Tải bản đầy đủ (.doc) (265 trang)

Cơ cấu kinh tế, xã hội và văn hóa xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) thời kì trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.36 MB, 265 trang )

V b
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI PHƯƠNG NGỌC
CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
XÃ HOẰNG LỘC (HOẰNG HÓA, THANH HÓA)
THỜI KÌ TRUNG ĐẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
HÀ NỘI-2013
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI PHƯƠNG NGỌC
CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
XÃ HOẰNG LỘC (HOẰNG HÓA, THANH HÓA)
THỜI KÌ TRUNG ĐẠI
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại
Mã số: 62.22.54.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN MINH TƯỜNG
HÀ NỘI-2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư
liệu sử dụng trong Luận án hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng. Những kết quả của Luận án chưa được công bố trong bất cứ công trình
nào khác.
Tác giả

Mai Phương Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4
5. Đóng góp của Luận án 7
6. Kết cấu Luận án 7
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề 8
1.1. Những nghiên cứu về làng xã trên toàn quốc 8
1.1.1. Các công trình của tác giả nước ngoài 8
1.1.2. Các công trình của các tác giả trong nước 9
1.2. Nghiên cứu về Thanh Hóa và Hoằng Hóa 14
1.2.1. Các công trình của tác giả nước ngoài 14
1.2.2. Các công trình của tác giả trong nước 15
1.3. Một vài nhận xét về tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến luận án 18
Tiểu kết chương 1 20
Chương 2: Cơ cấu kinh tế 21
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và địa giới hành chính Hoằng Lộc 21
2.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên 21
2.1.2.Sự ra đời làng cổ và những thay đổi địa giới hành chính 24
2.2. Nông nghiệp 30
2.2.1. Tình hình ruộng đất 30
2.2.2.Sản xuất nông nghiệp 38
2.3. Thủ công nghiệp 41
2.4. Thương nghiệp 48
2.4.1.Chợ Quăng 48
2.4.2.Chợ Điếm 54
2.5. Nghề dạy học 56
Tiểu kết chương 2 61
Chương 3: Tổ chức xã hội 62
3.1. Tổ chức quản lí làng xã 62

3.1.1. Bộ máy quản lí làng xã 62
3.1.2. Tính tự quản của làng xã qua hương ước 69
3.2. Kết cấu dân cư 74
3.3. Các hình thức tổ chức và tập hợp dân cư của làng xã 75
3.3.1. Xóm 75
3.3.2. Giáp 76
3.3.3. Hội 80
3.4. Gia đình, dòng họ 87
3.4.1. Gia đình 87
3.4.2. Dòng họ 90
Tiểu kết chương 3 97
Chương 4: Đời sống văn hóa 98
4.1. Khái quát cảnh quan, kiến trúc làng xã 98
4.2. Tôn giáo, tín ngưỡng 102
4.2.1. Bảng Môn Đình với tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng 102
4.2.2. Chùa làng - nơi diễn ra các sinh hoạt Phật giáo 112
4.2.3. Một số nơi thờ tự khác 116
4.3. Giáo dục khoa cử Nho học 119
4.3.1. Văn chỉ ở đất Hoằng Lộc 120
4.3.2. Thành tựu khoa cử Nho học ở Hoằng Lộc 122
4.3.3. Đóng góp của Nho sĩ Hoằng Lộc đối với tiến trình lịch sử dân tộc 128
4.3.4. Thái độ của các Nho sĩ Hoằng Lộc với các triều đại quân chủ Việt Nam 133
4.4. Văn học viết và văn học dân gian 139
4.4.1. Văn học viết 139
4.4.2. Văn học dân gian 144
4.5. Lễ hội 146
Tiểu kết chương 4 150
KẾT LUẬN 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bản đồ hành chính huyện Hoằng Hóa
Phụ lục 2: Bản đồ huyện Hoằng Hóa trong sách Đồng Khánh địa dư chí
Phụ lục 3: Bản đồ hành chính xã Hoằng Lộc
Phụ lục 4: Bảng thống kê danh sách sở hữu tư điền của hai xã Hoằng Đạo, Bột Thái
qua Địa bạ năm Minh Mệnh 15 (1834)
Phụ lục 5: Bảng thống kê danh sách phụ canh tại hai xã Hoằng Đạo, Bột Thái qua
Địa bạ năm Minh Mệnh 15 (1834)
Phụ lục 6: Trang 1 và trang 63 Địa bạ hai xã Hoằng Đạo, Bột Thái năm Minh Mệnh
15 (1834)
Phụ lục 7: Toàn văn Hương ước thôn Bảo Trung, xã Bột Thượng
Phụ lục 8: Ảnh chụp một số trang bản chữ Hán Hương ước thôn Bảo Trung, xã Bột
Thượng
Phụ lục 9: Thúc ước văn Bột Thượng, Bột Thái
Phụ lục 10: Ảnh chụp một số trang chữ Hán Thúc ước văn.
Phụ lục 11: Toàn văn Hoằng Bột Thần phả
Phụ lục 12: Ảnh chụp một số trang chữ Hán Hoằng Bột Thần phả
Phụ lục 13: Toàn văn Hoằng Hóa Văn từ bi
Phụ lục 14: Ảnh chụp toàn cảnh Văn chỉ huyện Hoằng Hóa và Bia Văn từ
Phụ lục 15: Toàn văn Đường Bột kiều bi
Phụ lục 16: Ảnh chụp Bia cầu Đường Bột
Phụ lục 17: Toàn văn Bia chùa Thiên Nhiên
Phụ lục 18: Ảnh chụp Bia chùa Thiên Nhiên
Phụ lục 19: Một số Gia phả chữ Hán
Phụ lục 20: Một số sắc phong
Phụ lục 21: Một số hình ảnh của Bảng Môn Đình
Phụ lục 22: Ảnh chụp chùa Thiên Nhiên
Phụ lục 23: Ảnh chụp dấu tích chùa Thiên Vương
Phụ lục 24: Ảnh chụp một số nhà thờ họ
Phụ lục 25: Ảnh chụp một số khu lăng mộ

Phụ lục 26: Ảnh chụp một số ngôi nhà cổ
Phụ lục 27: Ảnh chụp một số giếng cổ
Phụ lục 28: Hình ảnh vườn dừa Hoằng Lộc
Phụ lục 29: Vị trí một đoạn đường Thiên Lý dưới thời trung đại
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết đầy đủ Viết tắt
1 Nhà xuất bản Nxb
2 Chủ biên C.b
3 Thành phố Tp
4 447 mẫu, 6 sào, 8 thước, 8 tấc 447.6.8.8
5 Tác giả TG
6 Trước công nguyên TCN
7 Sau công nguyên SCN
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. So sánh diện tích điền và thổ của Hoằng Đạo, Bột Thái với một số
xã thuộc huyện Hoằng Hóa
Bảng 2.2. So sánh tỉ lệ ruộng công giữa Hoằng Đạo, Bột Thái và một số xã
thuộc huyện Hoằng Hóa
Bảng 2.3. Chất lượng Tư điền
Bảng 2.4. Quy mô các mảnh ruộng tư
Bảng 2.5. Quy mô sở hữu ruộng tư của chủ sở hữu người Hoằng Đạo, Bột Thái
Bảng 2.6. So sánh bình quân ruộng đất tư giữa Hoằng Đạo, Bột Thái và một
số xã thuộc huyện Hoằng Hóa
Bảng 2.7. Sở hữu của chức sắc
Bảng 2.8. Thống kê xâm canh của người Hoằng Đạo, Bột Thái tại các xã liền kề
Bảng 3.1. Các Giáp trong gia phả họ Hà
Bảng 3.2. Các thôn trong gia phả họ Nguyễn Hầu
Bảng 3.3. Các Giáp ở Hoằng Lộc thời trung đại
Bảng 3.4. Số vợ trong các gia đình qua gia phả họ Hà, tộc phả các thế hệ họ
Nguyễn, gia phả họ Nguyễn Bảo Toàn

