Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa thời kỳ Trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.57 KB, 66 trang )

Tiểu luận: Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa
thời kỳ Trung đại
THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA TRUNG HOA THỜI KỲ TRUNG ĐẠI
MỞ ĐẦU
Trong thế giới cổ đại phương Đông xuất hiện bốn nền văn hóa lớn gồm Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Hoa. Sự xuất hiện của bốn trung tâm văn hóa lớn và
những thành tựu văn hóa và các quốc gia cổ đại này đạt được đã đánh dấu một
bước tiến dài của xã hội loài người trong tiến trình phát triển của văn minh nhân
loại.
Một trong bốn trung tâm văn hóa lớn đó là Trung Hoa. Mặc dù văn minh Trung
Hoa được xem là nền văn minh xuất hiện sớm trên thế giới nhưng so với các trung
tâm văn minh khác ở phương Đông thì xuất hiện muộn hơn (khoảng cuối thiên niên
kỉ thứ III TCN). Tuy vậy, không trầm mặc, cổ kính như Ấn Độ, huyền bí như Ai
Cập mà văn hóa của Trung Hoa thời cổ - trung đại này mang những sắc thái riêng
và đậm màu sắc Trung Hoa (cổ - trung đại).
Một nền văn hóa phát triển rực rỡ và những thành tựu văn hóa mà Trung Hoa đem
lại không những có giá trị to lớn ở thời kì cổ trung đại mà còn có giá trị ở cả thời kì
sau này. Điều này được thể hiện rõ khi nghiên cứu và làm rõ những giá trị của
những thành tựu văn hóa cũng như sức ảnh hưởng của nó đến văn hoá của các quốc
gia khá
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở hình thành nền văn minh Trung Hoa và những thành tựu
văn hóa Trung Hoa thời cổ - trung đại
1.1. Khái quát về cơ sở hình thành nền văn minh Trung Hoa
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Lãnh thổ Trung Hoa thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều. Địa hình Trung Hoa đa
dạng, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các
bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.Trung Hoa có
rất nhiều sông trong đó có hai con sông quan trọng nhất là Hoàng Hà và Trường
Giang (hay sông Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây- đông.
Những con sông này chảy qua đồng bằng làm cho đất đai phì nhiêu, tạo cơ sở cho


kinh tế nông nghiệp sớm phát triển. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái nôi của
nền văn minh Trung Hoa.
Lịch sử cổ đại Trung Hoa kéo dài gần 2000 năm (từ khoảng thế kỉ XXI TCN đến
năm 221 TCN). Trong quá trình đó, địa bàn của Trung Hoa từ lưu vực Hoàng Hà
đã dần dần được mở rộng. Tuy vậy, cho đến thế kỉ III TCN, phía bắc cả biên giới
Trung Hoa chưa vượt qua dãy Vạn lí Trường Thành ngày nay, phía tây mới đến
tỉnh đông nam của tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc
theo hữu ngạn Trường Giang.
1.1.2. Lịch sử
Con người đã sinh sống ở đất Trung Hoa cách đây hàng triệu năm.
Dấu tích người vượn ở hang Chu Khẩu Điếm (gần Bắc Kinh) có niên đại cách đây
hơn 500.000 năm.
Cách ngày nay khoảng hơn 5000 năm, xã hội nguyên thuỷ ở Trung Hoa bước vào
giai đoạn tan rã, xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời. Giai đoạn đầu, lịch sử Trung
Hoa chưa được ghi chép chính xác mà chỉ được chuyển tải bằng truyền thuyết.
Theo truyền thuyết, các vua đầu tiên của Trung Hoa là ở thời kì Tam Hoàng ( Phục
Hy, Nữ Oa, Thần Nông ) và Ngũ Đế ( Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu
đế, Thuấn đế ). Theo các nhà nghiên cứu, thực ra đây là giai đoạn cuối cùng của
thời kì công xã nguyên thuỷ.
1.1.3. Dân tộc
Trung Hoa có nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày
nay tự cho tổ tiên họ gốc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông
Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.(Dân núi Hoa sông Hạ).có 100 dân tộc ở Trung
Hoa ngày nay, có 5 dân tộc đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng.
Dưới thời quân chủ, ở Trung Hoa tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng thời
người Trung Hoa cổ đại cho rằng nước họ là một quốc gia văn minh ở giữa xung
quanh là các tộc người lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung, Địch. Vì vậy, đất nước của
họ còn được gọi là Trung Hoa hoặc Trung Hoa. Điều đó chứng tỏ tinh thần tự hào
dân tộc sớm hình thành từ thời cổ đại.
1.2. Những thành tựu chủ yếu của Trung Hoa thời cổ trung đại

Trung Hoa là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ - trung đại.
Văn minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương
đông.
1.2.1. Về chữ viết:
Chữ viết ở Trung Hoa cũng phát triển qua các thời kì :
Theo truyền thuyết, từ thời hoàng đế, sử quan Thương Hiệt đã sang tạo ra chữ viết.
Sự thực, đến đời Thương, chữ viết của Trung Hoa mới ra đời. Loại chữ viết đầu
tiên này khắc trên mai Rùa và xương thú, được phát hiện lần đầu tiên năm 1899 và
được gọi là chữ giáp cốt.
Sở dĩ chữ đời Thương được khắc trên mai Rùa và xương thú (chủ yếu là xương
quạt của bò) vì đó là những quẻ bói. Người Trung Hoa lúc bấy giờ mỗi khi muốn
bói việc gì thì khắc nhưng điều muốn bói lên vai giờ hoặc xương thú, đục lỗ lở giữa
rồi nung, sau đó theo những đường rạn nứt để đoán ý của trời đất qủy thần.
Phương pháp cấu tạo chữ giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình. Ví dụ:
Chữ “nhật” (mặt trời) thì vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có một chấm.
Chữ “ sơn” (núi) vẽ ba đỉnh núi.
Chữ “ thủy” ( nước) thì vẽ ba lần sóng.
Dần dần do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm trừu tượng trên cơ sở
phương pháp tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và âm thanh.
Cho đến nay đã phát hiện được hơn 100.000 mảnh mai Rùa Và xương thú có khắc
chữ giáp cốt. Tổng số chữ giáp cốt đã phát hiện được có khoảng 4500 chữ, trong đó
đã đọc được 1700 chữ. Chữ giáp cốt đã ghép được những đoạn văn tương đối dài,
có đoạn dài trên 100 chữ.
Đến thời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết
tiêu biểu thời kì này là kim văn cũng gọi là chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông
đỉnh). Ngoài đồ đồng chữ viết thời Tây Chu còn được viết trên trống đá thẻ tre.
Các loại chữ viết đầu tiên này được gọi chung là đại Triện cũng gọi là cổ văn thời
Xuân thu - Chiên quốc do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không
thống nhất. Đến thời Tần, Lí Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với chữ của
nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất gọi là chữ tiểu

