Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu Luận Cao Học-Quan Điểm, Tư Tưởng Của Lênin Về Tự Phê Bình Và Phê Bình Trong Đảng. Vận Dụng Những Quan Điểm Đó.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.58 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Mác- Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Đảng cộng sản, đồng thời trực tiếp tham gia vào phong
trào công nhân để giác ngộ giai cấp công nhân và từng bước xây dựng tổ chức
cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản. Các ông đã thảo ra “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng Sản”; “Điều lệ của Liên đồn những người cộng sản”; “Tun ngơn thành
lập Hội liên hiệp cơng nhân quốc tế ”... Liên đồn những người cộng sản do hai
ông thành lập và lãnh đạo là thể hiện sự vận dụng những nguyên tắc cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Đảng vô sản vào thực tiễn. Mác- Ăngghen đã có những
cống hiến vơ giá trong việc nêu ra và lý giải những nguyên tắc tổ chức về xây
dựng Đảng cộng sản.
Đến thời kỳ của Lênin, lúc này chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn phát
triển cao là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản bộc lộ tính chất lỗi thời,
lạc hậu và phản động của nó trên nhiều lĩnh vực của xã hội tư bản. Lênin đã
phân tích sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới, từ đó chỉ ra rằng: Chủ
nghĩa tư bản nhất định sẽ bị diệt vong, là đêm trước của cách mạng vô sản, rằng
trên thực tế đã có những điều kiện khách quan chín muồi để lật đổ chủ nghĩa tư
bản. Cách mạng vô sản đã trở thành một vấn đề thực tiễn trước mắt. Nhiệm vụ
lịch sử đó được đặt trên vai của Lênin và người đã hoàn thành một cách xuất
sắc. Bằng những hoạt động lý luận và thực tiễn tích cực của mình Lênin đã đấu
tranh bảo vệ và phát triển toàn diện những tư tưởng của Mác-Ăngghen về Đảng
từ đó xây dựng nên một hệ thống các nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân, hệ thống các nguyên lý trong đó có nguyên tắc về tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Trong thời đại ngày nay, khi nước ta đang quá độ đi lên Chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện đất nước cịn nhiều khó khăn, và tình hình quốc tế
diễn biến vơ cùng phức tạp, địi hỏi Đảng ta cần củng cố hơn nữa để tăng
cường sức chiến đấu và khả năng tổ chức lãnh đạo. Để làm được điều đó,
Đảng ta phải ln quan tâm đến vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng,

1




làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của đất nước.
Như vậy, mấu chốt của vấn đề chỉnh đốn Đảng là chỉnh đốn lại đội ngũ cán
bộ đảng viên, trong quá trình chỉnh đốn đội ngũ cán bộ - chỉnh đốn Đảng thì “tự
phê bình và phê bình” phải được coi là thứ vũ khí sắc bén và hữu hiệu nhất, giúp
mọi cán bộ đảng viên phát huy ưu điểm và thành tích khắc phục khuyết điểm,
sai lầm để ngày càng tiến bộ hơn, làm cho Đảng ta đoàn kết ngày càng cao, sức
chiến đấu của Đảng ngày càng mạnh.
Qua nghiên cứu học tập các tác phẩm kinh điển của Lênin về Đảng và xây
dựng Đảng tôi chọn đề tài: “Quan điểm, tư tưởng của Lênin về tự phê bình và
phê bình trong Đảng. Vận dụng những quan điểm đó để thực hiện tự phê
bình và phê bình trong Đảng ta hiện nay” làm tiểu luận môn.

2


Chương 1. QUAN NIỆM VỀ ĐẢNG, VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN, VỀ TỰ
PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH, TÍNH CHẤT CỦA TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ
BÌNH.
1. Quan niệm về Đảng, Quan niệm về Đảng cộng sản, Quan niệm về
Đảng cộng sản, Quan niệm về phê bình và tự phê bình, Tính chất của nguyên
tắc tự phê bình và phê bình.
- Quan niệm về Đảng: Theo bách khoa toàn thư: Đảng là một tổ chức
chính trị bao gồm những người cùng chung một lý tưởng, những người ưu tú,
tiên tiến của những giai cấp và tầng lớp nhất định, nhằm đấu tranh và bảo vệ lợi
ích trước hết cho những giai cấp và tầng lớp đó.
- Quan niệm về Đảng cộng sản: là chính Đảng cách mạng của giai cấp
cơng nhân, là sản phẩm của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân với

giai cấp tư sản. Đảng cộng sản bao gồm những người ưu tú, tiên tiến nhất trong
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của
Đảng để đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp công nhân và quần chúng nhân
dân lao động.
- Quan niệm về phê bình và tự phê bình: Phê bình là nêu ưu điểm và
vạch khuyết điểm của người khác. tự phê bình là nói rõ ưu điểm và vạch khuyết
điểm của chính bản thân mình.
- Tính chất của ngun tắc tự phê bình và phê bình.
- Tính Đảng: Tính Đảng của TPB và PB phải trên cơ sở CNM-LN, chủ
trương, chính sách của Đảng trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng
để tự phê bình và phê bình; phải đấu tranh khơng khoan nhượng với những tư
tưởng và hành động sai trái, không chấp nhận tính thụ động, bàng quan với
những sai lầm khuyết điểm của bản thân và của đồng chí mình.
Tính đảng của TPB và PB là căn cứ để phân biệt rạch ròi giữa TPB và PB
của Đảng với TPB và PB của những lực lượng đối lập, không thiện chí với Đảng
với CNXH.
Lênin đã lên án và phê phán kịch liệt tình trạng phê bình vơ căn cứ, trái với
những chuẩn mực quy định của Đảng. Người dạy rằng, cần phải ủng hộ phê