Bảng 3.5. Tình trạng con cái trong các gia đình qua gia phả họ Hà, tộc phả các
thế hệ họ Nguyễn, gia phả họ Nguyễn Bảo Toàn
Bảng 4.1. So sánh diện tích trung bình của Hoằng Đạo, Bột Thái với một số
xã thuộc huyện Hoằng Hóa
Bảng 4.2. Thống kê những ngôi nhà còn lại có niên đại xây dựng đến cuối thế
kỉ XIX.
Bảng 4.3. Thống kê các giếng làng của Hoằng Lộc
Bảng 4.4. Các nhà thờ được xây dựng từ thời Lê trung hưng và thời Nguyễn
Bảng 4.5. Danh sách các đại khoa của Hoằng Lộc
Bảng 4.6. Danh sách các vị trung khoa của Hoằng Lộc
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Sơ đồ 4.1. Cấu trúc nhà ở điển hình
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Dưới thời quân chủ, có hai sự kiện thường làm xôn xao cả làng xã, thứ nhất: có
người thi đậu, được cả làng rước về vinh qui bái tổ. Thứ hai, có quan về làng: khi đi
trong đường làng, dường như người ta ai cũng muốn ra để được trông thấy ông quan.
Cái trầm mặc, bình lặng hàng ngày của làng quê truyền thống Việt Nam bị xáo động. Và
hầu như, với tất cả những ai đang sống trong làng, những người đỗ đạt thành danh đã đi
khỏi làng, cũng đều mong muốn được hưởng cái giây phút trở thành nhân vật chính
trong hai sự kiện ấy. Bởi lẽ, quyền được làm người một làng là quyền thiêng liêng,
không thể tước đoạt của mỗi người, cho dù đó là ông quan nhất phẩm, hay người dân
cày nghèo quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Người dân Việt Nam trước
hết là người của làng, thành viên của làng, sau đó mới là dân của nước. Điều đó để thấy
rằng, làng xã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi người Việt Nam như thế
nào.
Không chỉ vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước, làng xã là nơi
cố kết sức mạnh cộng đồng, nơi hình thành, nuôi dưỡng tình yêu quê hương, lòng tự
hào và tự tôn dân tộc. Bản sắc và bản lĩnh Việt Nam có cội nguồn từ trong văn hoá
làng, hay nói cách khác làng xã là cơ sở nền tảng của văn hoá, văn minh Việt Nam.

Chính bởi vậy, những nghiên cứu về làng xã không chỉ nhằm làm sáng tỏ lịch sử
hình thành, phát triển của làng Việt mà thông qua đó góp phần nhận diện rõ hơn về
lịch sử đất nước, về tâm lí, cốt cách con người Việt Nam.
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng xã trên những
lĩnh vực khác nhau như: Lịch sử, Dân tộc học, Văn hoá học, Xã hội học… Những
vấn đề lí luận chung về làng xã đã được nhìn nhận đa chiều. Một số làng đã được
chọn nghiên cứu, góp phần làm sáng rõ hơn bức tranh toàn cảnh làng xã Việt Nam.
Mặc dầu, như chữ dùng của nhà dân tộc học Từ Chi, làng Việt Nam là “cấu kiện đúc
sẵn”, vì gồm những yếu tố ghép lại với nhau mà làng nào cũng giống làng nào, ví
như: cổng làng, cây đa, quán nước đầu làng, đình làng, luỹ tre làng, chùa làng…; thế
nhưng, bên cạnh cái chung, mỗi làng đều có những nét riêng, vì làng xã là một thực
thể, tự bản thân luôn biến đổi trong từng môi trường, điều kiện và bối cảnh khác
nhau.
Sở dĩ, xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) được lựa chọn để nghiên cứu
vì những lí do sau đây:
Thứ nhất, từ lâu các làng xã thuộc châu thổ sông Hồng đã được nghiên cứu
khá kỹ, còn các làng xã thuộc châu thổ sông Mã, dường như chưa nhận được sự quan
tâm thích đáng của giới sử học nước nhà.
Thứ hai, xã Hoằng Lộc là một trong những xã hình thành từ lâu đời, mang
những sắc thái tiêu biểu của xứ Thanh.
Thứ ba, tác giả là một người con được sinh ra và lớn lên ở quê hương Thanh
Hóa, nên mong muốn tìm hiểu một làng xã quê hương, vừa như một sự tri ân, vừa để
hiểu chính mình…
Nghiên cứu về xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) là một nghiên cứu
trường hợp. Với nghiên cứu này, tôi mong muốn hiểu rõ hơn về cơ cấu kinh tế, xã
hội và văn hóa của Hoằng Lộc dưới thời trung đại. Trên cơ sở đó, tác giả hi vọng xây
dựng nguồn tư liệu góp phần vào việc tìm hiểu sự ra đời và phát triển cũng như nhận
diện về đặc trưng, tính cách của làng xã vùng châu thổ sông Mã.
Sau khi hoàn thành, với những lập luận khoa học, dựa trên những nguồn tư
liệu cụ thể và chính xác, công trình là nguồn tài liệu khá toàn diện và đáng tin cậy

giúp cho nhân dân Thanh Hóa nói chung, nhân dân xã Hoằng Lộc nói riêng hiểu
thêm một phần về lịch sử quê hương mình. Đó còn là cơ sở khoa học giúp những nhà
quản lí ở cấp địa phương (xã Hoằng Lộc và huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), làm
tư liệu tham khảo trong quá trình lãnh đạo tổ chức phát triển địa phương, đặc biệt là
vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống cao đẹp của cộng đồng làng xã. Vì vậy,
nghiên cứu về làng xã Hoằng Lộc dưới thời trung đại là vấn đề có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn sâu sắc.
Với những lí do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề: Cơ cấu kinh tế, xã hội và văn
hóa xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) thời kì trung đại để làm đề tài Luận án
Tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và làm rõ cơ cấu kinh tế xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa)
thời kì trung đại trên các lĩnh vực: nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp,
nghề dạy học. Qua đó, cho thấy kinh tế xã Hoằng Lộc có sự kết hợp khá hài hòa giữa
nông - công và thương và nghề dạy học.
- Tìm hiểu tổ chức xã hội xã Hoằng Lộc dưới thời trung đại, với các “cấu
kiện đúc sẵn” và các kết cấu đặc trưng riêng của Hoằng Lộc.
- Tìm hiểu đời sống văn hóa xã Hoằng Lộc thời kì trung đại, qua đó cho thấy nét
đặc trưng của một làng quê xứ Thanh hiếu học và khoa bảng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hóa xã
Hoằng Lộc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) thời kì trung đại. Việc trình bày đối tượng
nghiên cứu được tập trung trong chương 2, chương 3 và chương 4.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, không gian nghiên cứu của Luận án được giới hạn là xã
Hoằng Lộc, thuộc huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá - một đơn vị hành chính cấp cơ
sở ngày nay. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi có sự quy chiếu để thấy được sự
thay đổi địa giới hành chính của vùng đất này qua quá trình phát triển. Cho đến giữa
thế kỉ XIX, vùng đất Hoằng Lộc ngày nay gồm hai xã: Hoằng Đạo, Bột Thái và cuối