Triện.
Cuối thời Tần Thủy Hoàng (221- 206 TCN) đến thời Hán Tuyên Đế (73- 49 TCN)
xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là chữ lệ. Chữ lệ khác với chữ triện (còn giữ lại
nhiều yếu tố tượng hình, do đó có nhiều nét cong, nét tròn ) còn chữ lệ thì biến
những nét đó thành : ngang, bằng, sổ, thẳng, vuông khúc ngay ngắn. Thời gian sử
dụng chữ lệ không lâu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là giai đoạn quá độ để
phát triển thành chữ Chân tức là chữ Hán ngày nay.
1.2.2. Về văn học
Văn học Trung Hoa là một nền văn học rất phong phú và đa dạng, phát triển linh
hoạt qua mỗi thời kì lịch sử mỗi vương triều.
* Thời cổ đại
Trước khi thống nhất các vương triều, văn học thời kì này quen gọi là TiềnTần,
trong nền văn học Trung Hoa đã xuất hiện nhiều tác phẩm kiệt xuất, trong đó nổi
tiếng nhất là bộ Kinh Thi và sở Từ
- Kinh thi là bộ tổng tập thơ ca đầu tiên của Trung Hoa, tập thơ cổ nhất của văn học
Trung Hoa được viết dưới thời Chu. Kinh thi gồm những bài thơ, ca dao, dân ca,
của nhân dân lao động và tầng lớp quý tộc (305 bài) ngoài ra có 6 bài gọi là Sinh
thi (bài hát co tiếng sinh đệm theo) có đề mục mà không có lời.
- Sở Từ là tác phẩm của nhà thơ nổi tiếng Khuất Nguyên (340-278), người nước sở,
vào thời Chiến quốc.
Sở từ là một thể thơ mới sau Kinh thi. Thời bấy giờ, ở vùng Giang hán lưu hành
một loại dân ca câu dài, câu ngắn với hình thức tương đối tự do, hay dùng chữ
“Hề”. Khuất Nguyên đã dung hình tức ấy để sang tác Li Tao, đó là Sở từ hay cũng
gọi là “Tao thể”. Sở từ gồm Li Tao, Cửu Chương, Cửu Ca, Thiên Vấn và Chiêu
Hồn, trong đó giá trị nhất và hay được nhắc đến là Li Tao.
Với di sản văn học để lại cho hậu thế Khuất Nguyên được khẳng định là nhà thơ vĩ
đại đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Những bài thơ tràn đầy tình cảm nồng nhiệt
của ông Tao thể” mà ông sang tạo đã làm cho sức biểu hiện thơ ca cực kì phong
phú. Thủ pháp lãng mạn mà ông vận dụng trong Li Tao đã ảnh hưởng sâu xa đến
sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển Trung

Hoa. Li tao đã trở thành biểu tượng của thơ ca Trung Hoa.
* Thời kì trung đại:
Văn học Trung Hoa phát triển đến đỉnh cao là ở thời kì này, với các thể loại nổi
bật: Phú (Hán), thơ (Đường), Từ (Tống), Kịch (Nguyên), Tiểu thuyết (Minh-
Thanh).
Thơ Đường: chiếm vị trí nổi bật trong các thành tựu văn hóa Đường, là đỉnh cao
của văn hóa Trung Hoa và nhân loại thời bấy giờ (VII-IX),với 50000 bài thơ của
2300 thi sĩ thể hiện bằng những quy phạm chặt chẽ. Trong hằng hà sa số các nhà
thơ đó, nổi tiếng nhất là 3 nhà thơ lớn: Lý Bạch, Đỗ Phủ, và Bạch Cư Dị
+ Những kiệt tác của thơ đường tiêu biểu: “Trường hận ca” và “Tỳ Bà Hành”.
- Tiểu thuyết: đặc biệt phát triển vào thế kỉ XIV-XVIII. Thời kì này thuộc hai triều
đại Minh (1368-1644) và Thanh (1644-1911) bởi vậy còn gọi là tiểu thuyết Minh
Thanh, hay tiểu thuyết chương hồi, vì thể loại của nó là chương hồi, mỗi hồi ứng
với một buổi kể, nhiều hồi thành một chương, ứng với một câu chuyện. Từ đời
Tống (thế kỉ 12, 13) đã xuất hiện các chuyện kể. Thời này kinh tế thương nghiệp
phát triển, nhiều đô thị lớn hình thành. Trong các hội hè thường xuất hiện các nghệ
nhân kể chuyện. Họ kể đủ thứ chuyện nhưng nhiều hơn cả là chuyện lịch sử xa
xưa, chuyện các hảo hán anh hùng đã đi vào truyền thuyết, chuyện các nhà sư đến
Ân Độ Mang kinh Phật về dịch và truyền bá, chuyện tình duyên của các tài tử giai
nhân…Các nhà văn thời Minh và Thanh đã sưu tầm các chuyện kể ấy gia công
thêm bất trâu văn chương, hình thành hàng rong hơn loạt bộ tiểu thuyết có giá trị.
Trong hơn 300 bộ tiểu thuyết thời bấy giờ, có các tác phẩm lớn và nổi tiếng:
+ Thủy Hử (Thi Nại Am): truyện kể về một số nhân vật anh hùng cuối thời Bắc
Tống, vạch trần tội ác của xã hội phong kiến; Biểu hiện lòng bất mãn và ý chí phản
kháng của quần chúng nhân dân lao động.
+ Tam quốc chí diễn nghĩa (La Quán Trung): Tác phẩm được sáng tác trên cơ sở
tiếp thu thành quả kể chuyện dân gian và nghệ nhân kể chuyện, cùng những căn cứ
sự thật lịch sử. Tất nhiên, tác phẩm cũng không thiếu chỗ hư cấu, song hư cấu
nhưng về cơ bản là hợp tình, hợp lí, và đậm đà tính nghệ thuật chân thực. Cho nên,
có ý kiến cho rằng, trong Tam quốc chí diễn nghĩa “bảy phần sự thực, ba phần hư