3


bình và sửa chữa đối với bất kỳ 1 hệ thống tổ chức nào nhưng không được trái
với những nguyên tắc của Đảng.
- Tính giáo dục: TPB và PB của Đảng được thực hiện đúng đắn, nghiệm
túc, tự bản thân nó đã chứa đựng tính gd sâu sắc. TPB và PB của Đảng CS nhằm
mục đích củng cố đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng,
tăng cường ĐKTN trong đảng, rèn luyện, phẩm chất, đạo đức, phong cách cơng
tác, phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực của cán bộ, đảng viên… đây là những
điểm thể hiện rõ nhất tính giáo dục sâu sắc của TPB và PB của ĐCS.

Chủ Tịch HCM đã chỉ rõ tính giáo dục của TPB và PB. Người viết TPB và
PB một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau, bắt
chước nhau để dạy dỗ đảng viên dạy dỗ quần chúng.
- Tính khách quan trung thực, chân thành và cơng khai.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tự phê bình là gì? Là thật thà nhận, công
khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa
chữa. Khi phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để thật thà,
không nể nang không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu và khuyết điểm….
Một trong những biểu hiện sức mạnh và tác dụng của tự phê bình bà phê
bình là tính cơng khai. Một chính đảng dám cơng khai thừa nhận sai lầm khuyết
điểm của mình và tìm cách sửa đó là một đảng Mácxít chân chính, 1 đảng mạnh.
Tự PB và PB cọng khai có nghĩa là cơng khai nói rõ những ưu điểm, khuyết
điểm của mình và của đồng chí minh, phân tích, xem xét, đánh giá mọi công việc
của tổ chức đảng trước mặt cán bộ, đảng viên và tiến hành trong tổ chức đảng.
Đối với cán bộ đảng viên công khai nhận trước mọi người những sai lầm
khuyết điểm của mình là cuộc đt quyết liệt để vượt qua những ràng buộc về tâm
lý, về quyển lợi địa vị. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thừa nhận cái sai, cái
dốt, cái kém của mình thì sợ mất thể diện,mất uy tính mất địa vị. Điều đó cản trở
rất lớn đến tư PB và PB công khai trong tổ chức đảng và cần được ngăn chặn.
- Tính cụ thể, thiết thực và kịp thời: TPB và PB cụ thể thiết thực mới là vũ
khí sắc bén đem lại hiệu quả, nghĩa là khơng TPB và PB chung chung, mà phải có
nội dung, có địa chỉ, phải chỉ ra được đúng sai, nguyên nhân và cách khắc phục,

4


phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức đảng và từng cán bộ đảng viên, gắng
với thực hiện nhiệm vụ với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. TPB
và PB như thế mới có sức thiết phục, mới cần thiết đối với Đảng.
Tính kịp thời của tự phê bình và phê bình tức là phải TPB và PB ngay những

sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và của tổ chức đảng, không để chúng
tích tụ lại, trầm trọng thêm,ngăn chặn khơng để chúng tái diễn ở cán bộ, đảng viên
và tổ chức đảng khác. Điều quan trọng hơn là TPB và PB kịp thời sẽ uốn nắn ngay
những lệch lạc, kích thích tính sáng tạo, động viên kịp thời những cán bộ, đảng
viên tốt, việc tốt thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
2. Quan điểm, tư tưởng của Lênin về tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của Đảng
Lênin cho rằng: Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai
lầm, khuyết điểm, phân tích rõ ngun nhân và tìm cách sữa chữa. Lênin coi đây là
một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một Đảng có thật sự là Đảng mác
xít chân chính hay khơng. Đây cũng là một tiêu chuẩn một nguyên tắc của Đảng vô
sản kiểu mới. Nếu một Đảng khơng dám nói thật bệnh của mình, khơng dám chuẩn
đốn bệnh một cách thẳng tay và tìm phương thuốc chữa bệnh đó, thì Đảng đó khó
lịng mà tồn tại được, cũng như khó lịng được quần chúng đó tơn trọng và tin theo.
Theo Lênin, Đảng khơng được giấu giếm những sự thật đối với quần chúng, không
được che giấu những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải, Đảng phải mạnh dạn
tiến hành “…công tác tự phê bình của mình và tiếp tục bóc trần một cách khơng
khoan nhượng những thiếu sót của bản thân mình…”1.
Trong tác phẩm “Làm gì” Lênin đã vạch mặt phái Mensêvích lợi dụng
phê bình và phê bình vơ ngun tắc “ngồi lê đơi mách ở bên ngồi đại hội” 2
Người cho đó là hành vi vu khống, là hành động thiếu nhân cách.
Tư tưởng vế tự phê bình và phê bình của Lênin được thể hiện rất rõ và nổi
bật qua cuộc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng công nhân
dân chủ xã hội Nga trong tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi” mà Lênin đã
viết. Tư tưởng đó sau này được Lênin tiếp tục phát triển thêm trong tác phẩm
1
2

V..I. Lênin: toàn tập, Nxb tiến bộ , M, 1979, t.8, tr. 220
V..I. Lênin: toàn tập, Nxb tiến bộ , M, 1979, t.8, tr. 404


