Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.97 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cũng như nhiều quốc gia khác, cải cách hành chính tại Việt Nam trong
những năm qua tập trung vào việc: Nâng cao năng lực tổ chức và quản trị của
chính quyền địa phương các cấp. Mục tiêu là nâng cao trách nhiệm và chất
lượng phục vụ dịch vụ công cho người dân. Ngược lại, việc nâng cao chất
lượng phục vụ dịch vụ công sẽ góp phần tạo niềm tin, sự ủng hộ của người dân
vào việc xây dựng chính quyền và công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, thách thức đặt ra của chính quyền các địa phương là làm sao phải nâng
cao năng lực tổ chức, điều hành, đẩy mạnh tốc độ và hiệu quả cải cách việc
quản trị và cung ứng dịch vụ công trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội
nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, nước sạch là một nhu cầu hết sức cấp thiết trong đời sống hàng
ngày của mọi người, nó đang trở thành một đòi hỏi hết sức cấp thiết trong việc
bảo vệ sức khoẻ và cải thiện điều kiện sinh hoạt cho người dân.
Trong chuyên đề này, em xin tập trung đi sâu nghiên cứu, phân tích thực
trạng cung ứng dịch vụ cung cấp nước sạch tại thành phố Hà Nội. Qua đó, đưa
ra các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp
nước sạch tại thành phố Hà Nội. Với các nguồn tư liệu hữu ích từ thư viện của
Học Viện Hành Chính Quốc gia và các phương tiện thông tin đại chúng cùng
với sự hướng dẫn của giảng viên bộ môn – Tiến sĩ Võ Văn Tuyển, em đã cố
gắng để hoàn thành tốt nhất bài tiểu luận này. Nhưng do nhận thức còn hạn chế
nên có thể bài tiểu luận của em vẫn còn những thiếu sót, em rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy để bài tiểu luận của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ CÔNG.
1. Khái niệm dịch vụ công.
Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân, do nhà nước trực tiếp thực
hiện hoặc chuyển giao cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm mục tiêu


hiệu quả và công bằng.
2. Đặc điểm chung của dịch vụ công.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khái niệm dịch vụ công dưới các giác độ
khác nhau, nhưng về cơ bản đều thống nhất tương đối ở các đặc điểm sau của
dịch vụ công:
- Là một loại dịch vụ do Nhà nước ( cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước) trực tiếp thực hiện hoặc uỷ quyền cho các tổ chức, đơn vị
ngoài Nhà nước thực hiện dưới sự giám sát của Nhà nước.
- Nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của xã hội, nhân dân.
- Nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân, xã hội về chất lượng dịch vụ cũng
như số lượng dịch vụ. trách nhiệm của nhà nước thể hiện qua việc hoạch định
chính sách, thể chế pháp luật, quy định tiêu chuẩn chất lượng, thanh tra kiểm tra
việc thực hiện…
- Không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Đối tượng thụ hưởng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền (đã trả qua hình
thức thuế), tuy nhiên có những trường hợp phải trả lệ phí theo quy định chặt chẽ
của pháp luật.
3. Phân loại dịch vụ công.
2
Theo cách hiểu của các học giả về hành chính công tại Việt Nam, có thể
phân ra ba loại dịch vụ công cơ bản:
- Dịch vụ hành chính công: Các hoạt động nhân danh công quyền nhà
nước đáp ứng yêu cầu của người dân từ trật tự trị an tới các thủ tục giấy tờ hành
chính như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực hộ
tịch, hộ khẩu… bảo đảm cho công dân học tập, làm ăn, sinh sống bình thường.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Các hoạt động nhân danh các cơ quan chức
năng nhà nước bảo đảm cho người dân như : Giáo dục, y tế, văn hóa, nghiên
cứu khoa học … đáp ứng yêu cầu về học tập, chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ văn
hóa tinh thần của nhân dân và phát triển chung của xã hội. Hoạt động này phần
lớn do các tổ chức, cơ quan nhà nước đảm trách hoặc một phần xã hội hóa (xu

hướng đẩy mạnh xã hội hóa về loại dịch vụ này).
- Dịch vụ công ích: Cung ứng các loại "hàng hóa" công cộng như điện,
nước, sinh hoạt, giao thông, bưu điện, vệ sinh môi trường …. Trong dịch vụ này
phần lớn do các doanh nghiệp nhà nước đảm trách như: điện, nước, sinh hoạt,
giao thông, bưu điện…. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do tổ chức hoặc cá
nhân đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác, cung
ứng nước sạch…Tuy nhiên, các hoạt động này do các cơ quan nhà nước chuyển
giao hoặc thực hiện theo hợp đồng ủy quyền với yêu cầu và chất lượng cụ thể.
PHẦN II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
CUNG CẤP NƯỚC SẠCH TẠI HÀ NỘI.
Nước sạch là một trong những nhu cầu cơ bản trong đời sống hằng ngày
của con người và đang trở thành một đòi hỏi bức bách trong việc bảo vệ sức
khoẻ và cải thiện điều kiện sinh hoạt của nhân dân. Việt Nam là một nước tăng
dân số nhanh và là quốc gia có số dân đông thứ 14 trên thế giới, dân số tập trung
đông đúc tại các thành phố lớn nên nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt ở thành phố
là rất lớn. Trong đó, thành phố Hà Nội là một điển hình nhưng nhu cầu sử dụng
nước sạch của người dân ở một số khu vực chưa được đáp ứng đầy đủ. Nhiều
3
khu vực trong thành phố nước sach chưa tới nên người dân phải mua nước máy
với giá cao hoặc sử dụng những nguồn nước không đảm bảo chất lượng. Cùng
với tốc độ gia tăng dân số là tình trạng thiếu nước sạch diến ra ngày càng
nghiêm trọng. Những câu chuyện liên quan tới nhu cầu tối thiểu của người dân
là nước sạch đang là nỗi nhức nhối của thành phố Hà Nội.
Thách thức đặt ra của chính quyền thành phố Hà Nội là làm sao phải nâng
cao năng lực tổ chức, điều hành, đẩy mạnh tốc độ và hiệu quả, cải cách việc
quản trị và cung ứng dịch vụ cung cấp nước sạch trong bối cảnh nền kinh tế
Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trước nhu cầu về sử dụng nước sạch trong sinh hoạt, cũng như của sản
xuất của người dân nên cần có giải pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng thiếu
nước sạch ở nhiều khu vực trong thành phố.