cấu”.
Tác phẩm kể lại lịch sử gần một thế kỷ- từ năm 184- 280 SCN, chủ yếu khắc họa
cuộc đấu tranh giữa ba tập đoàn chính trị: Ngụy, Thục, Ngô.
+ Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân): tác phẩm được sáng tác trên cơ sở câu truyện dân
gian, với trí tưởng tượng phong phú, lạ lùng.
Nội dung Tây Du Ký kể chuyện về Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung và thầy trò
Đường Tăng, trải qua nghìn vạn khó khăn , hiểm trở đến Tây Thiên lấy kinh.
+ Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần).
1.2.3. Sử học
Đến thời Tây Hán sử học mới trở thành một lĩnh vực độc lập mà người đặt nền
móng là Tư Mã Thiên.
Với tác phẩm Sử kí, bộ thông sử đầu tiên của Trung Hoa, Tư Mã Thiên đã ghi chép
lịch sử 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế, trong đó chia làm năm
phần là bản kỉ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện.
Tuy rằng quan điểm lịch sử của Tư Mã Thiên chủ yếu là quan điểm của giai cấp
phong kiến, nhưng qua sử kí, Tư Mã Thiên đã bộc lộ nhiều tình cảm với nhân dân,
ca ngợi sự tích anh hung và mỉa mai châm biếm những việc làm bạo ngược của bọn
vua chúa.
Sau sử kí, trong giai đoạn từ Hán đến Nam- Bắc triều có hán thư của Ban Cố, Tam
quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Việp …
Bắt đầu từ thời đường trên lĩnh vực sử học có hai vấn đề mới, đó là việc thành lập
cơ quan biên soạn lịch sử của nhà nước- gọi là “ sử quán” và việc ra đời những tác
phẩm lớn với những thể tài mới. Chính Quốc sử quán thời Đường đã soạn được cấc
bộ sử Tấn thư, Luơng thư, Trần thư, Bắc Tề thư, Chu thư,…Từ đó về sau, các bộ
sử của các triều đại đều do nhà nước biên soạn. Tông sử, Nguyên sử, Minh sử…
Bên cạnh những bộ sử, các triều đại còn có một số tác phẩm lớn viết theo các thể
tài khác như Sử thông của Lưu Tri Cô, Thông điển của Đỗ Hữu thời Đuờng, Tư trị
thông giám của Tư Mã Quang đời Tống.
Thời Minh- Thanh, cơ quan chép sử của nhà nước cũng biên soạn được nhiều tác
phẩm như: Minh thực lục, Minh sử, Đại Minh nhất thống chí, Thanh thực lục, Đại

Thanh nhất thống chí,…
Ngoài ra, những tác phẩm sử học do các sử gia khác viết theo các thể biên niên, kỉ
sự bản mạt, tạp sự, bút kí…cũng rất nhiều.
Những bộ sách trên là những di sản văn hoá vô cùng quý báu của Trung Hoa và có
giá trị lịch sử rất lớn.
1.2.4. Về Tư tưởng - Triết học
1.2.4.1. Một số học thuyết tiêu biểu của Triết học Trung Hoa cổ- trung đại
a. Thuyết Âm - Dương :
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể
mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong
từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất,
trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.
Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến
hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ
tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương,
thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế
lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt
ra "thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm
trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến
hoá và phát triển của sự vật.
Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô
hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu
hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây
cỏ, đều được qui vào âm dương.
+ Ví dụ : về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân,

hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng,
ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ; Âm là
mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa
nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống
của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
+ Tư tưởng triết học về Âm - Dương :
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và
phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau : Âm và
Dương.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự
thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn
vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về
sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng
biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý : Dương tiến
đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì Âm sinh”, “Âm
thịnh thì Dương khỏi”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của
vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái cực sinh Lưỡng nghi
(Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương
– Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn - Khảm - Cấn - Chấn -Tốn - Ly - Khôn
- Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong
tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một
thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn, Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị
tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của một tác giả mà là của nhiều bậc trí thức
ở nhiều thời đại với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành”

của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b. Thuyết Ngũ hành :
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu
trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương hoàn bị hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo
nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa thì
bùng cháy, bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.
Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi
là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm
hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ.
Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá
phức tạp của sự vật.
- Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem ngũ
hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn
nhau.
Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim,
kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát
triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa
là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra,
tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra
mộc vậy mộc là con của Thuỷ.
Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng,
giữ gìn lẫn nhau.
- Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật
tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim,

kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái.
Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng,
nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác thường.
Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái nó
thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó.
Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương
sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
- Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá
bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với
nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có
sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại.
Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành liên tục, tương phản,
tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là:
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc khắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằng
tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không
đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi
hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái
bị nó khắc.
Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc
thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như
con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc
nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng.
Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trong thiên nhiên.

Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ nhìn hành
mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ
có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc mộc. Như vậy mộc
sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do
đó mộc giữ vững cương vị.
c. Thuyết Bát quái :
Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo thành bởi 8 nhóm sự vật, hiện
tượng khác nhau.
Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời.
Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả.
Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho phần
Dương.
Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho phân Âm.
Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm gọi là
Dương Nghi và Âm Nghi.
+ Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn Dương nên
gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên trên Dương
Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu Dương (Thiếu có nghĩa
là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì thành Toàn Âm gọi là Thái
Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta có một Âm làm chủ ở bên dưới
gọi là Thiếu Âm.
Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm.
Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương thể hiện Âm
trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong Âm có mầm
Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch Dương mới sinh ở
dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương với hai gạch Dương là
Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu Âm có một Âm mới sinh ở
dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái Âm với hai gạch Âm là Âm đã toàn
thịnh.
Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn được gọi

là Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính của hoạt động Âm
Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát Quái được thực hiện
theo thứ tự hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước, Âm sau, tay mặt trước, tay trái
sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau : Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm,
Cấn, Khôn.
Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy.
Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.
Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy.
Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy.
1.2.4.2. Một số trường phái tư tưởng tiêu biểu
a. Nho gia
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập
là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử
và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy
tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong
lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung,
Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách này hầu
hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu
hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho
gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng
của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi
là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn
nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ.
Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.

Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội
đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng
một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi
hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi
thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp
quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
"đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo
dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng
giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là "Nhân". Những chuẩn mực khác
như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những
vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung
Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết
Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này, nhưng nổi bật là quan
điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính
bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh
ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng là tiên
thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng - Mạnh) đề cao
sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo
đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người
vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở thành
thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người, Tuân Tử
chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn.
Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ thuộc vào

mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa
mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi vật
đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là
yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại
cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh).
Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi
hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ,
Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một
điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế,
một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại
nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không
đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà
có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết) và “hạ
ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có
trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và
“ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi
xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không
phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học
phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết mới;
học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm
học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi
trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học
thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng...cùng với một hệ thống quan
niệm về chính trị - xã hội như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”,
“tiểu nhân”...
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình.
Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu
tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với

nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng
đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư tưởng bao
trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những
phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật
Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp...Lễ được coi
là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng
Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành
một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cương. Để làm
đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho
ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên ); “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn
phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy
lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19)...Theo Khổng Tử,
muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh không chính thì
lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành công; sự việc
không thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình
phạt không đúng; hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử
Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu, Khổng
Tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính
bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết
thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất
thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán
và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử Lộ). Việc ông mở trường dạy
học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức tham gia vào công
cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục
đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm như
vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà dùng đức

cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao khác đều chầu
đến.
*Tóm lại:
So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống
hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung
Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính
thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung
đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà
Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư
(thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống).
Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu
hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của Nho
gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai
cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản
và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các quan
điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ
Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung
bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm
về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói:
Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự
kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng
triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời
Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần
nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
b. Đạo gia
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học thuyết của
ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo
hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu

chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của Đạo
gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội
nguồn của Đạo.
- "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không thể tách
rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy,
có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại.
"Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo pháp tự
nhiên".
Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về
những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống
nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan niệm về
"Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" (cân bằng
và quay trở lại cái ban đầu).
- Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của
nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo gia
không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu
thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn,
coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm tư tưởng về
sự phát triển.
Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi không phải là
cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản
tính tự nhiên của "Đạo".
c. Mặc gia

Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng lập thời
Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một
trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên
mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu...không phải là do định
mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì
ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên
mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận
thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó
là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng tiểu
nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân
sơ...trong học thuyết "Nhân". Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau, không
phân biệt thân sơ, đẳng cấp...
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện
nhận thức luận.
d. Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những luật
lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn
dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo
đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng Pháp trị của
Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
+ Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách quan mà
ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại và
không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có "Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau

của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến hóa và phát triển. Từ đó,
ông yêu cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan,
mà còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
+ Về lịch sử:
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể có chế
độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi xã
hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn
đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình độ nhất định của sản
xuất và văn minh. Đó là:
- Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu chín
thức ăn.
- Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
- Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và
của cải xã hội.
+ Về thuyết "Tính người":
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết luân lý cá
nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi...Kẻ thống trị
phải nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng,
nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
+ Tư tưởng về pháp trị.
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết
Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng phản
đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị
quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó
pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện
chính sách đó.
- "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là quy
định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân thủ; theo
nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì vậy, pháp

được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp cho mọi
người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
- "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
- "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua
nhằm lấy danh mà tránh thực
1.2.5. Về khoa học tự nhiên
Cách ngày nay trên 4000 năm, khoa học tự nhiên của Trung Hoa đã có những thành
tựu rực rỡ:
* Thời cổ đại:
Thiên văn học:
Ra đời từ rất sớm và đạt được nhiều tiến bộ ở thời Xuân thu - Chiến quốc (770 –
221 TCN). Đó là sự ghi chép lại các lần nhật thực (37 lần trong vòng 242 năm ( nay
đã chứng minh được 33 lần hoàn toàn chính xác)), các vì tinh tú ( 800 vì tinh tú,
trong đó có 120 vì tinh tú được xác định). Bảng ghi chép các hành tinh của người
Trung Hoa - “Cam Thạch Tinh” có từ thời Xuân Thu, được coi là bảng ghi chép
các vì sao xưa nhất thế giới.
Thế kỉ VII TCN, người Trung Hoa đã biết dung một cái “cọc” đứng để đo bóng
mặt trời (gọi là Thổ khuê), qua đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí, làm
cho cách tính lịch ngày càng chính xác.
Lịch:
Yêu cầu của hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho người Trung Hoa biết làm
lịch từ rất sớm. Đến đời Thương, họ đã phát minh ra lịch- âm lịch( lịch kết hợp với
vòng quay của mặt trăng xung quanh quả đất với vòng quay của quả đất xung
quanh mặt trời. Để tính năm, tháng, tháng thiếu, tháng đủ, họ lấy tuần trăng tròn và
trăng khuyết để tính.
Theo đó một năm được chia làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29
ngày. Người đời Thương đã biết thêm tháng nhuận để cho khớp với vòng quay của
quả đất xung quanh mặt trời. Lịch pháp âm lịch, cho đến nay, vẫn còn đang được
sử dụng song song với dương lịch ở Trung Hoa( kể cả ở Việt Nam và một số nước
khác ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa).