thế kỉ XIX, đổi thành Hoằng Nghĩa và Bột Hưng, thuộc tổng Hành Vĩ, huyện Hoằng
Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đồng thời, có đôi chỗ, khi vấn đề trình bày cần
có sự so sánh, đối chiếu, Luận án cũng đề cập một số nét về các làng xung quanh
hoặc các làng có vấn đề nghiên cứu tương đồng.
Về thời gian, Luận án nghiên cứu về xã Hoằng Lộc trong thời trung đại, giới
hạn từ đầu thế kỉ X đến khoảng giữa thế kỉ XIX. Tất nhiên, lịch sử là một dòng chảy
liên tục, do vậy, trong khi nghiên cứu, nếu thấy cần thiết, tôi có đề cập phần nào đến
khoảng thời gian trước hoặc sau đó.
Về nội dung, Luận án tìm hiểu về cơ cấu kinh tế, xã hội và văn hoá của Hoằng
Lộc trong thời kì trung đại. Tuy nhiên, tôi không có tham vọng sẽ bao quát và đi sâu
được mọi khía cạnh của các vấn đề, mà chỉ tìm hiểu về những nét cơ bản nhất, đặc
trưng nhất trong các lĩnh vực nêu trên.
Trong cơ cấu kinh tế, bên cạnh các lĩnh vực kinh tế truyền thống của các làng xã
cổ truyền như: nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, chúng tôi có tìm hiểu thêm
một đặc trưng kinh tế quan trọng của vùng đất này (đây là điểm tương đồng với một số
làng khoa bảng khác), đó là đóng góp của nghề dạy học trong đời sống kinh tế Hoằng
Lộc.
Về cơ cấu xã hội, nội hàm khái niệm này trong xã hội học được xác là mối
tương tác giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống xã hội. Mỗi cộng đồng xã hội có
cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong và những mối liên hệ giữa chúng. Cơ
cấu xã hội bao gồm các thiết chế như gia đình, dòng họ, hệ thống chuẩn mực giá trị,
cũng như hệ thống các vị trí, vai trò xã hội v.v Như vậy, đây là một khái niệm khá
rộng. Trong Luận án này, chúng tôi chưa đủ điều kiện để nghiên cứu hết các vấn đề,
do vậy, xin giới hạn việc tìm hiểu các nội dung trong chương 3 bao gồm các vấn đề
về tổ chức quản lí làng xã, kết cấu dân cư, các thiết chế gia đình, dòng họ, các hình
thức tổ chức và tập hợp cư dân như xóm, giáp, hội.
Trên phương diện văn hóa, Luận án tìm hiểu các khía cạnh văn hóa nổi bật như:
kiến trúc, cảnh quan làng xã, tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục khoa cử, văn học, lễ hội.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu

* Tài liệu tham khảo
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng nhiều thư tịch chữ Hán
(đã được dịch ra tiếng Việt) làm tài liệu tra cứu như: Các bộ địa lí học - lịch sử và sử
học biên soạn dưới triều Hậu Lê: Dư địa chí (Nguyễn Trãi), Đại Việt sử kí toàn thư
(Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê), Đại Việt sử kí tục biên (Nguyễn Hoàn, Lê Quý
Đôn, Vũ Miên), Đại Việt sử kí tiền biên (Ngô Thì Sĩ), Kiến văn tiểu lục (Lê Quý
Đôn)… Các bộ địa lí học - lịch sử dưới triều Nguyễn như: Hoàng Việt nhất thống
địa dư chí (Lê Quang Định); Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn),
Các bộ sử như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục chính
biên, Đại Nam liệt truyện chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn v.v Ngoài ra,
trong một số tác phẩm tùy bút, tạp ký bằng chữ Hán dười thời trung đại có khá nhiều
câu chuyện liên quan đến người Hoằng Lộc đi dạy học, đi buôn bán và lập nghiệp ở
nơi họ đến, ví dụ như: Lan trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Bà Tâm huyền kính lục (Trần
Tân Gia), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục)…
Một nguồn tài liệu tham khảo quan trọng là các công trình nghiên cứu có liên
quan của các tác giả đi trước. Các công trình này sẽ được chúng tôi đề cập chi tiết
trong chương 1.
* Tài liệu lưu trữ
Đây là nguồn tài liệu đưa lại nhiều kết quả nghiên cứu mới cho luận án. Có
thể kể ra các tài liệu có giá trị như:
Sách Đăng khoa lục Thanh Hóa (nguyên văn tên sách là 秋 比 題 名 記
Thu tỉ đề danh ký), kí hiệu 78/ĐC lưu tại phòng Địa chí tỉnh Thanh Hóa. Cuốn sách
ra đời khoảng cuối năm 1875, đầu năm 1876, là công trình sưu tập chi tiết và công
phu về các vị trung khoa của Thanh Hóa từ trước đến năm 1875 (trong đó, những
người đỗ trung khoa trước năm 1702 còn sơ lược, do thiếu tư liệu khảo cứu, từ sau
năm 1702 tương đối chi tiết, rõ ràng). Đây là tài liệu hết sức quý giá trong việc tìm
hiểu về thành tựu khoa cử ở Hoằng Lộc thời trung đại. Nếu trích thêm ở sách Quốc
triều hương khoa lục 國 朝 鄉 科 錄 của Cao Xuân Dục ghi chép những nhân vật
của tỉnh Thanh đã đậu cử nhân từ 1876 trở về sau, chúng ta sẽ có một bộ “Hương
khoa lục” của tỉnh Thanh tương đối đầy đủ, chi tiết.

Ngoài ra, Phòng Địa chí Thanh Hóa còn là nơi lưu giữ nhiều tài liệu có giá trị
như: Sách Thanh Hoá tỉnh địa dư chí 清 化 省 地 輿 志 , chép về địa lý, lịch sử,
điều kiện khí hậu, phong tục, thổ sản, thành trì, cổ tích, đền miếu và các đơn vị hành
chính của Thanh Hoá, trong đó có đề cập tới huyện Hoằng Hóa. Sách Thanh Hóa
quan phong 清 化 觀 風 và Thanh Hóa kỷ thắng 清 化 紀 勝 của Vương Duy
Trinh cũng đề cập tới đời sống sản xuất, phong tục tập quán, núi sông, cảnh quan tiêu
biểu của xứ Thanh, trong đó có huyện Hoằng Hóa.
Tại trung tâm lưu trữ Quốc gia I, chúng tôi tìm được Địa bạ hai xã Hoằng
Đạo, Bột Thái năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), dày 64 trang, kí hiệu 13655. Ngoài ra,
ở đây cũng lưu giữ một số địa bạ của các làng xã khác trong huyện Hoằng Hóa, đây
là nguồn tư liệu để chúng tôi so sánh, đối chiếu vấn đề nghiên cứu khi cần thiết.
Trong tài liệu Châu bản của triều Nguyễn cũng lưu lại 142 bản tấu, dụ, lệnh chỉ có
liên quan đến Hà Duy Phiên - một nhân vật của Hoằng Lộc làm quan đến chức
Thượng thư. Đây là những tư liệu quan trọng để nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, xã
hội của xã Hoằng Lộc dưới triều Nguyễn.
* Tài liệu điền dã
Đầu tiên phải kể đến cuốn sách Hoằng Hoá phong vật 弘 化 風 物 , không
đề tên tác giả, được sưu tầm tại xã Hoằng Lộc. Cuốn sách ra đời vào đầu thế kỉ XIX,
là một tác phẩm có giá trị lịch sử và văn học rất đặc sắc viết về cảnh trí, địa lý lịch sử
và danh nhân Hoằng Hoá. Trong tác phẩm có đề cập đến địa hình, núi sông của tổng
Hành Vĩ và khái quát sơ lược về một số nhân vật của Hoằng Lộc.
Về tư liệu thư tịch, trong nghiên cứu của chúng tôi, Hoằng Lộc là một xã có
truyền thống hiếu học và khoa bảng, do vậy còn lưu giữ được khá nhiều tài liệu, đa
phần là tài liệu Hán nôm gồm các văn bia, thần tích, sắc phong, các hoành phi, câu
đối, các hương ước, thúc ước, các gia phả dòng họ, bằng sắc, chúc thư, văn cúng hay
ghi chép của các dòng họ còn lưu truyền đến ngày nay. Ví dụ như: Hà Duy Phiên
chiếu 何 維 藩 詔 : 23 bản, Bùi Khắc Nhất sắc phong 裴 克 一 敕 封 : 35 đạo
sắc, 阮 宣 敕 封 Nguyễn Tuyên sắc phong, 21 đạo sắc, Nguyễn tộc gia phả 阮 族
家 譜 , 72 trang, Nguyễn Ngọc Huyễn gia phả, sắc phong 阮 玉 鉉 家 譜 敕 封 ,
56 trang, 14 đạo sắc phong, Bột Trung ước văn 勃 中 約 文 , Hoằng Hoá văn từ bi