5


“Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản” và trong nhiều tác phẩm
khác. Người viết sau cách mạng Thánh Mười.
Như vậy, qua nghiên cứu một số tác phẩm của V.I.Lê nin viết trước cách
mạng tháng mười, chúng ta thấy Người đã đề ra sáu nguyên tắc xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân. Những nguyên tắc đó là cơ sở, là điều kiện cho
sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Bơnxêvích Nga và sau này đã trở thành
quy luật xây dựng và phát triển của các Đảng cộng sản khắp nơi trên thế giới
theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức, V.I.Lê nin đã soạn thảo những tiêu
chuẩn sinh hoạt đảng và những nguyên tắc lãnh đạo đảng. Những tiêu chuẩn cơ
bản của sinh hoạt Đảng là: Lựa chọn từng cá nhân để kết nạp vào đảng; mọi
đảng viên buộc phải tham gia vào một tổ chức của đảng; phải thừa nhận kỷ luật
của đảng thống nhất; phải thi hành chế độ bầu cử và báo cáo đối với các cơ quan
đảng; thiểu số phục tùng đa số; các tổ chức cấp dưới phải phục tùng các tổ chức
cấp trên; phải thi hành chế độ phê bình và tự phê bình. Nguyên tắc lãnh đạo
đảng quan trọng nhất: chế độ tập trung, tính tập thể sự gắn bó giữa những người
lãnh đạo với quần chúng, ủng hộ tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới.
Việc nghiên cứu những tư tưởng V.I.Lênin về nguyên tắc Đảng kiểu mới
của giai cấp cơng nhân có ý nghĩa lớn lao, có tầm quan trọng đặc biệt đối với
phong trào cách mạng thế giới, đối với đảng cộng sản theo chủ nghĩa MácLênin, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng của V.I.
Lênin về nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân là bảo vệ và phát
triển những tư tưởng trong đó có người trong điều kiện mới, trước sự tấn công,
phá hoại của kẻ thù. Nắm những nguyên tắc của Đảng sẽ làm cho Đảng cộng
sản giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, đảm bảo cho Đảng đúng là
Đảng của giai cấp cơng nhân, chiến đấu hy sinh vì lợi ích của giai cấp cơng
nhân. Những ngun tắc đó là tiêu chuẩn, là điều kiện đảm bảo cho Đảng đi

đúng mục tiêu con đường đã chọn, thực thi đúng nhiệm vụ, vai trị, trách nhiệm
được giao, khơng đi lệch hướng, lầm đường và tránh được những đổ vỡ đớn đau.

6


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật hiện tượng
trên thế giới cũng như trong đời sống xã hội đều vận động và phát triển trong sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Đảng Cộng sản là một tổ chức
chính trị, một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội, do vậy Đảng cũng tồn tại,
vận động phát triển theo quy luật sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập, tự phê bình và phê bình trong Đảng là biểu hiện của quy luật đó và là địi
hỏi tất yếu khách quan. Bản thân Đảng trong suốt cả quá trình hoạt động lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng cả khi chưa có chính quyền cũng như khi trở thành
đảng cầm quyền, có nhiều vấn đề thực tiễn đạt ra mang tính khó khăn, phức tạp,
nhiều vấn đề mới nảy sinh, từng cán bộ, đảng viên không thể nắm, nhận thức
đầy đủ và sâu sắc ngay những vấn đề đó, quá trình tham gia hoạt động khơng thể
tránh vấp ngã, sai lầm, khuyết điểm, do đó phải tiến hành cơng tác tự phê bình
và phê bình. Mác Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho
hoạt động và phát triển bình thường của Đảng cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh:
Việc Đảng phê bình các hoạt động đã qua của mình là việc tuyệt đối cần
thiết, thơng qua đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn. Kế thừa tư tưởng của MácĂngghen, Lênin coi tự phê bình và phê bình là quy luật bất di bất dịch về sự
phát triển của Đảng cách mạng, theo ông Đảng phải ln tự phê bình và phê
bình, tự vạch ra sai lầm, khuyết điểm, phân tích rõ ngun nhân và tìm cách sữa
chữa, coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một đảng có thật
sự là một Đảng Mác xít chân chính hay khơng. Lênin cho rằng, trong q trình
lãnh đạo, Đảng có khuyết điểm cũng là điều bình thường, điều quan trọng là có
thái độ đúng đắn với sai lầm của mình hay khơng. Người u cầu, trước những
sai lầm của mình, Đảng phải: cơng khai thừa nhận sai lầm, phân tích hồn cảnh
đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những biện pháp để sữa chữa sai lầm, người chỉ rõ:

“và nếu một đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, khơng dám
chẩn đốn bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng
đó sẽ khơng xứng đáng được người ta tơn trọng”1 đó là thái độ nghiêm túc của
đảng, chỉ có đảng nghiêm túc như vậy mới là Đảng Mác xít chân chính. Đối với
1