Y học :
Từ thời Chiến Quốc các thầy thuốc Trung Hoa đã biết giải phẫu cơ thể người biết
nội tạng và bộ máy tuần hoàn của người; chuẩn đoán bệnh qua bắt mạch; châm
cứu, sắc thuốc để chữa bệnh. Đặc biệt, thời kì này đã xuất hiện nhiều cuốn sách có
tính chất tổng kết về Y học và dược học, như: “ Hoàng đế nội kinh”, “ Sơn hải
kinh”…
Ngoài các lĩnh vực khoa học trên, những tri thức về toán học, lý học, nông học,
sinh vật học cũng đạt tới trình độ cao.
* Thời trung đại
+ Bốn phát minh lớn
Giấy: do Do Thái Luân phát minh ra vào thời Đông Hán ( thế kỉ VIII SCN )
Đến thời Đường, kĩ thuật làm giấy đã hoàn chỉnh: pha thêm hồ bột với nhựa cây,
tạo ra giấy chắc hơn và dễ thấm mực. Giấy làm được nhiều màu khác nhau (trong
khi đến thế kỉ 13 ở châu Âu vẫn viết trên da cừu).
Nghề in
Bắt nguồn từ thói quen kí tên bằng con dấu
Lúc đầu là in chữ liền: khắc chữ lên bảng gỗ, cứ một bảng là một tờ giấy nên rất
tốn kém
Thời Tống chuyển sang kĩ thuật in chữ, khắc trên đất sét rồi đem nung ( trong khi
châu Âu đến thế kỉ 15 kĩ thuật in chữ mới ra đời)
Kĩ thuật in này có hạn chế là chữ xấu, không rõ màu. Kĩ thuật này sau đó được
truyền bá sang Triều Tiên. Người triều đã cải tiến, thay chữ rời bằng đất sét nung
rồi đến chữ rời bằng đồng. Thứ chữ này lại được truyền bá trở lại Trung Hoa.
La Bàn
Có từ rất sớm, khoảng thời Tây Chu
Thời Chiến quốc ( cuối thời Đông Chu), Người Trung Hoa đã tìm ra nam châm ( từ
thạch). Cửa ra vào của cung A Phòng của Tần Thủy Hoàng có gắn một thanh nam
châm rất lớn, ai mang vũ khí đi qua sẽ bị hút lại )
Đến thời Đường thì La bàn đã khá hoàn chỉnh ( phát hiện ra thêm tính chất sắt
nhiễm từ).

Thời Nguyên: La bàn đã hoàn chỉnh ( được Crixtop Colombo sử dụng ) sau đó
truyền bá sang châu Âu, và chính nhờ hệ thống La bàn này mà người châu Âu mới
thực hiện được những phát kiến địa lí.
Thuốc súng
Phát minh rất tình cờ, ngẫu nhiên. Người Trung Hoa quan niệm con người có thể
trưởng sinh bất tử. thời Nam Bắc triều có rất nhiều đạo sĩ tìm cách chế tạo thuốc
trường sinh bất tử ( từ diêm sinh, lưu huỳnh, than củi…, họ tình cờ để lửa bén vào
gây nổ ).
Đến thời Đường, thuốc nổ mới chỉ được sử dụng để làm pháo. Đến thời Tống mới
dùng để làm đạn lửa, cầu lửa.
Người châu Âu đã nhanh chống tiếp thu và sử dụng phát minh này của người Trung
Hoa một cách hữu hiệu để làm súng trường, hỏa mai…Thứ vũ khí này đã góp phần
phá vỡ nền tảng phonmg kiến ở châu Âu đẩy nhanh quan hệ TBCN (vì chỉ có dùng
thuốc nổ mới có thể phá được lâu đài của phong kiến. Thuốc súng còn đóng vai trò
quan trọng trong các cuộc phát kiến địa lí của châu Âu.
*Không kể bốn phát minh quan trọng, đóng góp cho nền văn minh nhân loại đã nói
ở trên, thời trung đại, trên cơ ở kế thừa những thành tựu rực rỡ của thời cổ đại,
Trung Hoa đã có những cống hiến xuất sắc cho nền văn minh của nhân loại ở các
lĩnh vực toán học, thiên văn học và y dược.
* Toán học
Từ thời hán truyền lại có quyển Cửu chương toán thuật trong đó nêu ra các phương
pháp tính ruộng tích ruộng đất theo các hình thức khác nhau, tính khối lượng đất
đắp thành đào hào, tính toán tiền khi mua bán gia súc, lương thực….Trong khi tính
toán các vấn đề nói trên, sách này đã đề cập đến một số mặt của đại số học, như
phương pháp giải phương trình bậc một có chứa nhiều ẩn số …
Đến thời Nam- Bắc triều, Tổ Xung Chi (429- 500) lại có một cống hiến lớn về toán
học. Ông đã tìm được số Pi chính xác có 7 số lẻ nằm giữa hai số 3,1415926 và
3,1415927. Phát minh này của Tổ Xung Chi sớm hơn những nhà toán học các nước
khác trên 1000 năm. Vì vậy, có học giả Nhật Bản đề nghị gọi số Pi là “số Tổ”.
*Thiên văn học

Trung Hoa vốn có nhiều hiểu biết từ rất sớm. Từ thời Tần Hán, người Trung Hoa
đã phát minh ra nông lịch, tức là chia một năm thành 24 tiết để căn cứ vào đó nông
dân biết các thời vụ sản xúât. Đồng thời phép làm lịch ngày càng tiến bộ , do vậy từ
thời Tây Hán về sau, các triều đại đã nhiều lần điều chỉnh lịch, nên ngày một chính
xác.
Nhà Thiên văn học nổi tiếng thời Đông Hán là Truơng Hành (78- 139). Ông đã biết
ánh sang của mặt trăng là nhận từ mặt trời. Ông cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ
trứng mà quả đất thì như lòng đỏ, một vòng của bầu trời là 365◦ ¼ một nửa ở trên
quả đất, một nửa ở dưới quả đất. Căn cứ theo suy nghĩ ấy của mình, ông làm một
mô hình thiên thể gọi là “ hồn thiên nghi ”. Khi mô hình này chuyển động thì các vì
sao trên đó cũng di chuyển giống như tình hình thực ngoài bầu trời.
Trương Hành còn có nhiều hiểu biết về địa lí- địa chất học. Ông chế được một
dụng cụ đo động đất gọi là “ địa động nghi”, có thể đo một cách chính xác phương
hướng của động đất.
*Y dược
Từ thời Hán đã xuất hiện nhiều thầy thuốc giỏi và nhiều sách thuốc. Thương hàn
luận nói về cách chữa bệnh thương hàn của Trương Trọng Cảnh cho đến nay vẫn là
liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Hoa. Thầy thuốc nổi tiếng
nhất cuối thời Đông Hán là Hoa Đào ông là người đầu tiên ở Trung Hoa đã biết
dung phẫu thuật để chữa bệnh. Ông còn chủ chương phải luyện tập than thể cho
huyết mạnh được lưu thong và chính ông đã soạn ra bài thể dục “ ngũ cầm hí” tức
là động tác bắt trước năm loài động vật là Hổ, Hươu, Gấu, Vượn và Chim
Đến thời Minh nhà Y học nổi tiếng là Lý Thời Trân. Tác phẩm Bản thảo cương
mục của ông là một quyển sách thuốc rất có giá trị tác phẩm giới thiệu 1.558 vị
thuốc do người đời trước tìm ra, và them vào 374 viên thuốc mới. Tác giả đã phan
loại một cách khoa học, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các cây
thuốc đó. Vì thế, sách này không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là
một tác phẩm thực vật học quan trọng. Sự ra đời của quyển Bản thảo cương mục đã
đẩy ngành y dược của Trung Hoa phát triển trên một bước rất lớn
.1.2.6. Về nghệ thuật.