弘 化 文 祠 碑, Hoằng Bột thÇn ph¶ 弘 勃 神 譜 v.v Đây là nguồn tư liệu
phong phú, phản ánh khá rõ nét tình hình kinh tế xã hội và văn hoá của Hoằng Lộc
qua các thời kì lịch sử. Tất nhiên, khi sử dụng một số tài liệu trong nhóm này, ví dụ
gia phả, tính chân xác của một số thông tin cần được xem xét cẩn trọng.
Về tư liệu vật chất, tại Hoằng Lộc còn lưu giữ nhiều các di tích như Văn chỉ,
đình, chùa, lăng miếu, từ đường các dòng họ, các ngôi nhà cổ, giếng làng Đây là
hiện thân của đời sống làng quê, do vậy, tiếp xúc với nguồn tư liệu này, giúp chúng ta
có thể hình dung và cảm nhận về không gian làng quê Hoằng Lộc xưa với những nét
riêng biệt cũng như tương đồng trong không gian chung của làng xã Việt Nam.
Nguồn tài liệu truyền miệng, bao gồm các truyền thuyết dân gian về lịch sử
làng, ca dao, tục ngữ, các cách giải thích của dân gian về địa thế núi sông và các địa
danh của làng… Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các cụ cao niên, những người am
hiểu về lịch sử xã Hoằng Lộc, hồi cố các kí ức về các tục lệ xóm làng mà họ được
chứng kiến hoặc nghe kể lại. Các nguồn tài liệu này mức độ xác thực của chúng là
khác nhau, có khi bị lắp ghép sai lệch hoặc mang tính ước lệ thiếu chính xác. Do vậy,
trong Luận án, chúng tôi đã tiến hành so sánh đối chiếu với các nguồn tư liệu khác,
kiểm chứng nhiều lần để biến thành các nguồn tư liệu có giá trị.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về xã Hoằng Lộc là một nghiên cứu trường hợp, nghiên cứu chọn
mẫu. Do tính chất của việc nghiên cứu thuộc ngành khoa học xã hội, nên Luận án áp
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đánh giá, phân tích
và rút ra các kết luận.
Phương pháp chuyên ngành khoa học lịch sử là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic được vận dụng để tái hiện quá khứ thông qua tư liệu, đồng thời
nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan.
Hiện nay, trong nghiên cứu về làng xã, một phương pháp được sử dụng khá
phổ biến là phương pháp hệ thống - cấu trúc. Với phương pháp này, làng được coi
như một hệ thống riêng gồm những yếu tố hợp thành. Về kinh tế, gồm có nông
nghiệp, thủ công và thương nghiệp; về mặt xã hội gồm các thiết chế quản lí, các hình
thức tổ chức và tập hợp dân cư, các thành tố: gia đình, dòng họ, giáp v.v…; về văn

hóa có các yếu tố như: nhà cửa, tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học dân gian, lễ
hội v.v… Từ đó các nghiên cứu rút ra những mối liên hệ tương tác giữa các yếu tố
trong hệ thống. Trong quá trình thực hiện, hàng loạt phương pháp cụ thể khác được
sử dụng nhằm thu thập và xử lí tối đa lượng thông tin như: phương pháp hồi cố,
thống kê, phương pháp phỏng vấn xã hội học v.v… Các phương pháp trên cũng được
chúng tôi vận dụng trong khi tìm hiểu về trường hợp xã Hoằng Lộc.
Có thể nói, thực hiện đề tài Cơ cấu kinh tế, xã hội và văn hóa xã Hoằng Lộc
(Hoằng Hóa, Thanh Hóa) thời kì trung đại, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên
cứu liên ngành kết hợp phương pháp chuyên ngành trong mối quan hệ tổng thể, bình
đẳng. Đây được coi là cách thức có hiệu quả cao để hiểu được một cách tương đối
đầy đủ và toàn diện làng xã Việt Nam trong lịch sử.
5. Đóng góp của luận án
Luận án được hoàn thành sẽ góp thêm một công trình nghiên cứu về làng xã
Thanh Hoá nói riêng và làng xã Việt Nam nói chung. Từ nghiên cứu này để nhìn nhận
rõ hơn về những nét chung cũng như tính đa dạng, đặc thù của làng xã Việt Nam truyền
thống.
Các kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được sử dụng trong việc tìm hiểu
về làng xã, nông thôn xứ Thanh trong lịch sử. Qua đó, công trình có thể làm tài liệu
tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương.
Từ các kết quả nghiên cứu của Luận án, những người con Hoằng Lộc có thể
thấy được những giá trị văn hóa cao đẹp của quê hương để tự hào, gìn giữ, phát huy;
đồng thời khắc phục các hạn chế tiêu cực trong đời sống làng xã hiện tại.
6. Kết cấu Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, nội dung của Luận án
được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Chương 2: Cơ cấu kinh tế
Chương 3: Tổ chức xã hội
Chương 4: Đời sống văn hoá
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Những nghiên cứu về làng xã trên toàn quốc
1.1.1. Các công trình của tác giả nước ngoài
Ngay từ thế kỉ XVII, làng Việt là đối tượng điều tra của các thương nhân và
giáo sĩ phương Tây. Những cuốn sách như: Tập du kí mới và kì thú về Vương quốc
Đàng Ngoài của Jean Baptiste Tavernier (NXB Thế giới, H.2005), Dampier William
với Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 (NXB Thế giới, Công ty Từ
Văn, H.2011, sách tái bản), hay Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Alecxandre de
Rhodes (UB đoàn kết công giáo, TP Hồ Chí Minh, 1994)… đã cho chúng ta biết về
tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Đàng Ngoài ở thời kì này. Thế nhưng,
đây chỉ là những tài liệu mang tính chất là những ghi chép ban đầu về làng xã Việt
Nam.
Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, để phục vụ cho công cuộc thực dân
hoá, thực dân Pháp đã đẩy mạnh nghiên cứu về làng Việt. Nhiều công trình khảo cứu
công phu của các học giả Pháp được công bố như: Y.Henry với Economie agricole
de l'Indochine (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương, Hà Nội, 1932), Paul Bernard với
Le problème économique Indochinois (Vấn đề kinh tế Đông Dương, Paris, 1934).
Trong các công trình này, các tác giả tập trung phân tích tình hình sở hữu ruộng đất,
canh tác nông nghiệp, sử dụng nhân công trong kinh tế nông nghiệp Đông Dương.
Trong những nghiên cứu của người Pháp, công trình nổi bật nhất cần kể đến
là cuốn Les Paysans du Delta Tonkinois (Người nông dân châu thổ Bắc Kì, Paris,
1936) của Pierre Gourou. Đây là cuốn sách nghiên cứu một cách tương đối toàn diện
về môi trường vật chất, địa hình, khí hậu, cư dân nông thôn, mật độ dân số, làng mạc,
nhà cửa của vùng châu thổ sông Hồng, nông nghiệp và công nghiệp làng xã của
người nông dân Bắc Kỳ. Những kết quả nghiên cứu và phương pháp tiếp cận vấn đề
của Pierre Gourou vẫn còn giá trị khoa học to lớn cho đến ngày nay.
Trong các giai đoạn về sau, ngày càng xuất hiện nhiều các công trình của các
tác giả nước ngoài nghiên cứu về làng Việt. Gần đây, nhiều công trình đã được dịch
và xuất bản. Có thể dẫn ra đây một số ví dụ như:
Cuốn Luật và xã hội Việt Nam thế kỉ XVII, XVIII của tác giả Insun Yu (NXB