V..I. Lênin: tồn tập, Nxb tiến bộ , M, 1979, t.8, tr. 366

7


Đảng viên Cộng sản Lênin đòi hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người đảng
viên phải thực hiện tốt tự phê bình, người nói: “Người thơng minh khơng phải là
khơng phạm sai lầm...người nao phạm sai lầm mà không nặng lắm và biết sữa
một cách dễ dàng và nhanh chóng, thì người đó là người thơng minh”. Đối với
đảng cũng như các đảng viên, khơng có thái độ đúng đắn với khuyết điểm thì chỉ
có đi đến chỗ vi phạm những khuyết điểm lớn hơn mà thôi, Lênin khẳng định
điều đó khi nói: “cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa nó “đưa nó đến
chỗ tột cùng” thì từ một sai lầm nhỏ, người ta ln ln có thể làm cho nó thành
một sai lầm lớn ghê gớm”.
Tuy nhiên tự phê bình và phê bình theo quan điểm của Lênin không phải
là theo khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội “tả khuynh”, theo lối cục bộ bè phái
chia rẽ, mất đồn kết. Trong suốt q trình hoạt động cách mạng của mình Lênin
kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái lợi dụng cái gọi là: “tự do phê
bình” để phá hoại tổ chức Đảng, người phê phán những người cộng sản “tả
khuynh” đã khơng có thái độ nghiêm túc trước những sai lầm của mình cho nên
họ không phải là đảng viên của giai cấp không phải là đảng viên của quần chúng
chỉ là những nhóm nhỏ mang tính bè phái ơng khẳng định: “Ai khơng cố ý nhắm
mắt lại thì khơng thể thấy rằng, khuynh hướng “phê bình” mới trong chủ nghĩa
xã hội, chẳng qua chỉ là một loại hình mới của chủ nghĩa cơ hội mà thơi... “tự do

phê bình” là tự do của khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong Đảng dân chủ-xã
hội là tự do biến Đảng dân chủ-xã hội thành một Đảng Dân chủ cải lương, là tự
do đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa
xã hội”, rằng: “Vấn đề đặt ra hiện nay là: ... nhiệm vụ của những người muốn
đánh đổ chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự... cần đấu tranh tích cực chống “phái
phê bình” hợp pháp, nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến cùng cực”, có một
thực tế rõ ràng là kể từ khi ra đời tồn tại và phát triển đến nay các Đảng cộng sản
chân chính và những người Mác xít ln phải đấu tranh chống lại các quan điểm
sai trái phản động, đây cũng được xem như là vấn đề có tính quy luật của Đảng
cộng sản.

8


Tồn tại trong bản thân nội bộ Đảng những mặt đối lập, những mâu thuẫn là
một tất yếu khách quan, song vấn đề cần phải được hiểu là những mặt đối lập,
những mâu thuẫn ấy trong Đảng (mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu; giữa
phẩm chất, trình độ, năng lực còn hạn chế của đội ngũ cán bộ, đảng viên so với
yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ ngày càng cao, mâu thuẫn giữa các ý kiến trái
ngược nhau trong đảng, giữa hình thức, phương pháp lãnh đạo cũ của Đảng với
đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới..), không phải là mâu thuẫn
đối kháng mà những mâu thuẫn đó được giải quyết thơng qua tự phê bình và phê
bình. Như vậy mục đích của đấu tranh phê và tự phê bình là nhằm giải quyết
mâu thuẫn, là sưu góp ý, nói thẳng, nói thật, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm,
đấu tranh chống những quan điểm sai trái...tạo nên sự hiểu nhau hơn, đoàn kết
thống nhất nhau hơn, để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức,
giúp đỡ nhau cùng tiến. Cần tránh lợi dụng tự phê bình và phê bình để chỉ trích
cá nhân, nói xấu, đã kích lẫn nhau mà xem đó là chế độ sinh hoạt bình thường,
thường xuyên trong Đảng.
Công tác đấu tranh phê và tự phê bình được diễn ra trên tất cả các mặt hoạt

động của Đảng, và yêu cầu thực hiện đối với mọi cán bộ đảng viên, bao gồm tự
phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và cùng cấp,
được thể hiện qua các hình thức như: hội nghị chi bộ, đảng bộ qua các thời kỳ,
các đại hội đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, báo cáo quý,
tháng...của cấp dưới lên cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cấp trên đối với
cấp dưới, qua các phương tiện thông tin đại chúng...Q trình thực hiện cơng
tác tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính khách quan, chân thành, cởi mở,
phải cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo, khéo léo về cách thức, cần xác định xem
nên tiến hành vào thời gian nào, nên nói những gì, bằng cách nào, nói đến mức
độ nào...làm tốt điều này sẽ làm tăng chất lượng của tự phê bình và phê bình,
Lênin đã dạy: “Về mặt chính sách thì khơng nên có thái độ thẳng băng và không
nên kịch liệt, không nên cố chấp nếu không cần thiết” Tiến hành công tác này
cịn cần phải thể hiện rõ những đặc tính cơ bản và tuân thủ những đòi hỏi bắt
buộc như, phải bảo đảm tính Đảng: Điều này địi hỏi thực hiện tự phê bình và

9


phê bình phải đứng vững trên cơ sở chủ nghĩa Mác, quan điểm đường lối chủ
trương chính sách của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tư tưởng
và hành động sai trái, mặt khác không thụ động, bàng quan trước sai lầm, khuyết
điểm của bản thân và của đồng chí, của tập thể...
Trong: “Dự thảo lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương và của Ban biên
tập cơ quan ngôn luận trung ương gửi các uỷ viên thuộc phái đối lập” và: “Bản
tuyên bố không đưa ra”, được viết khi bọn Mensêvích chưa chiếm được báo
“Tia lửa”, Lênin đã kịch liệt phê phán và kiên quyết phản đối những thủ đoạn
đấu tranh không mang tinh thần của Đảng, những thủ đoạn đấu tranh không thể
dung thứ được, mà bọn thủ lĩnh của phái Mensêvích đã áp dụng, như chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa tự do vơ chính phủ... “ Những tổ chức ngồi miệng thì thừa
nhận báo “Tia lửa” là cơ quan lãnh đạo, nhưng trong thực tế lại theo đi những