Vì vậy, cần phải tăng cường và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ
nước sạch cho người dân trong thành phố Hà Nội để đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu về nước sạch của người dân trong thành phố.
PHẦN III. THỰC TRẠNG CUNG CẤP NƯỚC SẠCH VÀ NHU CẦU SỬ
DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NÔI.
1.Tình trạng thiếu nước sạch ở nội thành Hà Nội.
Những năm gần đây, cùng với phát triển kinh tế của đất nước đời sống
người dân dần đã dần được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, tại Hà Nội vẫn còn
những khu dân cư chưa được sử dụng nguồn nước sạch - một trong những điều
kiện thiết yếu đảm bảo đời sống dân sinh.
Từ nhiều tháng nay, hơn 30.000 người dân ở phường Định Công ( Quận
Hoàng Mai, Hà Nội) phải dùng nước giếng khoan hôi tanh với đủ các chất độc
hại để ăn uống và sinh hoạt. Phương pháp xử lý chủ yếu mà người dân đang sử
4
dụng là lọc nước giếng qua bể cát và than hoạt tính. Tuy nhiên, việc lọc nước
này cũng chỉ có ý nghĩa giảm màu vàng, còn chất độc hại vẫn được giữ nguyên.
Tháng 4 năm 2009, thành phố Hà Nội đã giao cho công ty vianconex thi
công dự án nước sạch cho nhân dân phường Định Công. Nhưng thực tế cho đến
nay người dân vẫn chưa có nước sạch để sinh hoạt. Cũng giống như phường
Định Công, đối với người dân ở khu Cầu Bươu, Thanh Trì, Hà Nội hiện vẫn
đang phải đối mặt với vấn đề này. Với họ, dường như nước sạch sử dụng cho
sinh hoạt vẫn còn là 1 thứ hàng xa xỉ.
Mặc dù người dân đã nhiều lần kiến nghị, tuy nhiên các cơ quan chức
năng cũng mới chỉ mới bước đầu tiến hành thăm dò, lấy ý kiến người dân. Và
tất yếu, bài toán cung cấp nước sạch ở đây vẫn là câu hỏi chưa có lời giải.
Trong những ngày đầu tháng 3 năm 2014, hơn 20 hộ dân tại ngõ Văn
Chương (đường Khâm Thiên, Hà Nội) đột ngột bị cắt nước vào ban ngày phải
đến đêm muộn thì mới có nước chảy đến nhỏ giọt. Bà Phùng Thị Hợp ( số nhà
21, ngõ 132) cho hay bởi mất nước nên bà chịu cảnh mất ngủ hơn một tháng để
chờ canh nước cho cả nhà.

“ Cả tuần không dám tắm, bát đũa thì ăn mấy ngày mới dám rửa một lần. Có
hôm nước yếu quá, cả xóm đến khuya vẫn còn nháo nhác gọi nhau xem nhà ai
bơm được nước để xách xô đi xin”, bà Hợp nói.
Để khắc phục tình trạng nước chảy yếu vào ban đêm, hàng chục hộ dân đã đầu
tư máy bơm để có nước. Có hộ mua máy bơm mới dùng được vài hôm đã cháy
máy. Người dân ở ngõ Văn Chương cho hay, trong một tháng có 5 chiếc máy
bơm đã bị cháy.
Quá bức xúc vì tình trạng thiếu nước khi đang đến gần mùa nóng , người
dân ngõ Văn Chương đã lên đến đơn vị cung cấp nước là Xí nghiệp kinh doanh
5
nước sạch Đống Đa để làm rõ vấn đề. Sau khi qua mấy lần kiến nghị cấp nước
sinh hoạt của đại diện tổ dân phố thì đến đến đầu tháng 4 năm 2014 nước sinh
hoạt mới trở lại bình thường.
2. Thực trạng thiếu nước sạch ở khu vực ngoại thành Hà Nội.
Chưa bao giờ nước sạch lại thiếu trầm trọng trên diện rộng như tại khu vực
ngoại thành Hà Nội hiện nay. Thực trạng người dân phải ăn uống, sinh hoạt
bằng nước ao tù, nước giếng khoan bị ô nhiễm ngay giữa Thủ đô đang đặt ra
một câu hỏi bức xúc: Bao giờ người dân khu vực ngoại thành Hà Nội mới được
dùng nước sạch?
Hè đến, thiếu nước sạch là nỗi niềm chung của nhiều vùng quê ngoại
thành, kéo theo nỗi lo về ô nhiễm môi trường, dịch bệnh. Tại xã Chàng Sơn,
huyện Thạch Thất, trong tổng số 2.163 hộ dân thì có đến 2/3 số hộ phải mua
nước theo mùa hoặc mua quanh năm. Vì vậy, nơi đây hình thành cả một đội
quân chuyên chở nước sạch ở nơi khác về bán. Đầu mùa hè năm nay, đi trên các
trục đường làng ngõ xóm của Chàng Sơn, đâu đâu cũng thấy cảnh người dân
chở nước đi bán hoặc mua nước về nhà. Đây là xã có nghề mộc truyền thống
với hơn 80% số hộ làm nghề, thiếu nước sạch không chỉ bị ảnh hưởng đến sinh
hoạt hằng ngày mà còn kìm hãm sự phát triển sản xuất, khiến môi trường sống
của làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước đây, mỗi năm xã chỉ bị thiếu
nước mấy tháng mùa khô, nhưng đến nay thì các nguồn nước giếng khoan,