Khoa học xã hội, 1994). Công trình nghiên cứu về cấu trúc gia đình truyền thống
Việt Nam trong mối quan hệ với làng và nhà nước - pháp luật, trong đó, tác giả đưa
ra nhiều nhận định về làng xã Việt Nam, sự tác động qua lại giữa các nhân tố gia
đình, cấu trúc bao quanh nó là làng và thông qua làng là Nhà nước. Những quan
điểm của tác giả về vấn đề làng xã được thể hiện rõ hơn thông qua bài báo Cấu trúc
làng xã Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ và mối quan hệ của nó với nhà nước thời Lê
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 3,4 năm 2000).
Công trình Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: Vấn đề còn bỏ ngỏ do Philippe
Papin và Olivier Tessier chủ biên (2002) là một phần kết quả của chương trình hợp
tác nghiên cứu về làng xã Việt Nam vùng đồng bằng sông Hồng được tiến hành từ
năm 1996 đến 1999 giữa các nhà khoa học Pháp và Việt Nam. Thông qua các kết
quả nghiên cứu trên các phương diện: không gian làng, cơ cấu ruộng đất và cảnh
quan nông nghiệp, các hoạt động kinh tế khác, cơ cấu gia đình, dòng họ, tôn giáo,
hiện tượng di dân v.v… ở bốn làng được lựa chọn: Tả Thanh Oai, Ninh Hiệp (thuộc
Hà Nội), Mộ Trạch (Hải Dương), làng Hay (Phú Thọ), các nghiên cứu sau có thể có
cái nhìn đối sánh và định hướng gợi mở trong phương pháp tiếp cận vấn đề.
Cuốn Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ của John Kleinen (Tạp
chí Xưa và Nay, NXB Đà Nẵng, 2007) tập trung vào sự thay đổi tổ chức xã hội của
làng Tơ, một làng ở vùng châu thổ sông Hồng, để có thể so sánh quá khứ và hiện tại
của làng, xem xét đến những biến đổi xã hội diễn ra trong bối cảnh những sự kiện
lịch sử lớn. Đây là một hướng nghiên cứu được đánh giá là đã góp một cách nhìn
động vào xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay.
Trong bốn lần tổ chức Hội thảo Quốc tế Việt Nam học, làng xã là một chủ đề
lớn đã thu hút được nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài. Điều đó
cho thấy muốn tìm hiểu thấu đáo về đời sống và cốt cách con người Việt Nam thì cần
nhận diện rõ vai trò của làng Việt.
1.1.2. Các công trình của các tác giả trong nước
Ở trong nước, các nhà nghiên cứu đã dành nhiều thời gian và tâm sức cho
mảng đề tài này. Bởi lẽ, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là ba hằng số cơ bản
tạo nên nền tảng sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám,

nhiều tác giả như Vũ Văn Hiền, Nguyễn Văn Huyên, Phan Kế Bính đã có nhiều công
trình tìm hiểu về sở hữu làng xã, đời sống, phong tục, tập quán làng Việt. Trong đó,
cuốn sách tiêu biểu viết có thể kể đến là Việt Nam phong tục (1915) của tác giả Phan
Kế Bính. Đây là tác phẩm quan trọng để tìm hiểu về phong tục trong gia tộc như
quan hệ giữa cha mẹ và con cái, anh chị em, đạo vợ chồng đến việc thượng thọ, tang
ma, phụng sự tổ tông v.v ; phong tục hương đảng như việc tế tự, chùa chiền, Văn từ
Văn chỉ, đăng khoa, thuế khóa hay binh lính tạp dịch v.v ; phong tục xã hội như đạo
vua tôi, thầy trò, quan dân đến các tục như nhuộm răng, ăn trầu, hát xẩm v.v…
Bên cạnh đó, có thể kể tới cuốn sách Vấn đề dân cày (1937) của Qua Ninh và
Vân Đình
1
là cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về làng xã Việt Nam theo quan điểm
Macxit. Cuốn sách đã khái quát về tình cảnh thuế khóa, thiếu ruộng và đời sống cực
khổ của người dân cày, đây là hiện thực chân thực của xã hội Việt Nam trong bối
cảnh lịch sử bấy giờ!
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, các nghiên cứu về làng xã ngày càng nhiều
và sâu sắc hơn. Đặc biệt, từ sau cải cách ruộng đất và phong trào tập thể hoá nông
nghiệp, nghiên cứu về mảng đề tài làng xã đạt được nhiều thành tựu, tiêu biểu như
cuốn Xã thôn Việt Nam của Nguyễn Hồng Phong (1959), Chế độ ruộng đất và kinh
tế nông nghiệp thời Lê sơ của Phan Huy Lê (1959) v.v Cuối những năm 60 (thế kỉ
XX), tác giả Toan Ánh cho ra đời bộ Nếp cũ gồm 6 tập: Hội hè đình đám (hai quyển
thượng, hạ), Tín ngưỡng Việt Nam (hai quyển thượng, hạ), Con người Việt Nam và
Làng xóm Việt Nam. Mặc dù viết dưới dạng giản lược, song bộ sách phản ánh khá
phong phú về phong tục, văn hóa làng xã Việt Nam. Cũng nằm trong mảng đề tài
này, năm 1968, Nhất Thanh cho ra đời tác phẩm Phong tục làng xóm Việt Nam (Đất
lề quê thói).
Từ đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước bắt đầu chuyển mình lớn lao: cả
nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nông thôn Việt Nam chuyển lên sản xuất lớn
theo phương thức mới. Điều này làm biến đổi cơ cấu nông thôn cổ truyền nước ta.
Việc tìm hiểu lịch sử nông thôn Việt Nam, những chỗ mạnh, chỗ yếu trên con đường