kế hoạch riêng của mình và tỏ rõ là thiếu vững vàng về mặt nguyên tắc” theo
người: “Thiết tưởng, phải chọn lấy một trong hai điều sau đây: hoặc là phải bày
tỏ ý kiến thẳng thắn và dứt khốt thực chất của vấn đề trước tồn thể đại hội,
hoặc là khơng bày tỏ ý kiến gì cả”1.
Q trình tự phê bình và phê bình cịn phải tn thủ cương lĩnh, đường lối,
chính sách, tơn trọng bảo vệ lợi ích của Đảng và phải được tiến hành trong tổ
chức Đảng, khơng được lợi dụng tự phê bình và phê bình để đả kích cá nhân,
gây rối nội bộ, gây chia rẽ, mất đoàn kết đi đến việc phá vỡ sự tập trung thống
nhất trong Đảng, theo Lênin: “Toàn bộ công tác cả chúng ta, tất cả sự nổ lực của
chúng ta sẽ dùng để làm gì, khi mà kết quả bao giờ cũng chỉ là cuộc đấu tranh để
gây ảnh hưởng ấy, chứ khơng phải là để hồn tồn tranh thủ và củng cố ảnh
hưởng đó”. Phê bình và tự phê bình theo quan điểm của Lênin cịn cần cụ thể
thiết thực và kịp thời, điều này đòi hỏi sự đấu tranh khơng phải mang tính chất
chung, trung bình chủ nghĩa mà cần có nội dung, địa chỉ rõ ràng, chỉ ra được, cái
đúng, chỗ sai, nguyên nhân của những vấn đề đó và phương hướng khắc phục,
phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức đảng và mọi cán bộ đảng viên,
“Khi các đồng chí nghe thấy một lời phê phán như thế, một sự phê phán khơng
1

Mác- Lênin tồn tập t6, NxB, H 1996, tr 243.

10


có nội dung, một sự phê phán để mà phê phán thì các đồng chí hãy đề phịng”,
người cịn nói: “Tự phê bình là một điều rất hay, nhưng khi tất cả chúng ta đã
tán thành điều đó, thì sẽ là rất hay nếu chúng ta chú ý cả đến vấn đề nội dung
phê bình nữa”. Tính cụ thể, thiết thực của tự phê bình và phê bình của Đảng còn
thể hiện ở việc hướng vào việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá, phê phán những
vấn đề cấp bách trước mắt của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là

hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chức trách, nhiệm vụ và việc tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, đảng
viên. Thiết thực, cụ thể phải luôn gắn với tính kịp thời, bởi vì nếu phê bình và tự
phê bình được tiến hành một cách kịp thời sẽ hạn chế được sai lầm, khuyết
điểm, khơng để chúng tích tụ lại làm trầm trọng thêm khuyết điểm, đồng thời
ngăn chặn khơng cho những thiếu sót sai lầm của tổ chức đảng và của cán bộ,
đảng viên bị tái diễn, kéo dài, điều quan trọng hơn là giúp uốn nắn ngay những
lệch lạc, kích thích tính sáng tạo, động viên thúc đẩy các tổ chức đảng và mọi
cán bộ, đảng viên hoàn thành thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.

11


Chương 2. VẬN DỤNG NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐÓ ĐỂ THỰC HIỆN
TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG TA HIỆN NAY.
1.Ý nghĩa nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng
đảng hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, việc quán triệt và đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang là vấn
đề vừa cơ bản, lâu dài; vừa là những yêu cầu trước mắt của cuộc vận động xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, của quá trình đổi mới và cải cách bộ máy hành chính, đổi
mới cung cách làm việc của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên nhằm xây
dựng Đảng ta, Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân,
vì dân, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Để thực hiện được những vấn đề đó, trước hết mỗi tổ chức Đảng và cán bộ,
đảng viên cần thực hiện nghiêm túc những quy định về tự phê bình và phê bình của
Đảng đã đề ra:"Mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận; tơn trọng tập hợp và
xem xét để tiếp thu hết ý kiến đúng đắn của các cấp ủy viên và đảng viên trước khi
quyết định" và “Trong những năm tới .tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình

trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nền nếp thường
xuyên và theo định kỳ, khơng làm qua loa, chiếu lệ, hình thức; vận động nhân dân
tích cực góp ý phê bình cán bộ, đảng viên”.
Đồng thời các cấp bộ Đảng cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu như
Đại hội X chỉ ra : “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, tự tu dưỡng, rèn luyện
của cán bộ, đảng viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng; đẩy
mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai. Biểu dương và
nhân rộng những tấm gương cần kiêm, liêm chính, chí cơng vơ tư”. Chú ý giáo dục
đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ vai trò, sự cần thiết phải đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình, mục đích phương pháp tự phê bình và phê bình, kiên
quyết duy trì, thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong các
cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội. Thực hiện đúng