giếng khơi đều cạn kiệt, thời gian thiếu nước trong năm kéo dài đến 7-8 tháng.
Nước vo gạo xong phải dùng để rửa rau, tiết kiệm từng giọt mà hằng tháng nhà
nào cũng phải dành ra một khoản tiền đáng kể để lo chuyện nước. Mỗi mét khối
nước "không biết có đạt tiêu chuẩn" hay không mà người dân khu vực này phải
mua có giá từ 80.000 đến 100.000 đồng. "Chúng tôi không lo thiếu tiền, thiếu
gạo. Tiền thiếu có thể vay tạm, gạo thiếu có thể đi xin. Nhưng thiếu nước thì
chịu chết, không ai giúp ai được " - Một người dân than thở.
6
Tương tự, thiếu nước đến nửa số ngày trong năm là tình trạng của 40% số
hộ dân xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ. Xã có tổng số 2.370 hộ với 11.000
nhân khẩu, tính ra mỗi năm có đến hơn 4.000 người "khát" nước sạch. Trong đó
tình trạng khan hiếm nước nghiêm trọng nhất là thôn Yên Trường, thôn có đến
90% số dân sống trong cảnh thiếu nước triền miên. Tình trạng thiếu nước đã
diễn ra từ năm 2002 và ngày càng lan rộng. Hay ở các xã vùng cao như Phú
Sơn, Thái Hòa, huyện Ba Vì nước sạch cũng trở thành gánh nặng. Để có nước,
nhiều hộ dân đã phải đầu tư cả chục triệu đồng xây giếng, bể chứa rồi thuê máy
bơm nước từ sông Đà về dùng dần, cuộc sống người dân đã khó lại càng thêm
khó…
Tình trạng thiếu nước sạch tại các vùng nông thôn, khu vực ngoại thành Hà
Nội, đặc biệt các vùng thuộc tỉnh Hà Tây cũ, đã diễn ra từ nhiều năm nay,
không còn là chuyện mới. Nhận thức rõ điều này, ngay sau khi hợp nhất, lãnh
đạo Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội đã rất quan tâm đến vấn đề xây dựng
các trạm cấp nước sạch tại khu vực nông thôn. Tuy nhiên, dự án lập ra khá
nhiều, song khâu thực hiện lại chẳng được bao nhiêu, bởi nước sạch nông thôn
không phải là một môi trường đầu tư hấp dẫn! Đã vậy có không ít các trạm khai
thác, xử lý nước sạch sinh hoạt được đầu tư tiền tỷ lại "đắp chiếu" để xuống cấp,
hư hỏng không phát huy tác dụng. Theo ông Trần Quốc Hùng - Phó Tổng Giám
đốc Công ty Nước sạch Hà Nội, hiện công ty đang trong quá trình xây dựng dự
án để vay vốn nhằm xây dựng đường ống, mạng lưới cấp nước để sử dụng
nguồn nước mặt sông Đà, cung cấp nước sạch cho 4 huyện dọc Đại lộ Thăng

Long. Theo tính toán, tổng chi phí đầu tư cho dự án dự kiến lên tới 5.000 tỷ
đồng. Sau khi hoàn thành, dự án sẽ cung cấp nước sạch cho khoảng 100.000 hộ
dân”.
Trong lúc các dự án, kế hoạch vẫn đang nằm trên giấy, thì hằng ngày,
hằng giờ, người dân sống tại các khu vực nông thôn, ngoại thành Hà Nội vẫn
phải sống trong cảnh khát nước ngay khi chưa đến mùa hè.
3. nguy cơ căng thẳng nước sạch mùa hè.
7
Nước sạch Hà Nội được cung cấp bởi hai đơn vị là Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên nước sạch Hà Nội và Công ty nước sạch Sông Đà. Công ty
nước sạch Hà Nội quản lý, khai thác sản xuất cấp nước cho tám quận nội thành,
trừ quận Thanh Xuân và sáu huyện ngoại thành (Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm,
Đông Anh, Sóc Sơn, Mê Linh). Còn công ty nước sạch sông Đà cung cấp các
địa bàn còn lại, chủ yếu cho một chùm đô thị vệ tinh trên quãng đường Hòa Lạc,
Xuân Mai, Sơn Tây. Do lượng nước dồi dào, Công ty Sông Đà còn có dư để bán
lại cho Công ty nước sạch Hà Nội với lưu lượng từ 40.000- 45.000 m3/ngày
đêm.
Giá bán của hai hệ thống cung cấp nước sạch bằng nhau, do Uỷ Ban Nhân
Dân thành phố Hà Nội quy định chung thống nhất. Nhưng khi so sánh sự khác
biệt, người dân cho rằng, sử dụng nước của Công ty nước sạch Hà Nội ổn định
hơn về hệ thống đường ống nhưng lại phấp phỏng lo mất nước những dịp nắng
nóng do các giếng khai thác nước ngầm đã được xây dựng và vận hành trên 20
năm nay, công suất khai thác giảm từ 15% đến 20% so với công suất thiết kế.
Sử dụng nước sạch Sông Đà yên tâm độ sạch, nguồn nước dồi dào do khai thác
nguồn nước mặt Sông Đà dẫn về nhưng lại chịu thiệt thòi do vỡ đường ống thất
thường.
Khi xảy ra sự cố, nếu mất nước kéo dài, ảnh hưởng đến cuộc sống người
dân, phía Công ty nước sạch Hà Nội sẽ “ứng cứu”, trên cơ sở đề nghị của Công
ty nước sạch Sông Đà và sự điều phối của Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội.
Phương án duy nhất là chở nước bằng xe xi-téc để cung cấp miễn phí cho người