tiến lên sản xuất lớn là một yêu cầu cấp bách của tình hình chính trị, xã hội thời bấy
giờ. Hai tập sách Nông thôn Việt Nam trong lịch sử do Viện Sử học biên soạn (Tập I:
1977, Tập II: 1978) ra đời chính trong bối cảnh ấy. Công trình này đã tìm hiểu làng
xã dưới nhiều khía cạnh như: kinh tế làng xã, đặc biệt là chế độ sở hữu ruộng đất,
công thương nghiệp làng xã, vai trò làng xã trong chiến tranh giữ nước và giải
phóng, thiết chế chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng làng xã Có thể nói, đây là kết
quả tổng hợp của nhiều nghiên cứu khái quát, hệ thống về làng xã Việt Nam trong
lịch sử.
1
Tức Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp
Trên phương diện nghiên cứu về xã hội Việt Nam cổ truyền, không thể không
nhắc đến cuốn sách Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ của tác giả
Trần Từ (1984). Mặc dù như tác giả khiêm nhường nhận định, đây chỉ là tập sách
mỏng “dán các “ký hoạ” rời rạc lại thành một “phác hoạ” nhất quán hơn về cơ cấu tổ
chức của làng Việt ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ” [179, tr.7], song giá trị của
công trình có ý nghĩa nền tảng đối với bất cứ nghiên cứu nào về làng xã Việt Nam
truyền thống. Trong đó, tác giả đã trình bày các luận chứng khoa học về cách thức tổ
chức của làng Việt cổ truyền, đặc biệt tìm hiểu kĩ về các loại hình tổ chức như tập
hợp người theo địa vực, huyết thống, lớp tuổi, tập hợp người trong bộ máy chính
quyền, hay các tổ chức tự nguyện như phường hội v.v Bên cạnh đó, một công trình
cũng có đóng góp lớn về mặt phương pháp khi nghiên cứu làng Việt là: Làng, liên
làng và siêu làng - Mấy suy nghĩ về phương pháp của tác giả Hà Văn Tấn (1987).
Công trình Tìm hiểu làng Việt do Diệp Đình Hoa chủ biên (1990) cũng cung cấp
nhiều nhìn nhận về làng Việt thông qua việc đi sâu tìm hiểu các khía cạnh của một số
làng xã cụ thể.
Với suy nghĩ “Lịch sử là thống nhất trong đa dạng nhưng không thể lấy cái
phổ biến thay thế cho cái đặc thù. Việc nghiên cứu làng xã Việt Nam cũng góp phần
vào sự nhận thức cái đa dạng, cái cụ thể và từ đó hiểu sâu hơn con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội của một nước mà nông thôn, nông dân là chủ yếu” [30, tr.11], tác
giả Phan Đại Doãn đã tiếp tục đi sâu hơn trong chặng đường tìm hiểu về làng xã Việt

Nam với công trình Làng Việt Nam một số vấn đề kinh tế - xã hội (1992). Tác giả đã
nghiên cứu về tái sản xuất tiểu nông, kinh tế làng xã, cấu trúc xã hội, tôn giáo và văn
hoá truyền thống của người Việt. Các kết quả nghiên cứu của công trình là tài liệu
tham khảo không thể thiếu trong quá trình tìm hiểu về làng xã Việt Nam. Phan Đại
Doãn và Nguyễn Quang Ngọc cũng là tác giả của sách Kinh nghiệm tổ chức quản lí
nông thôn Việt Nam trong lịch sử (1993). Cùng nằm trong hướng nghiên cứu tổng thể
về làng xã, qua nghiên cứu trường hợp làng Dục Tú, cuốn sách Một làng Việt cổ
truyền ở đồng bằng Bắc Bộ của tác giả Nguyễn Hải Kế (1996) cũng đã cho chúng ta
phương pháp, cách thức tiếp cận khi nghiên cứu một làng xã cụ thể và nhìn nhận
những nét khái quát về diện mạo làng Việt cổ truyền.
Tự cho rằng mình là người “đến muộn” khi “đi sâu vào nghiên cứu về làng xã
Việt Nam” [102, tr.11], song, tác giả Nguyễn Quang Ngọc đã coi mảng đề tài đó như
cái nghiệp của mình. Ngoài công trình với Phan Đại Doãn, các cuốn sách Về một số
làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỉ XVIII - XIX (1993) và Một số vấn đề làng xã
Việt Nam (2009) đã cho thấy tâm huyết của tác giả. Các công trình đã khái quát
những vấn đề cơ bản nhất về làng xã Việt Nam bao gồm: sự ra đời và những biến đổi
của làng xã Việt Nam trong lịch sử, sự trở lại vị trí của thôn làng truyền thống trong
nông thôn Việt Nam hiện nay, kết cấu kinh tế - xã hội làng Việt cổ truyền, văn hoá
xóm làng, đặc biệt tác giả đã đi sâu tìm hiểu một số làng buôn như Đa Ngưu, Báo
Đáp, Phù Lưu, Đan Loan và rút ra các đặc điểm của làng buôn vùng đồng bằng Bắc
Bộ.
Bên cạnh các công trình mang tính chất tiếp cận chung về làng xã, ở từng khía
cạnh khác nhau, chúng ta thấy xuất hiện nhiều chuyên khảo chuyên sâu. Ví dụ:
nghiên cứu về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp, ngoài công trình của tác
giả Phan Huy Lê thì Vũ Huy Phúc có Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam đầu thế kỉ
XIX (1979). Tiếp đó, tác giả Trương Hữu Quýnh viết Chế độ ruộng đất ở Việt Nam
từ thế kỉ XI - XVIII (2 tập, tập I: Thế kỉ XI - XV, 1982, tập II: thế kỉ XVI – XVIII,
1983). Về kinh tế thủ công nghiệp, Phan Gia Bền viết Sơ thảo lịch sử phát triển thủ
công nghiệp Việt Nam (1957), tác giả Bùi Văn Vượng viết Làng nghề thủ công
truyền thống Việt Nam (1998). Nghiên cứu về hương ước làng xã, có thể kể đến các

công trình như: Lệ làng phép nước (Bùi Xuân Đính, 1985), Hương ước và quản lí
làng xã (Bùi Xuân Đính, 1998), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở
nông thôn Việt Nam hiện nay (Đào Trí Úc chủ biên, 2003), Hương ước cổ làng xã
đồng bằng Bắc Bộ (Vũ Duy Mền, 2010) v.v Đặc biệt, làng xã Việt Nam chính là
nơi bảo lưu và gìn giữ các giá trị văn hoá của dân tộc, bởi vậy, nhiều công trình
nghiên cứu về văn hoá làng đã được xuất bản như: Làng văn hoá cổ truyền Việt Nam
(Vũ Ngọc Khánh chủ biên, 2001), Văn hoá dân gian làng ven biển (Ngô Đức Thịnh
chủ biên, 2000), Văn hóa dân gian làng Tri Chỉ (Hội văn nghệ dân gian Việt Nam,
2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử (Phan Đại Doãn,
2004), Tìm lại làng Việt xưa (Vũ Duy Mền, 2006)… Trong khía cạnh kháng chiến
chống ngoại xâm, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam có công trình Làng xã Việt Nam
trong kháng chiến chống ngoại xâm (Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX) (2006).
Bên cạnh các công trình đã xuất bản thành sách, trên các tạp chí khoa học
cũng đăng tải nhiều bài viết về các vấn đề liên quan đến làng xã. Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử có khá nhiều công trình đề cập đến đề tài này, tiêu biểu như: Nguyễn Đức
Nghinh với Về tài sản ruộng đất của một số chức dịch trong các làng xã thuộc huyện
Từ Liêm vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX (số 165/1975), Phan Đại Doãn với Về tính
chất sở hữu ruộng đất công làng xã (số 4/1981), Vũ Duy Mền với Làng xã thời Trần
(số 4/2009), Đàm Thị Uyên và Nguyễn Thị Hà có bài Tình hình ruộng đất ở huyện
Chiêm Hoá, Tuyên Quang qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805) (số 9/2009), Phan
Phương Thảo viết Vài nhận xét về đội ngũ chức sắc làng xã ở Bình Định nửa đầu thế
kỉ XIX qua tư liệu địa bạ (số 322/2002) v.v… Ngoài ra, trên các tạp chí khác cũng có
nhiều công trình về làng xã như: Nguyễn Đức Nghinh, Nguyễn Thị Hòa với Chợ
làng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 (Tạp chí Dân tộc học, số 2/1991), Vũ
Văn Quân với Thử phân tích yếu tố dòng họ trong cấu trúc ruộng đất của một làng
thuộc đồng bằng Bắc Bộ đầu thế kỉ XIX (Tạp chí Dân tộc học, số 3/1994), Làng Việt
cổ truyền - mặt hay nét dở (Trần Quốc Vượng - Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số
1 (58), 2003), Dân chủ làng xã: truyền thống và hiện đại (Nguyễn Việt Hương, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 8 (196), 2004), Sự xâm nhập của Nho giáo vào làng
xã Việt Nam qua tư liệu hương ước (Đinh Khắc Thuân, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo,