12


ngun tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng, chống mọi
biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, cục bộ bè phái, mất đoàn
kết. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, nâng dần trình độ mọi mặt và cung cấp thông
tin cho cán bộ, đảng viên. để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình , phải đi
liền với tăng cường tập trung, giữ vững kỷ luật. nếu khơng thì tự phê bình và phê
bình sẽ khơng đúng hướng, gây tác hại cho Đảng và cho cách mạng.
Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình của
quần chúng. đây là biện pháp khắc phục triệt để những khuyết điểm của tổ chức
đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc phê bình của quần chúng đối với Đảng là
cung cấp thông tin quan trọng và cần thiết cho tổ chức đảng nghiên cứu, xem
xét, đánh giá hoạt động của mình, cũng như phẩm chất năng lực của cán bộ,
đảng viên. Bởi vậy, quần chùng tổ chức phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên là nhân tố không thể tách rời, không thể thiếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh
để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình. Gắn tự phê bình và phê bình

với cơng tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những tổ chức đảng,
đảng viên không thực hiện tốt Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về tự phê bình và
phê bình, nhất là những người có thái độ thành kiến, trù dập người phê bình;
phải có biện pháp bảo vệ người phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực; mặt khác phải có biện pháp cụ thể buộc người có khuyết điểm,
bị phê bình phải sửa chữa khuyết điểm. Nhất là với những tổ chức đảng yếu kém
và kém nát, nội bộ có nhiều vấn đề phức tạp là việc lớn và khó, chỉ mình tổ chức
đảng đó khơng thể thực hiện tốt được. Những nơi này càng đòi hỏi phải có sự
quan tâm giúp dỡ của cấp trên, đặc biệt là cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng.
2. Vận dụng quan điểm, tư tưởng của Lênin về tính thống nhất, đấu tranh phê
bình và tự phê bình trong Đảng vào nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta trong
giai đoạn hiện nay
2.1.Tự phê bình và phê bình trong quá trình xây dựng đảng
Quán triệt và thực hiện quan điểm về tự phê bình và phê bình theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh, trong suốt q trình xây
dựng và hoạt động, Đảng ta ln coi trọng tự phê bình và phê bình. Đảng ta

13


khẳng định tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo
trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức trách nhiệm của Đảng với
nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng để giải quyết mâu
thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của Đảng. Đảng là một tổ chức chính trị, tất yếu trong q trình vận động,
phát triển, nội bộ Đảng sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Nhưng đó khơng phải là mâu
thuẫn đối kháng, mà là mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ với cái
lạc hậu. Đảng lấy tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản để giải quyết
những mâu thuẫn đó, tạo động lực cho sự vận động, phát triển của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền và trong những lúc chuyển giai đoạn,

vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết, cấp bách hơn. Bởi vì,
Đảng phải giải quyết nhiều nhiệm vụ nặng nề, nhiều vấn đề mới, phức tạp và
luôn luôn vận động, nảy sinh; đòi hòi Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có
trình độ, phẩm chất, năng lực hoạt động thực tiễn ngang tầm với đòi hỏi của
cách mạng. Sự nắm bắt và nhận thức của cán bộ, đảng viên không thể ngay lập
tức đạt được sự sâu sắc mọi vấn đề; đồng thời càng khó tránh khỏi những khuyết
điểm, sai lầm. Thơng qua tự phê bình và phê bình chẳng những giúp cho tổ chức
đảng và mỗi cán bộ, đảng viên vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, nâng cao
được đạo đức cách mạng, mà cịn nâng cao được kiến thức, năng lực, trình độ và
đổi mới được tác phong công tác; phẩm chất đạo đức được bồi dưỡng, rèn luyện,
thử thách. Chính nhờ có sự trung thành, quán triệt và vận dụng đúng đắn quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê
bình trong xây dựng và hoạt động, Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, mở
nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong
tồn Đảng, mà Đảng mới có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác; mới có đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách
cam go, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng ở những thời điểm hiểm
nghèo, trong những giai đoạn lâm nguy, vận mệnh đất nước như "ngàn cân treo
sợi tóc", như Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng Thực dân pháp, đế quốc
Mỹ và khởi sướng, lãnh đạo đất nước hơn 26 năm thực hiện công cuộc đổi mới

14


đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đạt những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử.
Thực tiễn xây dựng Đảng cho thấy: Lúc nào, nơi nào việc tự phê bình và
phê bình khơng được thực hiện nghiêm túc thì lúc đó, nơi đó xuất hiện những
điều kiện làm suy yếu tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền và ở đó ln nảy sinh các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trong thời

gian dài, vấn đề tự phê bình và phê bình của Đảng ta đã bị xem nhẹ. Tình trạng
này diễn ra không chỉ ở phần lớn đảng viên thường và những chi bộ, đảng bộ cơ
sở, mà còn ở cả một số cán bộ cấp cao của Đảng và tổ chức đảng cấp trên. Vẫn
còn những biểu hiện xem nhẹ, chưa thực sự nghiêm túc tự phê bình và phê bình.
ở nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác, sinh hoạt tự phê bình và phê bình chỉ cịn
là hình thức. Người ta vẫn tổ chức sinh hoạt đều đặn, nhưng thực chất lại tước
mất linh hồn của các buổi sinh hoạt, vấn đề tự phê bình và phê bình lại bị biến
thành vũ khí cầu lợi cá nhân
Ngày nay, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chứa đựng những yếu
tố khó lường. Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ
của Đảng rất nặng nề. Phạm vi, quy mô lãnh đạo ngày càng mở rộng, đối tượng lãnh
đạo đa dạng phức tạp; vai trò lãnh đạo của Đảng tăng lên, đòi hỏi Đảng phải luôn
luôn và thực sự trong sạch vững mạnh. Đảng ta đã đề ra những nguyên tắc và lãnh
đạo đất nước thực hiện công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ
sở xây dựng nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan
điểm lệch lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối.
Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã có khơng khí thảo luận thẳng
thắn, phát huy trí tuệ của đông đảo của cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các đề
án, nghị quyết trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều cấp uỷ đảng thực hiện
tốt hơn chế độ kiểm điểm cơng tác tự phê bình và phê bình. Đại hội Đảng X đã đánh
giá những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng là: “ Cơng tác giáo dục chính trị
tư tưởng, cơng tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng
hệ thống chính trị ở cơ sơ, phát triển đảng, cơng tác kiểm tra có những chuyển biến