Hai lĩnh vực đạt nhiều thành tựu là kiến trúc và hội hoạ
1.2.6.1. Kiến trúc
Những công trình kiến trúc của Trung Hoa cổ trung đại có những đặc điểm :
- Sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau và chủ yếu là vật liệu bằng gỗ
- Kiến trúc bao giờ cũng có nhiều mái, thường theo lối mái cong.
- Từng quần thể kiến trúc có hình thức độc đáo .
- Hình tượng kiến trúc và trang trí kiến trúc đại để, rung động lòng người.
- Phong cách dân tộc và phong cách địa phương muôn màu muôn sắc.
- Bố cục đạt tính nghiêm chỉnh và linh hoạt
- Phong cách độc đáo và trình độ nghệ thuật cao
- Kĩ thuật thi công và phương pháp thiết kế tiên tiến của thời cổ đại
- Gắn liền với kiến trúc là điêu khắc. trên các công trình kiến trúc có nhiều tác
phẩm điêu khắc
- Nhìn chung thời Tần Hán, thời Ngụy Tấn, Nam – Bắc triều, thời Đường, Thời
Tống và thời Minh Thanh là những thời kì có nhiều công trinh kiến trúc tiêu biểu
nhất
* Những công trình kiến trúc tiêu biểu
+ Vạn lí trường thành: do 3 nước Tần, Yên, Triệu thời Chiến quốc xây dựng nhằm
ngăn chặn thời hung Nô từ phương Bắc tràn xuống. Khi Tần Thuỷ Hoàng thống
nhất Trung Hoa đã cho nổ 3 đoạn thành lại dài hơn 5000 km, cao từ 6- 12m rộng 5-
10m, cứ 360 m có một tháp canh.
+ Cố đô Bắc Kinh (Tử Cấm Thành ): Xây dựng khoảng 1406- 1420 ( đời vua Vĩnh
Lạc) Cố Kinh từ đó trở thành nơi ở của 24 triều vua Minh Thanh. Hiện nay vẫn còn
100 toà cung điện, và 8600 gian. Trong quần thể kiến trúc này lớn nhất là điện Thái
Hoà ( nơi tổ chức thi đình, yến tiệc, đón khách) và điện Trung Hoà (nơi vua và các
quan chuẩn bị cho buổi thuyết triều).
+ Di Hoà Viên: một vườn hoa xây dựng cách thành phố Bắc Kinh 18km về phía tây
bắc xây dựng vào thời Minh Thanh.
+ Định Lăng: ngôi mô của vua Vạn Lịch được xây dựng trong khu thập tam lăng, ở
phía tây bắc thủ đô Bắc Kinh. Đặc điểm cách 14km/1km tường bao quanh. Khu

thập tam lăng có nhiều kiến trúc như nhà thờ nhà để bia.
* Điêu khắc
Nghệ thuật điêu khắc Trung Hoa gắn bó chặt chẽ với tập tục tôn giáo. Về chất liệu
phần lớn các tác phẩm điêu khắc Trung Hoa tạc bằng đá hoa cương. Nhiều bức bộ
tượng nhỏ được tìm thấy trong bức tượng người chết đời Đường. Nhiều di tích điêu
khắc phật giáo cổ được giữ gìn trong các đền thờ trong hang đá. Tìm thấy các bức
tượng Phật tạc trên đá tảng. Khác với phật của Ấn Độ siêu thoát khỏi trần tục, Phật
của Trung Hoa người hơn trần thế hơn.
Ở Trung Hoa cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc
điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn
đại Phật đời Tây Hán ( pho tượng cao nhất thế giới ), tượng Phật nghìn mắt nghìn
tay.
1.2.6.2. Hội hoạ
Hội hoạ Trung Hoa có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản
hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các
nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm
hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ.
Các hang đá còn lưu lại những hình vẽ trên vách về chủ đề các lời răn của phật.
Bức hoạ Trung Hoa đặc sắc với các gam màu vàng tranh
Chương 2: Những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đến thế giới, chủ yếu ở
Đông Bắc Á và Việt Nam.
2.1. Ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đối với thế giới
Trong suốt 3500 phát triển, nền văn hóa vĩ đại của Trung Hoa đã có nhiều lần vượt
lên trên nền văn hóa các nước khác. Chính người Trung Hoa đã cống hiến cho nhân
loại cách sản xuất ra giấy, kĩ thuật in ấn, chế ra thuốc nổ và la bàn. Xuyên suốt lịch
sử phát triển văn hóa Trung Hoa là khát vọng trường kì hoàn thiện tư duy của nhân
loại. Nhà nước xuất hiện sớm cùng với những thành tựu lớn lao của nền văn hóa,
văn hóa Trung Hoa thời cổ trung đại đã làm cho Trung Hoa trở thành một trung
tâm văn hóa quan trọng trên thế giới, có ảnh hưởng rất lớn đến khu vực Đông Bắc
Á và Đông Nam Á (Việt Nam)Từ cuối thế kỉ XII đến thế kỉ XIII La bàn được