dân.
Dù chưa vào mùa nắng, Công ty nước sạch Hà Nội đã cảnh báo, năm nay
sẽ nóng sớm và kéo dài nên tình hình cung cấp nước sạch trên địa bàn Hà Nội
sẽ rất căng thẳng. Trong điều kiện hiện tại về hệ thống đường ống, khả năng bảo
đảm điện của ngành điện có hạn thì giải pháp “ứng phó” với thời tiết vẫn chỉ
chờ vào sự chia sẻ, cảm thông của người dân và ý thức sử dụng nước tiết kiệm
nhất của khách hàng.
8
4. Nhiều bất cập về việc cung cấp nước sạch tại thành phố Hà Nội.
Sắp bước vào mùa nóng nhưng nhiều khu vực tại Hà Nội được thông báo
mất nước trong vài ngày khiến người dân đứng ngồi không yên. Tình trạng này
liệu có kéo dài hay không? Các công ty nước sạch có giải pháp gì để khắc phục,
đang là nỗi lo “ngay ngáy” của người dân Thủ đô.
4.1. Thiếu nguồn cung.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã chỉ rõ
sự bất cập trong việc cung ứng nước sạch cho người dân Thủ đô. Đó là hệ thống
mạng truyền dẫn nước của Hà Nội phát triển 15% trong những năm qua, nhưng
đầu tư về nguồn nước sạch còn rất chậm. Trong khi đó, lượng khách hàng sử
dụng nước trên địa bàn vẫn không ngừng tăng lên.
Mặt khác, trong khi Công ty Nước sạch Hà Nội, đơn vị sản xuất nước chủ
lực của thành phố đang thiếu nguồn cung thì Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng
và Kinh doanh Nước sạch (Viwaco) chưa khai thác hết công suất thiết kế, vẫn
có thể bổ sung thêm sản lượng nước sạch vào hệ thống nhưng lại bất cập về kết
nối mạng.
Để giải quyết vấn đề này, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố đã yêu cầu
Sở Xây dựng là cơ quan đầu mối kết nối liên thông hệ thống nguồn, mạng; bổ
sung thêm nguồn nước sông Đà cho người dân trên địa bàn.
Theo báo cáo của Sở Xây dựng Hà Nội, mùa Hè năm 2013, tổng công suất
cấp nước trên toàn thành phố đạt 880.000m3/ngày đêm, trong đó công ty Nước
sạch Hà Nội cấp 600.000m3/ngày đêm; công ty cổ phần cấp nước Sơn Tây

20.000m3/ngày đêm; công ty Nước sạch Hà Đông 40.000m3/ngày đêm và công
ty cổ phần Nước sạch Viwaco 220.000m3/ngày đêm. Khu vực cấp nước của các
công ty Nước sạch Hà Đông, Sơn Tây, Viwaco tương đối ổn định nhưng địa
bàn của Công ty Nước sạch Hà Nội, chủ yếu khu vực nội đô vẫn chưa đủ nguồn
cung.
9
4.2. Chia sẻ nguồn nước.
Do thiếu nguồn cung, Công ty Nước sạch Hà Nội buộc phải thực hiện cấp
nước theo vùng, theo giờ và cấp nước luân phiên. Do đó, ngay cả những khu
vực nội thành, việc cấp nước lâu nay ổn định cũng sẽ có lúc bị mất nước do phải
chia sẻ cho các khu vực khác.
Hàng loạt khu vực như 45 hộ tại tổ 26, khu dân cư 7, phường Quảng An
(quận Tây Hồ); 100 hộ các tổ: 43, 45, 46, phường Quan Hoa (quận Cầu Giấy);
hàng trăm hộ tại toà nhà B10B, khu đô thị Nam Trung Yên; các hộ tổ 62,
phường Chương Dương (quận Hoàn Kiếm); các hộ ngõ 354 đường Trường
Chinh (quận Đống Đa); các hộ ngõ Chợ Khâm Thiên (quận Đống Đa); khu vực
Võng Thị, Âu Cơ đã bị mất nước sinh hoạt, cuộc sống của người dân bị đảo
lộn.
Để khắc phục tình trạng mất nước, đặc biệt thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch
Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo khẩn trương giải quyết
nhu cầu nước sạch cho người dân, bên cạnh việc làm việc với ngành điện tạm
dừng, giãn, hoãn kế hoạch cắt điện sửa chữa, bảo dưỡng, giải quyết kịp thời sự
cố về điện, công ty Nước sạch Hà Nội tăng nguồn cung bằng cách phát huy hết
công suất của các nhà máy nước; tiếp nhận 40.000m3 nước sạch/ngày đêm của
nhà máy nước mặt sông Đà - Viwaco.
Bên cạnh đó cần tăng cường nguồn nước từ nhà máy nước Gia Lâm, Bắc
Thăng Long đưa về tăng cường cấp nước cho nội thành và mở thêm hai điểm
tiếp nhận nguồn nước sông Đà tại khu vực hồ Hố Mẻ, quận Đống Đa từ ngày
20/5 với sản lượng khoảng 3000 m3/ngày đêm, điểm tại ngã tư Lê Văn Lương-
Hồ Tùng Mậu khoảng 3.000m3 từ đêm 27/5 (tuy nhiên lưu lượng nước bổ sung