15


mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trị tiền phong, năng động, sáng tạo, giữ
gìn phẩm chất đạo đức”1. Tuy nhiên, bên cạnh đó Đại hội X cũng chỉ ra yếu kém,

khuyết điểm là: “ tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán
bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu
và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng
cịn thiếu tính thuyết phục. Cơng tác lý luận còn chưa làm sáng tỏ một số vấn đề
quan trọng trong công tác đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu
kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao”.
Từ khuyết điểm trên thực trạng cho thấy hiện nay vẫn cịn khơng ít các cấp
uỷ và tổ chức đảng chưa chú trọng đến tự phê bình và phê bình. Khá nhiều tổ
chức đảng, tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện thường xuyên. Việc phê
bình và phê bình thiếu nội dung thiết thực, thiếu địa chỉ, cịn nặng về hình thức,
nặng về phê bình người khác, phê bình khơng đúng hướng, khơng đúng và
khơng tn thủ những đặc tính và địi hỏi nghiêm ngặt của tự phê bình và phê
bình của Đảng, cũng như theo tư tưởng Hồ chí Minh, đang tồn tại khơng ít tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên. Việc ngại đấu tranh, né tránh, lựa chiều, “dĩ hồ
phú q” trong tự phê bình và phê bình là tình trạng khá phổ biến hiện nay.
đúng như Đại hội X chỉ rõ: “ cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê
bình và phê bình trong các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề
ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy
lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp
chưa nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm trong đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối với những người đứng đầu để xẩy ra
tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kịp thời, kiên quyết”.
Trong khi đó, cuộc sống sinh hoạt của cán bộ, đảng viên chịu nhiều chi phối, tác
động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực. Do những tác động tiêu cực của
mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống ngoại lai và các tệ nạn xã
hội đã tác động, làm nhiều người thay đổi về quan niệm thang giá trị đạo đức xã
1

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI


16


hội, làm xói mịn các giá trị truyền thống tốt đẹp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên
suy thoái về đạo đức lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng. Sinh ra
nhiều căn bệnh nguy hiểm: cục bộ, ích kỷ, vụ lợi, ham quyền lực, ham của cải
làm giàu bất chính; lối sống xa hoa, hưởng lạc. Đối với đồng chí đồng đội, họ
kèn cựa, địa vị , gây mất đồn kết; đối với nhân dân thì quan liêu, sách nhiễu, xa
rời hoặc dân chủ giả tạo, ngoài mặt Khơng ít cán bộ, đảng viên vì lợi ích cá
nhân, mải lo lợi ích cá nhân, gia đình mà quên hết lợi ích của Đảng, của Tổ
quốc, của nhân dân. Đó là những nguy cơ đe dọa sự trong sạch của Đảng và của
cả hệ thống chính trị.
Thực trạng trên khơng phải do tự phê bình và phê bình và cũng không phải
do thiếu đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta mà do nhận thức, cơ
chế vận dụng, do khâu tổ chức thực hiện và người thực hiện gây nên
2.2. Quan điểm tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về sự đồn kết thống nhất, về
tinh thần đấu tranh phê và tự phê bình trong Đảng
Trong cuộc đời hoạt động của mình Bác Hồ của chúng ta thường xuyên chú ý giáo
dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ý thức xây dựng và giữ vững sự đoàn kết thống nhất,
tinh thần đấu tranh kiên quyết, ý thức tự phê bình và phê bình một cách tự giác, chính
bản thân chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của khối đoàn kết thống nhất, một mẫu mực
về tinh thần đấu tranh một tấm gương sáng về thái độ trung thực, thẳng thắn trong Đảng
cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam, người dạy: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt
của thành cơng” câu nói nổi tiếng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành cơng, thành
cơng, đại thành cơng”, đây chính là tư tưởng xuyên suốt, là hành động nhất quán trong
suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Với tư cách người đứng đầu
trong Đảng, người luôn luôn chăm lo, vun đắp, giữ gìn sự đồn kết trong Đảng, Bác
thường xuyên nhắc nhở, đoàn kết là sức mạnh của Đảng, là nhân tố bảo đảm thắng lợi
của cách mạng. Trước khi qua đời, trong di chúc để lại cho đời sau, điều trước tiên Bác

căn dặn là toàn Đảng từ Trung ương đến các chi bộ phải coi trọng sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng, rằng: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục
vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết,
tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi

17


khác” Theo tư tưởng Hồ Chí Minh sự đồn kết thống nhất trong Đảng cần phải được
xây đắp trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở mục tiêu, đường lối của Đảng,
đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lành đạo, cá nhân phụ trách, nguyên tắc đấu
tranh phê bình và tự phê bình...
Hồ Chí Minh cho rằng đồn kết thống nhất trong Đảng, muốn bền vững phải
thực hành tự phê bình và phê bình, coi đó là phương tiện để xây dựng và cũng cố
khối đoàn kết, thống nhất, là quy luật phát triển của Đảng. Người viết: “Chúng ta
phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy.
Có như thế Đảng mới chóng phát triển. Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm
của đồng chí mình. Tự phê bình là nói ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê
bình và phê bình phải đi đơi với nhau. Mục đích là cho mọi người học tập ưu điểm của
nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm”.1..
Đảng là một khối thống nhất, về chính trị, tư tưởng và tổ  chức, tự phê bình
và phê bình là  quy luật phát triển của Đảng. Đoàn kết thống nhất là nguồn sức
mạnh của Đảng, nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng. Trong
nhiều tác phẩm của mình, V.I.Lê nin đã lý giải một cách tồn diện sâu sắc tính
tất yếu và tầm quan trọng đặc biệt của sự thống nhất trong đội ngũ  Đảng. Đồng
thời người cũng chỉ rõ, đó là nguồn sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận củ
Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp "Bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả sự bất
đồng khơng đáng kể, cũng có thể trở thành nguy hiểm về mặt chính trị". V.I.Lê
nin quan tâm đến sự đoàn kết thống nhất của Đảng trong điều kiện đã có chính