số 6 (30)/2004) v.v…
Làng xã Việt Nam cũng đã trở thành đề tài cho nhiều luận văn cao học, luận
án tiến sĩ của các học viên, nghiên cứu sinh trong nước và người nước ngoài. Thư
viện Quốc gia là nơi lưu giữ nhiều luận án như: Nguyễn Hồng Dương với Làng công
giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 1945 (quá trình hình thành và
phát triển) (Hà Nội, 1995), Trịnh Thị Thuỷ với Tình hình ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở huyện Đông Sơn (Thanh Hoá ) nửa đầu thế kỉ XIX (Hà Nội, 2002), Nguyễn
Thế Hoàn nghiên cứu Cấu trúc và văn hóa làng xã người Việt ở Quảng Bình nửa
đầu thế kỉ XIX (Hà Nội, 2003), Phạm Văn Hiệp với Làng nghề Cúc Bồ trong cảnh
quan văn hóa xứ Đông (Hà Nội, 2004), Dòng họ và đời sống làng xã ở đồng bằng
Bắc bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất - Hà Tây của Phan Chí
Thành (Hà Nội, 2006), Phạm Văn Tuấn với Cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống của
làng Việt ven biển huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa (Hà Nội, 2008) v.v…
Những công trình chúng tôi dẫn ra trên đây chỉ là một phần nhỏ trong số các
nghiên cứu về làng Việt. Sự phong phú của các tác phẩm cho thấy sức hấp dẫn của
mảng đề tài này. Đây chính là nền tảng quan trọng giúp chúng tôi có những hiểu biết
chung về làng xã khi tiến hành thực hiện luận án.
1.2. Nghiên cứu về Thanh Hóa và Hoằng Hóa
1.2.1. Các công trình của tác giả nước ngoài
Hiện nay, tại thư viện tỉnh Thanh Hóa có lưu lại một số tài liệu nghiên cứu
của các học giả nước ngoài liên quan đến địa phương. Hội đồng tư vấn hỗn hợp
thương mại và canh nông Trung Kỳ biên soạn cuốn sách L'Annam năm 1906, tập san
Bulletin des Amis du Vieux Hue (Những người bạn cố đô Huế), số đặc biệt về Trung
Kỳ (số1-2, năm 1931) đã tập hợp nhiều bài viết về kinh tế khu vực. Hai công trình
này đã giới thiệu khái quát kinh tế Bắc Trung Kì từ canh nông, thương mại đến kinh
tế đồn điền; trong đó nhấn mạnh tình hình canh tác một số cây trồng, và khai thác ở
một số đồn điền. Ngoài ra, các bài viết và công trình thực nghiệm của các nhà nghiên
cứu về kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ được đăng trên các tập san chuyên ngành
kinh tế như Bulletin économique de l'Indochine (Tập san kinh tế Đông Dương),
L'éveil économique de l'Indochine (Sự thức tỉnh kinh tế Đông Dương), đặc biệt là các

công trình của E.M.Castagnol - Giám đốc hạt canh nông Trung Kỳ, M.H. Gilbert và
H.Cucherousset - Thanh tra nông nghiệp Trung Kỳ là những bài viết có giá trị. Những
bài Trong những vùng đất đỏ ở miền Bắc Trung Kỳ, Cuộc khủng hoảng và các đồn
điền cà phê ở Thanh Hoá (H.Cucherousset) đã phản ánh lịch sử khai khẩn và khai thác
của các đồn điền cà phê ở Thanh Hoá. Các bài Trồng lúa ở Yên Định, Cây bông ở
Thanh Hoá (M.H. Gilbert), Đất đai và cây trồng ở Thanh Hoá (F.Roule và Thân
Trọng Khôi) phản ánh tình hình trồng lúa, bông và một số cây trồng khác tại địa
phương.
Nghiên cứu một cách tương đối hệ thống về các tỉnh Bắc Trung Kỳ có một số
công trình được công bố như Le Thanh Hoa (Tỉnh Thanh Hóa, 1929) của
Ch.Robequain, La Province de Thanh Hoa (Tỉnh Thanh Hoá, 1918), Le vieux An -
Tĩnh (An - Tĩnh cổ lục, 1936) của H.Le Breton. Trong đó, hai công trình của H.Le
Breton tập trung nghiên cứu về lịch sử - văn hoá. Cuốn Le Thanh Hoa của
Ch.Robequain được NXB Thanh Hóa ấn hành năm 2012, do Nguyễn Xuân Dương và
Lâm Phúc Giáp dịch, sách gồm 3 quyển, trình bày một cách hệ thống về khí hậu, địa
hình, dân cư, tổ chức xã hội, kinh tế của người miền núi và miền châu thổ. Đặc biệt,
những nhận định của tác giả về làng Việt, về cây lúa, hoa màu, các vùng nông nghiệp,
gia súc, nghề đánh cá, các nghề thủ công, buôn bán cho thấy quá trình tìm hiểu và điền
dã thực tế một cách nghiêm túc. Đây là công trình có giá trị tham khảo tốt trong các
nghiên cứu về Thanh Hóa. Tất nhiên, cũng giống nhiều công trình khác của học giả
người Pháp, quan điểm thực dân còn rõ nét khi tác giả trình bày về những tác động từ
công cuộc khai thác thuộc địa của nước Pháp.
1.2.2. Các công trình của tác giả trong nước
* Trước hết, chúng tôi muốn đề cập tới các công trình nghiên cứu của các tác
giả trong nước về Thanh Hóa mà ít nhiều có liên quan tới các vấn đề về Hoằng Lộc.
Từ những năm 1990, Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa đã biên
soạn cuốn sách Lịch sử Thanh Hóa (3 tập), phản ánh quá trình phát triển của vùng
đất xứ Thanh cùng với chiều dài lịch sử dân tộc. Đây là công trình giúp chúng tôi có
cái nhìn khái quát về Thanh Hóa khi nghiên cứu một làng xã cụ thể là Hoằng Lộc.
Sách Địa chí Thanh Hóa gồm các tập: Tập I: Địa lí và lịch sử (2000), tập II:Văn