truyền sang A Rập,từ đó sang Châu Âu và đã đóng góp rất nhiều cho nghành hàng
hải thế giới.
Sau thế kỉ VI kĩ thuật làm giấy của Trung Hoa được truyền sangTriều Tiên,Việt
Nam và Nhật Bản. Đến thế kỉ VIII, phương pháp này qua Thổ Nhĩ Kì truyền vào A
Rập, sau đó được truyền sang châu Âu.
Kĩ thuật in ấn của Trug Hoa cũng dần được truyền sang các nước láng giềng như
Triều Tiên, Nhật Bản sau đó truyền sang A Rập và Châu Âu.
Vào thế kỉ XIII thuôc súng và vã khí mang thuốc súng của Trung Hoa đã lần lượt
đưa vào Ấn Độ, A Rập và vào cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỉ XIV được truỳên sang
châu Âu.
Ngoài bốn phát minh trên một số thành tựu khoa học kĩ thuật khác của Trung Hoa
cũng có ảnh hưởng nhất định đối với văn minh nhân loại. Thuật luyện đơn (bào chế
thuốc) của Trung Hoa sau khi truyền vào A Rập, đã góp phần thúc đẩy kĩ thuật chế
biến thuốc của nước này phát triển, sau đó kĩ thuật chế biến thuốc của Châu Âu lại
chịu ảnh hưởng của A Rập và nền khoa học hiện đại sau này chính là được phát
triển trên cơ sở kĩ thuật chế biến thuốc ở Châu Âu thời Trung Cổ.
Đồ sứ tinh sảo của Trung Hoa từ lâu đã nổi tiếng trên thế giới. Vào nửa cuối thế kỉ
XV, kĩ thuật làm đồ sứ của Trung Hoa đã được truyền sang Italia, mở ra một kỉ
nguyên mớ cho lịch sử ché tạo đồ sứ của Châu Âu và còn ảnh hưởng cho tới ngày
nay.
Nền văn học rực rỡ và đồ sộ của Trung Hoa cũng ảnh hưởng rất lớn đến thế giới
những tác phẩm văn học nổi tiếng ( Tam quóc diễn nghĩa, Tây du kí, Hồng lâu
mộng, Thuỷ Hử, Liêu trai chí dị, Kim bình mai), đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng
và được học giả nước ngoài đánh giá cao.
Nền nghệ thuật phong phú và thần bí của Trung Hoa đã khiến bao nhiêu triết gia và
nghệ thuật gia của Châu Âu thán phục. ở Thế kỉ XVIII. Nhà Khải mông tư tương
Pháp Voltaire đã gọi Trung Hoa của phương Đông là “cái nôi của nền nghệ thuật”.
Triết học Trung Hoa cung có ảnh hưởng sâu sắc ở châu Âu vào thế kỉXVII –
XVIII. Triết gia, Gottfdied Von Lebniz, người tiên phong của triết học cổ điển Đức
là triết gia đầu tiên nhìn ra tầm quan trọng của văn hoá Trung Hoa đối với sự phát

triển của châu Âu.
Ở Đức, trào lưu lấy “tôn giáo triết học” thay thế tôn giáo thần học cũng chịu ảnh
hưởng của văn hoá Trung Hoa.
2.2. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với Đông Bắc Á và Việt Nam
2.2.1.Ảnh hưởng của chữ viết
2.2.1.1. Đối với Việt Nam
Có nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỉ thứ I TCN,
ngay sau khi Trung Hoa chiếm xong Việt Nam. Trong suốt một nghìn năm, từ thế
kỷ thứ I TCN đến năm 938, tiếng việt bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chữ Hán (hay còn
gọi là chữ Nho). Trong suốt thời gian bắc thuộc với chính sách hán hóa của nhà
hán, tiếng Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt Nam đã chấp nhận
ngôn ngữ mới đó song song với ngôn ngữ tiếng Việt.
Việt Nam trước khi chữ Hán du nhập một số học giả cho rằng người Việt cho chữ
viết kiểu nút gọi là “chữ khoa đậu”. Theo các nhà nghiên cứu thì không phải người
Việt dùng kiểu thắt nút để trị quốc như các nhà sử học của Trung Hoa mà người
Việt có văn tự riêng của mình; bằng chứng là các văn tự được tìm thấy ở các văn
bia miền núi phía bắc có chữ viết ngoằn ngoèo như lửa nên goi là chứ Hỏa tự. Tiến
việt cổ đại cũng là một ngôn ngữ thuộc họ Mường- Khmer của Nam Á, khác hẳn
với hệ ngôn ngữ của tiếng Hán. Nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt
Nam vào khoảng thế kỷ I TCN, ngay sau khi Trung Hoa chiếm xong Việt Nam.
Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều
từ của tiếng Hán thành từ Hán - Việt. Từ đó đã có nhiều từ Hán – Việt đi vào trong
từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng hán của Việt Nam trong thời kỳ bắc
thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính Trung Hoa thời đó. Tuy
nhiên, năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng củn Ngô Quyền, Việt Nam đã độc lập
và không phụ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn ảnh hưởng
nặng nề của tiếng Hán. Sau ngày giành được độc lập, mặc dù tiếng Hán là ngôn
ngữ được sử dụng chính thức nhưng đã phát triển theo hướng khác với sự phát triển
tiếng Hán ở Trung Hoa. Tiếng Hán vẫn tiếp tục được dùng và phát triển nhưng
cách phát âm các chữ Hán lại theo cách phát âm của người Việt, hay âm Hán –