quyền "Chun chính vơ sản khơng thể thực hiện được nếu khơng có sự đồn kết
nhất trí của những người lao động". Để sự thống nhất trong Đảng luôn được
củng cố và phát triển, Đảng cần phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện
tự phê bình và phê bình từ đó mới được rút ra được những bài học kinh nghiệm
và tìm cách khắc phục sai lầm. V.I.Lê nin chỉ rõ "…Chúng ta không sợ công
khai phơi bày các sai lầm của chúng ta để sửa chữa". Với ý nghĩa quan trọng
của việc tự phê bình và phê bình trong Đảng nêu trên, V.I.Lê nin chỉ rõ thái độ
1

Hồ Chí Minh tồn tập NXB ST H,1998, T4

18


"công khai thừa nhận sai lầm" của một Đảng ra tiêu chí quan trọng để đánh giá,
xem xét Đảng đó có thật sự là Đảng Mác xít hay khơng. Bên cạnh đó, V.I.Lê nin
cũng nhấn mạnh "Cần phải để cho tất cả các đảng viên được hết sức tự do phê
bình các cơ quan trung ương và cơng kích các cơ quan trung ương…"
2.3. Sự vận dụng tính thống nhất, đấu tranh phê và tự phê bình vào cơng tác xây
dựng chỉnh đốn Đảng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Qua việc học tập, nghiên cứu và từ thực tiễn cách mạng chúng ta nhận thấy:
Kể từ khi ra đời và trong cả quá trình lãnh đạo cách mạng từ đó đến nay, Đảng
cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng của
Mác-Ăngghen- Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đồn kết
thống nhất, về tự phê bình và phê bình, coi đó là quy luật tất yếu, là sinh mệnh của
Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều
kiện để đoàn kết toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi. Đây cũng chính là một
trong những bài học kinh nghiệm quý giá được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo thành
công sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Vận dụng những tư tưởng nêu trên vào sự
nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay, đặc biệt là đối với

nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng theo quan điểm Đại hội Đảng X, XI cần quan
triệt, nhận thức trên một số vấn đề cơ bản sau đây:
* Đánh giá thực trạng về xây dựng sự đồn kết thống nhất; cơng tác đấu
tranh phê và tự phê bình
-Thành tựu: “ Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân tộc, có
tiến bộ”; “Việc thực hiện tự phê bình và phê bình, đẩy đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm những cán bộ, Đảng viên vi phạm
pháp luật nghiêm trọng được nhân dân đồng tình”. “Coi trọng hơn cơng tác...phê
phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, lối sống thực dụng”
-Yếu kém: bên cạnh những ưu điểm nêu trên, Đại hội Đảng X đã nghiêm túc
kiểm điểm chỉ rõ những mặt còn hạn chế đó là: “ sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp
uỷ còn yếu. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân có lúc, có nơi bị xói mịn do những hạn
chế”; “Có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu. Một bộ phận không

19


nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt các cấp...thiếu tính chiến đấu và tinh
thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước,
giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lịng tin,
nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng...Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân
trong một bộ phận cán bộ, Đảng viên có chiều hướng gia tăng...Đó là một nguy cơ
lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”, “Tự phê bình và phê bình
trong các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt được yêu cầu đề ra, chưa tạo
được chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham
nhũng, lãng phí, quan liêu”...Chỉ rõ khuyết điểm đồng thời Đảng ta đã thẳng thắn
công khai thừa nhận trách nhiệm về mình khi để xảy ra những hạn chế khuyết điểm
ấy khi nói: “Những khuyết điểm nêu trên, trước hết thuộc về trách nhiệm lãnh đạo,
chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là của Bộ Chính trị. Ban chấp

hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm của mình trước
Đại hội và trước nhân dân”
- Từ thực tiễn nêu trên và tổng kết thực tiễn xây dựng Đảng 26 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, Đại hội X đã nêu lên 6 bài học kinh nghiệm chủ yếu, trong đó
những nội dung chủ yếu có liên quan đến đến các nội dung đã nêu trên là: “Kiên
định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng”; “Đảng phải được xây dựng
vững mạnh về chính tri, tư tưởng và tổ chức.... nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu...phát huy dân chủ trong Đảng... thường xuyên tự phê bình và phê bình;
giữ gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên
quyết với những phần tử cơ hội”1
* Chủ trương và giải pháp tăng cường sự đoàn kết thống nhất, đẩy mạnh tinh
thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng trong giai đoạn mới
Đại hội X của Đảng xác định chủ đề đại hội (Đây cũng chính là tiêu đề của báo
cáo chính trị ) đó là: “ Nâng cao năng lực lãnh đao và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển”. Chủ đề Đại hội thể hiện rõ bốn thành tố:
1

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X

20



×