về chưa đủ) và chuẩn bị mở thêm mở thêm điểm tại nút cầu Đá-Thịnh Liệt, bổ
sung thêm 3.500 m3/ngày đêm ngay trong mùa Hè năm nay.
Công ty cũng thực hiện biện pháp vận hành mạng , phân khu , đảm bảo cấp
10
nước cho các khu vực xa nguồn, cốt địa hình cao, không để mất nước kéo dài và
trở lại ổn định; chủ động cấp nước cho các khu vực mất nước bằng xe stec.
PHẦN IV. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH
VỤ CUNG CẤP NƯỚC SẠCH TẠI HÀ NỘI
1. Khắc phục ngay tình trạng thiếu nước sạch ở nội thành Hà Nội.
Trước tình hình trên, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội, ông
Nguyễn Thế Thảo đã yêu cầu các đơn vị cung cấp nước sạch trên địa bàn thành
phố và các Sở ngành liên quan phải có giải pháp trước mắt khắc phục tình trạng
thiếu nước sinh hoạt tại một số khu vực trong nội thành.
Sở Xây dựng chủ trì, phối hợp với Công ty nước sạch Hà Nội, Công ty
VIWACO, Tổng công ty Vinaconex, trên cơ sở mạng cấp nước và nguồn nước
sạch sông Đà hiện có, có các biện pháp thực hiện ngay việc điều tiết kịp thời,
khoa học nguồn nước sạch sông Đà bổ sung cấp 20.000m3 ngày đêm cho khu
vực nội thành thuộc phạm vi Công ty nước sạch Hà Nội quản lý, bảo đảm đủ
nước sạch sinh hoạt cho nhân dân.
Các đơn vị cấp nước cần bổ sung các trạm bơm tăng áp đối với các khu vực
cuối nguồn gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo lực cung cấp nước; Cần có tính
toán khoa học trong vận hành cung cấp nước cho các khu vực, bảo đảm áp lực
nguồn, thời gian cung cấp không để nhân dân thiếu nước sạch trong thời gian
dài.
Đối với các khu vực bị mất nước, không thể cung cấp nước qua mạng hiện
có phải có phương án sẵn sàng cung cấp nước sạch bằng xe xitec bảo đảm sinh
hoạt của nhân dân. Các đơn vị cung cấp nước sạch phải bố trí các công ty, xí
nghiệp quả lý nhà máy sản xuất nước, hệ thống mạng, trạm bơm bố trí trực
11
24/24h, tổ chức lại đường dây nóng, thông báo số điện thoại đường dây nóng để

kịp thời tiếp nhận phản ánh của nhân dân khi mất nước, sự cố.
Đối với các điểm dân cư hiện đang bị mất nước tại các khu vực quận Tây
Hồ, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Cầu Giấy… Công ty nước sạch Hà Nội cần có các
phương án cấp nước bảo đảm sinh hoạt của nhân dân, đồng thời có thông báo để
nhân dân được biết về lịch trình cung cấp nước tại các địa bàn này.
Ông Nguyễn Thế Thảo giao nhiệm vụ bảo đảm nguồn nước phục vụ sinh
hoạt của nhân dân xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai cho Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn thực hiện ngay giải pháp hỗ trợ đầu tư các bể lọc nước để đảm
bảo nguồn nước hợp vệ sinh, huy động xe xitec chở nước cung cấp cho các hộ
chưa có nguồn. Rà soát nguồn nước tại các khu vực gặp khó khăn về nước sinh
hoạt ở các huyện Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức để đề xuất giải pháp cung
cấp nước sinh hoạt hoặc hỗ trợ nhân sử dụng nước hợp vệ sinh.
2. Đẩy nhanh tiến độ các dự án cấp nước sạch ở các khu vực ngoại thành Hà
Nội.
Những năm qua thành phố Hà Nội đã đầu tư xây dựng 104 công trình cấp
nước tập trung và hàng nghìn công trình cấp nước nhỏ lẻ trên khắp địa bàn.
Trong đó, nhiều địa phương ven đô cũng đã đấu nối sử dụng nước đô thị, nâng
tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh lên 84%, trong đó 34%
dân số dùng nước sạch theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Hà Nội đang có chủ trương xây dựng các công trình cung cấp nước sạch
liên xã để đảm bảo nước sinh hoạt cho người dân.
Ngoài ra, tỷ lệ trường học có công trình cấp nước, nhà tiêu hợp vệ sinh
cũng khá cao, đạt hơn 87%; với trạm y tế là 90,1%; trụ sở Uỷ Ban Nhân Dân xã
86,4%; chợ nông thôn 27,2%. Điều dễ nhận thấy là bản thân người dân ngày
12
càng hiểu rõ hơn tầm quan trọng của Nước sạch đối với quá trình xây dựng
nông thôn mới nên đã có sự thay đổi cả về nhận thức và hành động. Theo đó,
nhiều công trình đã được triển khai như nâng cấp, cải tạo hệ thống tiêu thoát
nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải; chỉnh trang,
cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát

triển cây xanh ở các công trình công cộng… có sự tham gia tích cực của người
dân.
Đặc biệt, để bảo đảm nhu cầu sử dụng nước sạch cho nhân dân cũng như
tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các xã vùng nông thôn
huyện Thanh Trì, mới đây, Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội đã phê duyệt
dự án đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước cho các khu vực còn lại của huyện
Thanh Trì, với tổng mức đầu tư gần 545 tỷ đồng. Dự án được thực hiện trong 2
năm 2013 và 2014, phục vụ cung cấp nước sạch cho 7 xã, gồm thôn Đông Trì
(xã Tứ Hiệp), các thôn Tương Chúc, Đông Trạch, Việt Yên và một phần thôn
Tự Khoát (xã Ngũ Hiệp), các thôn Thọ Am, Nội Am (xã Liên Ninh) và toàn bộ
thôn, xóm thuộc các xã Đông Mỹ, Yên Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc.
Tại một số địa phương, việc triển khai các dự án về Nước sạch và vệ sinh
môi trường nôn thôn của thành phố bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần nâng
cao sức khỏe cộng đồng và làm cho môi trường ngày càng xanh, sạch, đẹp. Điển
hình như tại xã Tân Tiến (Chương Mỹ), nơi có trạm cấp nước trước đây được
liệt vào danh sách "đắp chiếu" thì nay đã được khôi phục trở lại, hoạt động hết
công suất.
Bà Lê Thị Hòa, người dân xã Tân Tiến cho biết: "Kể từ khi trạm cấp nước
đi vào hoạt động, chúng tôi đã được cải thiện nguồn nước sinh hoạt, đặc biệt là
xóa tan những bức xúc của người dân về một dự án "đắp chiếu" gây lãng phí".
13
Người dân thị trấn Quốc Oai (Quốc Oai) cũng được thỏa ước nguyện khi
sau nhiều năm trạm cấp nước của thị trấn tưởng phải bỏ đi không thể vận hành
thì đến nay đã được nâng cấp, sửa chữa và đi vào hoạt động, cung cấp nước
đảm bảo vệ sinh cho khoảng 80% số hộ ở 5 cụm dân cư trên địa bàn.
Sắp tới cần tiếp tục đẩy nhanh các dự án cấp nước sạch để góp phần xây
dựng nông thôn mới. Về lâu dài, cần phải đầu tư các công trình cấp nước tập
trung quy mô xã hoặc liên xã nhằm khai thác nguồn nước hiệu quả, mang tính
bền vững. Đối với những vùng khó khăn, chưa có điều kiện xây dựng hệ thống
trạm cấp nước tập trung thì cần được hỗ trợ để sử dụng các thiết bị xử lý nước