hóa xã hội (2004), tập III: Kinh tế (2010) trình bày tổng lược về về Thanh Hóa trên các
phương diện. Ở mỗi tập, các tác giả đều dành dung lượng đáng kể để đề cập đến từng
huyện. Tất nhiên, công trình chỉ đề cập những nét chung nhất của huyện Hoằng Hóa,
phần về Hoằng Lộc chỉ được nhắc đến với một vài dẫn chứng về tình hình giáo dục,
khoa bảng.
Năm 1993, NXB Khoa học xã hội đã cho xuất bản cuốn sách Khảo sát làng
văn hóa xứ Thanh của tác giả Hoàng Anh Nhân và Lê Huy Trâm. Trong công trình,
các tác giả đã nhìn nhận Thanh Hóa dưới góc độ lịch sử, địa lí và văn hóa học, từ đó
trình bày quan điểm về có một văn hóa làng ở Thanh Hóa với những biểu hiện của
nó và vai trò đối với quá trình phát triển của vùng đất này. Hoằng Lộc cũng được đề
cập đến trong cuốn sách như một đơn vị văn hóa làng tiêu biểu.
Ngoài công trình trên, tác giả Hoàng Anh Nhân còn tiếp tục khảo sát về làng
quê xứ Thanh với các công trình như: Văn hóa làng và làng văn hóa xứ Thanh
(1996), Lễ tục lễ hội truyền thống xứ Thanh (2006). Trong sách Lễ tục lễ hội truyền
thống xứ Thanh tác giả tìm hiểu một số lễ hội ở Thanh Hóa, trong đó có lễ hội làng
Hoằng Bột được đề cập đến với các phương diện: thần tích và lễ hội thành hoàng.
Năm 2000, Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa xuất bản cuốn
sách Tên làng xã Thanh Hóa (tập 1). Trong công trình, các tác giả đã trình bày một
cách vắn tắt quá trình thay đổi tên gọi và địa giới hành chính xã Hoằng Lộc trong
lịch sử.
Nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc trên mảnh đất xứ Thanh, tác giả Lê Văn
Tạo và Hà Đình Hùng viết Nghệ thuật kiến trúc chạm khắc gỗ truyền thống ở Thanh
Hóa (2008). Trong công trình này, các tác giả nghiên cứu về một số đình làng, nghè
có kiến trúc nổi bật, trong đó có Bảng Môn Đình của Hoằng Lộc.
Công trình Làng nghề thủ công và làng khoa bảng thời phong kiến ở đồng
bằng sông Mã của tác giả Hà Mạnh Khoa (2009) là công trình nghiên cứu về các
làng nghề thủ công, các làng có truyền thống học hành tiêu biểu của Thanh Hóa.
Trong tác phẩm này, tác giả đã xếp Hoằng Lộc là làng khoa bảng của xứ Thanh.
Cuốn Hương ước Thanh Hóa (Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, 2010) là
công trình tập hợp các bản hương ước, chủ yếu dưới thời Nguyễn của các làng xã xứ

Thanh. Bản Hương ước của Hoằng Bột chưa được tập hợp trong cuốn sách này, tuy
vậy, đây cũng là tài liệu giúp chúng tôi có sự đối sánh trong nghiên cứu.
* Đối với nghiên cứu về huyện Hoằng Hóa, trước hết, Sách Địa chí văn hoá
Hoằng Hoá (Ninh Viết Giao chủ biên, 1995) đã giới thiệu về điều kiện tự nhiên, kinh
tế, truyền thống lịch sử, giáo dục, văn học, kiến trúc nghệ thuật, làng xã và một số
phong tục, lễ hội v.v… của huyện, trong đó cũng đề cập một vài khía cạnh về Hoằng
Lộc như: nghề dệt, chợ Quăng, Bảng Môn Đình và truyền thống khoa bảng của đất
Hoằng Lộc.
Cuốn Danh nhân văn hoá Hoằng Hoá (tập 1) do Trịnh Nhu chủ biên (Nxb Giáo
dục, 2010) cũng đã dành một dung lượng đáng kể để viết về các danh nhân đất Hoằng Lộc,
bởi lẽ đây là vùng “địa linh” đã sinh nhiều “nhân kiệt” có đóng góp to lớn đối với quê
hương.
* Trường hợp xã Hoằng Lộc, trước khi chúng tôi thực hiện đề tài này, đã có
một vài công trình tìm hiểu về lịch sử, văn hoá, phong tục, tập quán và kiến trúc.
Tiêu biểu nhất cần phải kể đến cuốn sách Hoằng Lộc đất hiếu học của các tác giả Bùi
Khắc Việt, Nguyễn Đức Nhuệ (1996). Cuốn sách đã khái quát những yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển văn hoá giáo dục như vị trí địa lí, cảnh quan, kinh tế, dân cư và
đặc biệt chú trọng đến tìm hiểu tình hình văn hoá giáo dục của Hoằng Lộc từ thời
quân chủ, qua 80 năm chống Pháp đến sau Cách mạng tháng Tám 1945. Từ các kết
quả nghiên cứu của công trình, người đọc hình dung được đây là mảnh đất có bề dày
lịch sử hàng nghìn năm. Cộng đồng cư dân Hoằng Lộc trong quá trình lao động và
đấu tranh lâu dài để xây dựng và bảo vệ quê hương đã tạo nên truyền thống văn hoá
đáng tự hào, đặc biệt đây là vùng đất hiếu học, trong lịch sử đã sản sinh nhiều nhân
tài, nhiều bậc khoa bảng cho đất nước. Cuốn sách là nguồn tài liệu quan trọng, cung
cấp cho chúng tôi cái nhìn khái quát ban đầu về mảnh đất này. Tất nhiên, vấn đề các
tác giả đặt ra chỉ là tìm hiểu về truyền thống hiếu học của Hoằng Lộc, do vậy, yếu tố
kinh tế, xã hội và các thành tố văn hoá khác không phải là đối tượng được đi sâu
nghiên cứu.
Trên các tạp chí và tại các hội thảo khoa học, tác giả Nguyễn Đức Nhuệ cũng
công bố một số bài viết có liên quan đến mảnh đất Hoằng Lộc. Trong kỉ yếu hội thảo

Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử (1995), Nguyễn Đức Nhuệ và Nguyễn Hữu Tâm
đã nghiên cứu Về một bản gia phả họ Trịnh ở Thanh Hóa, từ đó khẳng định: nguồn
gốc dòng họ Trịnh ở xã Bột Thái là một chi nhánh của Trịnh Tùng. Cũng từ việc
phân tích chủ yếu gia phả dòng họ Nguyễn Thanh và dòng họ Nguyễn Cẩn, năm
1996, tác giả Nguyễn Đức Nhuệ viết Vài suy nghĩ về thế ứng xử của trí thức thời
Mạc qua một số tư liệu mới, in trong Kỷ yếu Hội thảo Nhà Mạc và dòng họ Mạc
trong lịch sử, đã cho thấy trí thức Nho học Hoằng Lộc giai đoạn này là những con
người nhạy bén với thời cuộc, biết chọn chân chúa để thờ, chọn đúng thời điểm lịch
sử để hành động.
Tiếp tục khẳng định giá trị của các bản Gia phả chữ Hán tại Hoằng Lộc, trên tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (302)/1999, trong bài viết Qua tư liệu địa phương bổ sung
thêm chính sử, tác giả Nguyễn Đức Nhuệ đã chỉ rõ bản gia phả họ Bùi tại xã Hoằng Lộc
có giá trị lớn về sử liệu, đặc biệt là việc chép khá chi tiết về hành trạng Thượng thư Bùi
Khắc Nhất (1533- 1609) - một trọng thần triều Lê trung hưng. Năm 2001, trong Thông
báo văn hóa dân gian, tín ngưỡng thờ Thành hoàng và lễ hội tại Hoằng Lộc cũng được
tác giả nhắc đến trong bài viết Vài nét về hình thức sinh hoạt lễ hội ở một làng xứ
Thanh.
Bên cạnh đó, một số tác phẩm của các tác giả khác cũng đề cập đến một vài
khía cạnh chúng tôi quan tâm nghiên cứu như cuốn Thực hư nhân vật Trạng Quỳnh
(Huy Sanh) hay bài viết của Minh Tuý đăng trên Tạp chí Dân tộc và thời đại: Bảng
Môn Đình: nét đặc sắc của đất học Hoằng Hoá (số 71, tháng 10/ 2004), tác giả
Nguyễn Trung Liên có Chợ Quăng một chợ quê với bề dày lịch sử và văn hóa in

×