nhà trai và nhà gái vẫn chưa hoàn toàn bỏ được tính hư danh hoa
hoè để khổ cho con cái. Việc trai gái lấy nhau, trước hết phải chờ cho đến tuổi
khôn lớn, biết cách lập thân, rồi hãy cho lấy nhau, mà hãy để cho con cái tuỳ ý
kén chọn, cha mẹ khơng nên nài ép lịng con, trừ khi con không biết đường kén,
chọn phải kẻ chẳng ra gì thì cũng nên ngăn cấm lại mà thơi.
Qua bức phác thảo trên, có thể rút ra mấy nhận xét sau:



Một là, tình trạng tập tục lạc hậu tuy chiếm tỷ lệ nhỏ so với toàn

cảnh đời sống văn hóa, xã hội khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nhưng
10


tiềm ẩn nguy cơ lan rộng, kể cả nguy cơ do kẻ xấu lợi dụng kích động, tạo thành
"rào chắn" cản trở sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


Hai là, tình trạng tập tục lạc hậu tồn tại khơng tập trung, khơng có

tính hệ thống mà rải rác ở những bản, làng thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao,
nơi điều kiện vật chất và tinh thần khó khăn, nhiều hơn là ở những trị trấn, thị
tứ, thị xã, thành phố miền núi.


Ba là, căn cứ vào tính chất và nguồn gốc hình thành các tập tục, có

thể phân chia thành loại tập tục liên quan mê tín dị đoan và loại tập tục hình
thành từ thói quen và nếp sống hằng ngày.
II.2. Giải pháp xây dựng:
Một mặt, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, mở rộng và
nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số, và công tác này phải đi
trước một bước tại những địa bàn khó khăn, chứ khơng phải như quan niệm của
một vài người cho là "chờ" khi trên địa bàn có đầy đủ cơ sở hạ tầng kinh tế, xã
hội thì mới phát triển được đời sống văn hóa. Tất nhiên, cơng tác thơng tin,

tun truyền ở những nơi này cần được đổi mới cả về hình thức và nội dung.
Nếu như trước đây, nội dung tuyên truyền một cách chung chung, chỗ nào cũng
có thể áp dụng được mà hiệu quả lại thấp, thì nay phải lưu ý đến tính đặc thù của
từng vùng, miền, từng dân tộc, kể cả tín ngưỡng và đời sống tâm linh của dân
tộc ấy.
Phải cải tạo triệt để những phong tục, tập quán, những ứng xử của cá nhân
và cộng đồng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội đã trở thành tập tục,
thói quen làm kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống tinh thần, nhận
thức của đồng bào các dân tộc vùng cao lâu nay. Đặc biệt là các nội dung phi
khoa học trong việc tang, việc cưới, trong tín ngưỡng thờ tự, chữa bệnh, ứng xử
với mơi trường và thậm chí cả trong lối sống, sinh hoạt chi tiêu... của đồng bào
vùng cao. Cơng tác tun truyền đóng vai trị quan trọng trong q trình nâng
cao nhận thức, động viên khích lệ người dân cùng tham gia. Chính vì vậy, huyện
11


phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền chủ trương, chính sách của huyện; Đa dạng hóa hình thức tun
truyền, mở hội nghị tuyên truyền, tập huấn cho các tuyên truyền viên, tập trung
vào các già làng, trưởng bản, thầy cúng, thầy mo. Đây là lực lượng nòng cốt tại
cơ sở, đóng vai trị quan trọng tác động để thay đổi nếp sống, phong tục tập quán
lâu đời của người dân
Mặt khác, cần phát triển rộng phong trào Toàn dân đồn kết xây dựng đời
sống văn hóa, trong đó có phong trào gia đình văn hóa và làng, bản văn hóa ở
những địa bàn này. Bên cạnh điểm mạnh là cơ bản của các phong trào, thì điểm
yếu chính là ở chỗ chúng ta chưa cụ thể hóa các tiêu chí chung thành những tiêu
chí riêng, phù hợp từng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, cũng cần xác định các căn nguyên của hủ tục có nguồn gốc từ
điều kiện lao động, sản xuất hoặc từ đời sống tâm linh, tín ngưỡng, để trên cơ sở
đó xây dựng nội dung phịng, chống các hủ tục một cách khoa học, chú ý việc

xóa bỏ các điều kiện xấu và mầm mống tạo thành hủ tục.
Việc tổ chức thực hiện nội dung bài trừ các tập tục lạc hậu là việc làm vô
cùng quan trọng và rất cần được đổi mới. Nhưng để xóa bỏ cơ bản các tập tục
lạc hậu trong đồng bào dân tộc thiểu số thì phải xây dựng kế hoạch phịng,
chống tồn diện và tập trung hơn, trong đó có việc phân cấp xử lý vấn đề. Việc
này có thể làm được vì các hủ tục giữ tỷ lệ khơng nhiều trong đời sống văn hóa
xã hội các dân tộc, ước hơn 20 hủ tục rõ nét và hơn 10 loại thói quen khơng phù
hợp cuộc sống hiện tại; việc phân cấp sẽ khoanh được vùng trọng điểm và đề
cao trách nhiệm của các cá nhân, tập thể trong q trình phịng, chống, giải
quyết triệt để các hủ tục. Ðối với các đơn vị cấp trung ương thì chỉ đạo, tổ chức
xử lý những hủ tục và thói quen sống lạc hậu mang tính phổ biến và điển hình
về mức độ, tính chất và quy mơ rộng; cịn đối với các sở văn hóa - thơng tin
tỉnh miền núi thì tổ chức xử lý những hủ tục có tính chất, quy mơ hẹp, ít phổ
biến hơn và diễn ra ngay trên địa bàn mình phụ trách. Ðồng thời với việc phân
cấp, cần tổ chức xây dựng mơ hình để nhân rộng phong trào bài trừ hủ tục; mô
12


hình lấy tại chỗ là tốt nhất, hạn chế việc lấy mơ hình từ các địa bàn khác và dân
tộc khác đem tới cho vùng này, dân tộc này học tập. Việc đầu tư xây dựng mơ
hình nên gọn nhẹ, khơng q cầu tồn, vì một gia đình, một bản, làng làm tốt
cũng có thể trở thành mơ hình xứng đáng để nhiều gia đình noi theo.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hố mới hiện nay, khơng phải chỉ đơn
thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan mà phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục vào
nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu tiến
hố. Có những phong tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc
sống thời xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta cũng
cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại
và tương lai, hoặc tìmnhững phong tục hay để bổ kết mà loại trừ dần những cái
dở.

Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội chủ
nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy
những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại từ cổ
chí kim trên cơ sở thế giới quan Macxit. Người viết:” Văn hố vơ sản phải là sự
phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ
được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của
bọn quan liêu.
Nắm vững quan điểm trên đây của triết học Mác- Lênin về tính kế thừa
của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện
kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và
nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập
quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới,
làm giàu đẹp thêm cho nền văn hoá Việt Nam

13


Kết luận
Tóm lại tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống xã hội. Vì vậy cơng cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý
thức xã hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại
xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần xã hội,
với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu
sắc trong tồn tại xã hội.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy,
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư

tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực
lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xố bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng
thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

Lê Thanh Tùng

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị- Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa
Mác-LêNin, xuất bản năm 2021
2. ChúngTa.com
3. Đại Đoàn Kết Online
4. Người đại biểu nhân dân Online
5.
6. />7. Báo Hà Giang điện tử
14



×