Việt.
Do nhu cầu phát triển, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết cho mình,
đó là chữ Nôm không phải là bộ chữ hoàn thiện, cũng giống như người Quảng
Đông vậy. Họ có thể viết chữ Hán Quảng Đông trong trò chuyện bình thường
nhưng họ cũng phải sự dụng chữ Hán chuẩn trong văn thư để tỏ lòng trân trọng, dù
đối tượng tiếp nhận văn thư là người Quảng Đông.
2.2.1.2. Đối với Triều Tiên
Đối với văn hóa một dân tộc, chữ viết đóng vai trò vừa là một thành tố của văn hóa,
vừa là nền tảng thúc đẩy văn hóa đó phát triển. Trong giai đoạn đầu hình thành nền
văn hóa, Triều Tiên chưa sáng tạo ra chữ viết riêng nên phải vay mượn chữ của
Trung Hoa. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ sử dụng chữ Hán một cách bê
nguyên xi mà biến đổi thành các loại chữ phù hợp với ngôn ngữ và văn hóa nước
mình.
Hán ngữ được du nhập vào bán đảo Triều Tiên khá sớm từ thiên niên kỷ thứ hai
TCN (nhưng cũng có nhiều học giả cho rằng từ thiên niên kỉ thứ IV-V) xuất hiện
các văn bản viết tay của người Hán. Các bản viết tay được sử dụng chữ Hán. Tiếng
Hán là thứ ngôn ngữ khó, dùng chữ Hán để viết tiền Triều Tiên trở nên phức tạp
cho nên các học giả người Hán đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm
đọc của tiếng Triều Tiên.
Vào khoảng thế kỷ XV, ở Triều Tiên xuất hiện chữ kí âm, được gọi là Hangul hay
Chosŏngŭl, chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm, cuối cùng chính
thức được dùng thay thế cho chữ Hán. Cho tới ngày nay Chosŏngŭl lúc ban đầu
gồm 28 kí tự, sau đó còn 24 kí tự giống như bảy chữ cái Latinh, và được dùng để kí
âm tiếng Triều Tiên. Tuy Chosŏngŭl đã xuất hiện nhưng chữ Hán vẫn còn được
giảng dạy trong trường học.
Tóm lại, từ việc sử dụng chữ Hán, người Triều Tiên đã sáng tạo ra chữ viết cho
riêng mình. “ngôn ngữ, văn tự là ngưng kết lao động sáng tạo của dân tộc trong
thời gian dài”. Còn đối với người Triều Tiên thì đó là thành tựu quan trọng không
gì sánh được trong lịch sử, văn hóa, một minh chứng xác thực nhất cho sự ảnh
hưởng và tiếp biến văn hóa Trunng Hoa.

2.2.1.3. Đối với Nhật Bản
Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên được gọi là Kanji
và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật Bản và
Triều Tiên vào khoảng thế kỷ IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên
khi chữ Hán du nhập vào Nhật người Nhật dùng chữ Hán để viết tiềng nói của họ.
Dạng chữ đầu tiên của người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ
Man – yogana. Hệ thống chữ viết này khá phức tạp. Man – yogana được đơn giản
hóa thành Hiragana và Katahana. Cả hai loại chữ này trải qua nhiều chỉnh lí và
hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay của Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được
viết bằng bốn loại kí tự chữ hán (Kanji) chữ mềm (Hiragana) chữ cứng (Katakara)
chữ Latinh (hay Rômaji).
Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm hán cổ,
được gọi là On – yomi và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun – yomi.
Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn sáng tạo ra một
số chữ ( khoảng vài trăm chữ ) và mỗi chữ này chỉ có một cách đọc theo âm tiếng
Nhật; các chữ này được gọi là Kôkuji.
Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo Dục Nhật đã đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ
Hán cơ bản trong trường học và được Quốc Hội thông qua năm 1947. Đến năm
1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm 1945 chữ thường
dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác, dùng để viết tên người. Đến năm 2000,
các chữ Hán dùng đẻ viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên 400
chữ các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng và
Bảng chữ Hán dùng để viết tên người.
2.2.2. Ảnh hưởng của Văn học
2.2.2.1. Đối với Triều Tiên
Cũng như chữ viết văn học Triền Tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn học Trung
Hoa song không vì thế mà nó bị xem là “ một phụ lục của văn hoc Trung Hoa”.
Ngược lại người Triều Tiên đã tạo ra một nền văn học phong phú, đa dạng mang
phong cách rất riêng và “đáng để các đất nước trong vùng Đông Á nể trọng”.
+ Tiếp biến về mặt hình thức

Về chữ viết: trong nền văn học Triều Tiên, dòng văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ
đạo xuyên suốt thời kì cổ trung đại. Đặc biệt từ giai đoạn vương triều Tân La các
học giả Triều Tiên xưa ca ngợi chữ Hán là “ chân thư”, là thứ chữ cao quý chữ viết
đặc thù của các nho sĩ tầng lớp trên trong xã hội. Văn học chữ Hán chiếm khối
lượng lớn và đồ sộ trong toàn bộ nền văn hoc Triều Tiên. Tuy nhiên từ sự tiếp biến
về mặt chữ viết các tầng lớp dưới trong xã hội đã sử dụng chữ IDU và chữ Hangul
để sáng tác tạo nên một dòng văn học riêng biệt.
Về mặt thể loại: Triều Tiên một mặt sử dụng các thể loại sáng tác trong văn hoc
Trung Hoa, mạt khác tạo ra những thể loại mới phù hợp với phong cách của mình
trong văn xuôi Triều Tiên sử dụng các thể loại của Trung Hoa: Sử kí, truyền kì, văn
biền ngẫu, tiển thuyết một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện. Thế kỷ XIV, xuất hiện
trong văn học Triều Tiên các tác phẩm theo lối truyền kì tiêu biểu như “ Kim ngao
tân thoại” (của Kim Thời Tập). Nhưng tiếp sau đó thế kỷ XV – XVII khi các tiểu
thuyết Minh – Thanh ra đời ngay lập tức nó cũng được vận dụng để sáng tác ở
Triều Tiên.
Trong thơ ca: hầu hết các thể thơ Trung Hoa đều được sử dụng để sáng tác ở Triều
Tiên.
Tuy nhiên, những thể loại văn hoc Trung Hoa không đủ để truyền tải những cảm
xúc tinh tế nên người Triều Tiên đã sáng tạo ra nhiều thể loại mới. Đặc biệt tới thời
kì vương triều Cao ly, vương triều Lý các thi sĩ Triều Tiên đã sáng tao ra thể thơ
Sijo và Kasa.
Tóm lại, để đánh giá vấn đề này, xin dẫn lời nhận xét của giáo sư ngữ văn
Kimyulkyu (dại học tổng hợp Hàn Quốc): “Người Triều Tiên đã sử dụng chữ
Trung Hoa và các kĩ thuâth thơ Trung Hoa điêu luyện hơn bất cứ dân tộc không
phải Trung Hoa nào khác, và đã phát triển được một truyền thống đặc văn chương,
do đó tạo nên một sự hình thành lịch sử thơ ca Hàn – Trung lâu đời”.

×