ngay tại gia đình.
3. Xóa "điệp khúc" chờ nước sạch của người dân.
Tại các xã Chàng Sơn (Thạch Thất), Trường Yên (Chương Mỹ), Thái Hòa,
Cẩm Lĩnh (Ba Vì) , để có nước sinh hoạt, nhiều hộ dân phải bán thóc, gạo để
mua nước sạch với giá cao về sử dụng.
Người dân xã Chàng Sơn cho biết: "Nhu cầu nước sinh hoạt, nhất là nước
sạch của người dân trên địa bàn huyện khá lớn, riêng đối với Chàng Sơn, nước
sạch từ lâu đã trở thành thứ hàng hóa đắt đỏ, xa xỉ đối với nhiều hộ dân. Việc 1
lít nước dùng nhiều lần cho các công việc khác nhau đã là chuyện thường ngày
ở đây, bởi nguồn nước sạch khan hiếm, chúng tôi phải đi mua từ các nơi khác
về nên tiết kiệm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu".
Đáng buồn hơn là nhiều dự án nước sạch ở một số địa phương sau khi triển
khai đã "đắp chiếu" dài dài, khiến hy vọng của người dân trôi dần theo năm
tháng. Điển hình như dự án xây dựng tuyến đường ống cấp nước sạch từ thị xã
Sơn Tây đi thị trấn Liên Quan và các xã lân cận của huyện Thạch Thất, mặc dù
được thi công từ tháng 10/2006 nhưng đến nay, người dân địa phương vẫn khắc
khoải chờ đợi không biết đến bao giờ?
14
Hay như xã Đại Đồng (Thạch Thất), dự án cấp nước sạch được triển khai
từ năm 2005, nhưng chỉ sau 4 tháng đi vào hoạt động thì phải dừng vì gặp sự cố
đường ống. Và thế là người dân của 11 thôn trong xã (trong đó có 8 thôn chưa
một ngày được dùng nước sạch) lại phải chờ đợi thêm khoảng 3 năm nữa mới
có nước sạch sử dụng, tuy nhiên, nguồn nước sạch này cũng chỉ được Công ty
cổ phần cấp nước Sơn Tây cấp "nhỏ giọt"…
Nhằm xóa "điệp khúc" chờ nước sạch của người dân, vừa qua Phó chủ tịch
Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội Trần Xuân Việt cùng đại diện các sở,
ngành liên quan đã đi kiểm tra tiến độ đầu tư xây dựng các dự án cấp nước sạch
ở hai huyện Đan Phượng và Phúc Thọ. Phó chủ tịch đề nghị các sở, ngành, địa
phương quan tâm hơn nữa đến vấn đề nước sạch, nhanh chóng hoàn thiện các
thủ tục liên quan để nước sạch tới nhà dân nhanh hơn. Đơn cử như Trạm cấp

nước thị trấn Phùng (Đan Phượng) phê duyệt từ năm 2006, đến nay qua hai chủ
đầu tư, tuy xây dựng xong một số hạng mục và đưa vào khai thác sử dụng 4
giếng khoan với tổng công suất 4.000m3/ngày đêm, nhưng vẫn chưa được cấp
giấy chứng nhận đầu tư. Về điều này, ông Việt yêu cầu chủ đầu tư là Công ty
Hùng Thành thống kê lại những văn bản đã gửi các sở, ngành, báo cáo thành
phố để xem xét, cho ý kiến.
Tương tự, tại huyện Phúc Thọ, Trạm cấp nước sạch sinh hoạt xã Tam Hiệp
được đầu tư xây dựng từ năm 2005 nhưng đến nay công trình này chưa triển
khai thêm được hạng mục nào, trong khi những hạng mục đã làm như bể lọc, bể
chứa, máy bơm… thì đang có dấu hiệu hư hỏng. Ông Việt đề nghị chủ đầu tư
lên kế hoạch khảo sát cụ thể nhu cầu cấp nước, khả năng đáp ứng, giá thành sản
phẩm, dự kiến mức đầu tư… để báo cáo thành phố, đồng thời phối hợp với Uỷ
Ban Nhân Dân huyện triển khai các thủ tục tiếp nhận đầu tư.
Phó chủ tịch Trần Xuân Việt cũng cho biết, thời gian tới, lãnh đạo thành
phố tiếp tục đi kiểm tra một số dự án cấp nước sạch tại các huyện phía Nam Hà
15
Nội để xem xét, bố trí nguồn vốn phù hợp. Đây là chương trình mục tiêu quốc
gia, phục vụ xây dựng nông thôn mới nên thành phố sẽ đầu tư tập trung cho một
số công trình trọng điểm, cấp thiết nhằm phát huy hiệu quả cao nhất chứ không
đầu tư dàn trải.
Mới đây, tại cuộc họp bàn về việc "giải cứu" các trạm cấp nước trên địa
bàn và việc lập quy hoạch cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến
năm 2020, định hướng 2030, ông Việt đã yêu cầu các sở, ngành liên quan và các
huyện được thụ hưởng công trình cấp nước sạch liên xã khẩn trương hoàn thành
công tác chuẩn bị đầu tư để phê duyệt, đồng thời phải xây dựng và ban hành
quy định thực hiện Quyết định số 131 về một số chính sách ưu đãi, khuyến
khích đầu tư và quản lý, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn.
Theo ông Lê Văn Dương, sắp tới, Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn thành phố sẽ phối hợp với các đơn vị, doanh nghiệp, chính
quyền các địa phương nhanh chóng cải tạo 16 trạm cấp nước tập trung đang

"đắp chiếu"; xây dựng 31 công trình cấp nước có sử dụng nguồn vốn từ Ngân
hàng Thế giới (WB); hoàn thiện các thủ tục đầu tư 6 công trình cấp nước liên xã
tại các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Thường Tín, Mê Linh, Phú
Xuyên; đồng thời hỗ trợ 40.000 thiết bị xử lý nước nhỏ lẻ cho các hộ gia đình
chưa có công trình cấp nước tập trung…
4. Giải pháp phát triển hệ thống mạng lưới cung cấp nước, bảo đảm nguồn
nước.
Các đơn vị được giao làm chủ đầu tư dự án sản xuất, cung cấp nước sạch
cần đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án. Giảm thiểu các thủ tục và linh hoạt giải
quyết các thủ tục đầu tư, không để chậm trễ, kéo dài.
16
Bên cạnh đó, Sở Kế hoạch – Đầu tư cần nghiên cứu, đề xuất về cơ chế,
chính sách ưu tiên, hỗ trợ vốn đầu tư các dự án sản xuất, cung cấp nước sạch.
Việc tính toán giá nước sạch bảo đảm đủ các chi phí quản lý, vận hành sản xuất,
cung cấp. Việc điều chỉnh giá nước phải có lộ trình theo mức tăng của chi phí
quản lý… Sở Tài chính phải nghiên cứu, báo cáo về lộ trình điều chỉnh tăng giá
nước vào thời gian phù hợp trong năm.
Chủ tịch thành phố Nguyễn Thế Thảo cũng thống nhất với đề nghị triển
khai đầu tư tuyến ống cấp nước số 2 dọc Đại lộ Thăng Long từ Hòa Bình về Hà
Nội của Tổng công ty Vinaconex.
5. Phát triển “nguồn” – Giải pháp lâu dài.
Việc chia sẻ nguồn nước từ Viwaco cho công ty Nước sạch Hà Nội để cấp
bổ sung cho khu vực nội thành đã khiến một số khách hàng của Viwaco bị mất
nước. Điều này cho thấy, tất cả các giải pháp đang áp dụng để giải quyết tình
trạng thiếu nước sạch trên địa bàn Thủ đô đều chỉ là giải pháp tình thế. Giải
pháp lâu dài là phải xây thêm các nhà máy nước để tăng nguồn nước cấp.
Tuy nhiên, theo ông Trần Quốc Hùng, Phó Tổng Giám đốc công ty Nước
sạch Hà Nội, việc đầu tư phát triển nguồn nước hiện nay vẫn đang gặp nhiều
khó khăn. Trong quy hoạch được phê duyệt đã giao cho Công ty Nước sạch Hà
Nội xây dựng nhà máy nước mặt sông Đuống nhưng sau 4 năm làm việc với các

tổ chức tín dụng vẫn chưa thương thảo được nguồn vốn để thực hiện. Công ty
cũng đang đề xuất xây dựng nhà máy nước mặt sông Hồng. Tuy nhiên, nếu có
đủ nguồn vốn thì cũng phải ba năm nữa mới thực hiện được.
Trước mắt để khắc phục tình trạng thiếu nước, công ty đề nghị công ty
Viwaco mở rộng nhà máy nước mặt sông Đà giai đoạn 2, khắc phục tồn tại kỹ
thuật, khai thác hết công suất thiết kế là 300.000 m3/ngày đêm, bổ sung nước
cho nội thành (hiện mới khai thác được 220.000 m3/ngày đêm) đồng thời công
ty cũng khoan thêm giếng bổ sung, chống suy thoái các nhà máy nước, đảm bảo
17
đạt tổng công suất 600.000 m3 nước sạch/ngày đêm và thực hiện các biện pháp
chống thất thoát nước sạch, vận động người dân sử dụng nước tiết kiệm, tăng
nguồn cung, cải thiện tình trạng “khát” nước sạch của người dân Thủ đô trong
những mùa Hè nắng nóng.
Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2015, toàn thành phố có 90% dân số ở nông
thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, 60% dân số được sử dụng nước sạch; 90%
số hộ ở nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh; 80% số chuồng trại chăn nuôi được
xử lý chất thải
6. Xã hội hoá cung cấp nước sạch tại Hà Nội.
Xã hội hoá cung ứng dịch vụ công là một chủ trương lớn của Đảng và nước
ta, nó là một bộ phận của công cuộc đổi mới và nâng cao chất lượng dịch vụ
công nói chung. Việc thực hiện xã hội hóa loại hình dịch vụ này cần quan tâm
đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, đối với những doanh nghiệp nào có ý định đầu tư và lĩnh vực
này, nhà nước cần có những chính sách ưu tiên, chẳng hạn hỗ trợ nguồn vốn đầu
tư ban đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai kinh doanh bên cạnh các
công ty thuộc quốc doanh hiện tại.
Thứ hai, hệ thống cơ sở hạ tầng cung cấp nước khi tiến hành xã hội hóa có
thể được chia làm hai phần chính là: hệ thống các nhà máy và hệ thống đường
ống dẫn từ nhà máy đến khách hàng. Trong đó hệ thống đường ống dẫn sẽ vẫn
do nhà nước quản lí thông qua một doanh nghiệp độc lập, còn các công ty cung

cấp nước sẽ chịu trách nhiệm trong việc đầu tư xây dựng các nhà máy nước.
Điều này có nghĩa là hình thức công ty cung cấp nước vừa quản lí nhà máy
nước, vừa quản lí hệ thống đường ống sẽ được tách ra hoạt động độc lập. Làm
như vậy sẽ giúp các doanh nghiệp bình đẳng hơn trong việc kinh doanh, đồng
thời dễ tham gia vào ngành nhờ giảm gánh nặng chi phí đầu tư xây dựng cơ sở
18
hạ tầng do phần này đã được nhà nước đảm nhiệm (cần biết rằng đây là một
khoản chi phí rất lớn, hầu như không doanh nghiệp nào gánh nổi). Đây là thay
đổi hết sức quan trọng, làm vai trò tiền đề để thu hút các doanh nghiệp tham gia
vào quá trình xã hội hóa cung cấp nước.
Thứ ba, trong quá trình kinh doanh, nhà nước có thể tham gia vào việc
quản lí giá nước vì thông thường do chi phí đầu tư ban đầu cao nên giá nước
bán ra thị trường có thể sẽ cao hơn hiện nay (nhà nước hiện đang bù lỗ). Nhà
nước sẽ hỗ trợ giá theo hình thức hợp lí sao cho đảm bảo các doanh nghiệp vừa
làm ăn có lãi, người dân có một mức giá chấp nhận được cùng với dịch vụ có
chất lượng tốt và luôn được cải thiện.
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Hoạt động cấp nước sạch là loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh chịu
sự kiểm soát của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
đơn vị cấp nước và khách hàng sử dụng nước.
Trong điều kiện hiện nay, việc cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh
hoạt của người dân trong thành phố Hà Nội còn nhiều bất cập, tình trạng thiếu
nước vẫn sạch vẫn còn diễn ra trầm trọng ở nhiều khu vực, nhiều nơi người dân
sống chung với tình trạng thiếu nước trầm trọng từ năm này qua năm khác, vấn
đề cung cấp đầy đủ nước sach cho người dân là một thách thức cho thành phố.
Vì vậy, cẩn phát triển hoạt động cấp nước bền vững tại các khu vực của thành
phố Hà Nội trên cơ sở khai thác tối ưu mọi nguồn lực, đáp ứng nhu cầu sử dụng
nước sạch; cung cấp nước ổn định, bảo đảm chất lượng dịch vụ tốt cho người
dân. Ưu tiên khai thác các nguồn nước mặt để cấp nước cho mục đích sinh hoạt
của cộng đồng. Khuyến khích người dân sử dụng nước sạch hợp lý, tiết kiệm,

an toàn và áp dụng công nghệ tái sử dụng nước cho các mục đích khác.
19
Để đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu của người dân trong thời gian tới, thành
phố cần đầu tư xây dựng đồng bộ giữa nhà máy xử lý và mạng lưới đường ống
cấp nước, bảo đảm hoạt động hết công suất thiết kế. Đẩy mạnh công tác lập quy
hoạch khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. Tăng cường công tác quản
lý, giám sát và bảo vệ nguồn nước, thành lập các Ủy ban quản lý nước theo lưu
vực sông. Đẩy mạnh công tác bảo vệ đầu nguồn sông và giám sát chặt chẽ việc
xả nước thải vào nguồn nước.
Xã hội hoá ngành cấp nước, huy động mọi thành phần kinh tế bao gồm các
tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển cấp nước. Nâng tỷ trọng các thành
phần tư nhân tham gia vào hoạt động cấp nước là một trong những biện pháp
lớn nhằm tăng cường và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ cung cấp nước
sạch của thành phố Hà Nội.
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 1
20
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ CÔNG………………………… 2
1. Khái niệm dịch vụ công………………………………………………………2
2. Đặc điểm chung của dịch vụ công………………………………………….2
3. Phân loại dịch vụ công……………………………………………………… 2
PHẦN II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
CUNG CẤP NƯỚC SẠCH TẠI HÀ
NỘI…………………………………………………………………………… 3
PHẦN III. THỰC TRẠNG CUNG CẤP NƯỚC SẠCH VÀ NHU CẦU SỬ
DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NÔI………………………………………… 4
1.Tình trạng thiếu nước sạch ở nội thành Hà Nội………………………………4
2. Thực trạng thiếu nước sạch ở khu vực ngoại thành Hà Nội………………….5
3. nguy cơ căng thẳng nước sạch mùa hè……………………………………….7

4. Nhiều bất cập về việc cung cấp nước sạch tại thành phố Hà Nội………… 8
4.1. Thiếu nguồn cung………………………………………………………… 8
4.2. Chia sẻ nguồn nước…………………………………………………………
9
PHẦN IV. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
CUNG CẤP NƯỚC SẠCH TẠI HÀ NỘI…………………………………… 10
1. Khắc phục ngay tình trạng thiếu nước sạch ở nội thành Hà Nội……………10
2. Đẩy nhanh tiến độ các dự án cấp nước sạch ở các khu vực ngoại thành Hà
Nội…………………………………………………………………………… 12
3. Xóa "điệp khúc" chờ nước sạch của người dân………………………… 13
4.Giải pháp phát triển hệ thống mạng lưới cung cấp nước, bảo đảm nguồn
nước……………………………………………………………………………15
5. Phát triển “nguồn” – Giải pháp lâu dài…………………………………… 16
6. Xã hội hoá cung cấp nước sạch tại Hà Nội………………………………….17
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………… 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………… 20
21

×