Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tiểu luận tìm hiểu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.68 KB, 12 trang )

ĐỀ BÀI: TÌM HIỂU VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

A.Lời mở đầu
Con thuyền lịch sử của dân tộc Việt Nam đã trải qua trùng dương của sự khó
khăn gian khổ, phải đối mặt với đàn cá dữ thực dân và cơn đại hồng thủy đế quốc
để có thể tiến tới bến bờ của sự độc lập và xây dựng thành công lâu dài xã hội chủ
nghĩa. Hệ tư tưởng có vai trị “kim chỉ nam” trong việc vạch định đường lối giải
phóng dân tộc đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ được tác động mạnh mẽ đến tồn xã hội nói
chung và từng thành viên nói riêng của mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp – mối
quan hệ cơ bản nhất trong xã hội loài người. Thực tiễn Cách mạng Việt Nam đã
cho chúng ta thấy rằng, bất cứ khi nào, dù là ở đâu, nếu như vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc nếu như không được kết hợp một cách đúng đắn, quá trình xử lý và vận
dụng vào thực tiễn có sự cứng nhắc sẽ làm cho cách mạng rơi vào hồn cảnh khó
khăn và phải chịu tổn thất nặng nề.

B.Nội dung
I.Dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
1.Về dân tộc.
Dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh
thỗ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống
nhất quốc của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống,
văn hóa và truyền thống đấu tranh chung suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước
và giữ nước.
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn được C.Mác và Ph.Ănghen đặc biệt chú ý trong
quá trình xây dựng học thuyết của mình.Có những câu hỏi xun suốt quá trình
nghiên cứu vấn đề dân tộc của hai ông :Giai cấp công nhân có thái độ thế nào với
vấn đề dân tộc?Mối quan hệ dân tộc với giai cấp cần được xử lý thế nào?...

1




Chủ nghĩa Mác-Lê nin cho rằng dân tộc là sản phầm của quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc,
bộ lac,bộ tộc.
Mác-Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một
cách khoa học.Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý
luận toàn diệnvà sâu sắc, làm cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản
về vấn đề dân tộc.
Dân tộc có tính thống nhất cao và ổn định bền vững đảm bảo bởi ngun tắc
pháp lí cao, cần phải tơn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc.Đi cùng với quá
trình phát triển của mỗi dân tộc là sự phát triển về ý thức dân tộc, thức tỉnh về
quyền sống của mình. Các dân tộc có thể liên hiệp với nhau dựa trên ngun tắc
bình đẳng nhằm có sự giao lưu kinh tế và văn hóa xã hội. Điều này khơng những
khơng làm mất đi tinh hoa văn hóa riêng biệt đặc trưng của mỗi dân tộc, mà còn
được đảm bảo phát triển, gìn giữ, được nhiều người biết đến.
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt
Nam, vấn đề dân tộc được tập trung chủ yếu ở các nội dung về dân tộc trong hoàn
cảnh các nước thuộc địa, thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng các dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, thực
hiện quyền dân tộc tự quyết, …
Trong luận cương chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”.
Về quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế
giới đều có quyền bình đẳng, sự độc lập tự do là điều thiêng liêng, là bất khả xâm
phạm của mọi dân tộc.Quan điểm về vấn đề này trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện :
- Phải đảm bảo cho dân tộc có các quyền dân tộc cơ bản, đó là: quyền được

sống trong hịa bình, độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc.
- Độc lập dân tộc gắn với quyền tự quyết dân tộc, được lựa chọn con đường
phát triển khơng phụ thuộc vào bên ngồi, gắn với sự thống nhất quốc gia, sự
2


vẹn toàn lãnh thổ đất nước, gắn với sự ấm no hạnh phúc của nhân dân. Đó là
điều “dĩ bất biến”.
- Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc,
nếu kẻ nào xâm phạm thì phải kiên quyết đấu tranh để giành lại.Là dân nước
nơ lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của chủ
nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới,
người thấy rõ một dân tộc khơng có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất quyền
tự do.
Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm như: Tâm địa thực dân, Cơng cuộc khai
hóa giết người,… để tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái được gọi là “khai hóa
văn minh” của chúng, thực chất là một “chế độ bóc lột chết người”.
III.Giai cấp và tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp.
1.Về giai cấp.
Giai cấp là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,có
những đặc trưng riêng,có sự khác biệt về sự nắm giữ tư liệu sản xuất trong cung xã
hội, sự phân phối sản phẩm và địa vị trong nền sản xuất.Bản chất của giai cấp là
thể thống nhất trong các mặt đối lập. Giai cấp là phạm trù kinh tế xã hội có tính
chất lịch sử.
Đấu tranh giai cấp là sự đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập
nhau, khơng thể điều hòa được.Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã
hội.
Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”,Lê-nin định nghĩa: “Người ta gọi là giai
cấp,những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một
hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,khác nhau về quan hệ của họ đối

với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như
vậy là khác nhau về cách hưởng thụ phần của cải xã hội ít nhiều mà họ được
hưởng. Giai cấp là tập đoàn người,mà tập đồn này có thể chiếm đoạt lao động
của tập đồn khác,do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định”.
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp.

3


Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập là Đảng theo học thuyết chủ
nghĩa Mác - Lênin, tuy có những tên gọi khác nhau phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử, nhưng Đảng luôn luôn mang bản chất giai cấp cơng nhân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đội tiên phong
của vô sản giai cấp.
Tuy nhiên, điều cần làm rõ và nhấn mạnh là cách thể hiện của Hồ Chí Minh về
bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, khơng hồn tồn theo
kiểu của lãnh tụ Lênin, mà có sự vận dụng sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh Việt
Nam một nước thuộc địa có truyền thống yêu nước lâu đời và thành phần công
nhân chiếm một tỷ lệ nhỏ. Trong Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951), Hồ Chí
Minh đã khẳng định: ‘Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam” .Năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị. Hồ Chí
Minh viết: “Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu
cho lợi ích của cả dân tộc... Đảng là Đảng của giai cấp lao động mà cũng là Đảng
của toàn dân”. Năm 1961, khi miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời
cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
II.Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí

Minh.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc - giai cấp.
Trước khi học thuyết Mác-Lê nin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong
trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra nhưng kết
cục đều thất bại.Nguyên nhân chủ yếu là do sự bế tắc về đường lối,chưa nhận thức
được xu thế của thời đại nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại là
giai cấp công nhân.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc,với quyết tâm ra đi để tìm
con đường cứu nước, cứu dân, sau gần mười năm qua nhiều châu lục, tìm hiểu chủ
nghĩa thực dân, đế quốc cả ở “chính quốc” và thuộc địa của chúng, tích cực hoạt
động trong trào giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
4


Mác – Lênin. Người khẳng định: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình
đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi
người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc..."
Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa biện chứng và vận dụng sáng tạo những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc – giai cấp
trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản.
1.1 Sự kế thừa biện chứng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
dân tộc – giai cấp
Theo Mác-Lênin, mỗi thời đại sản sinh ra một giai cấp nhất định và giai cấp ấy
ln là lực lượng đóng vai trò to lớn đối với mọi vấn đề của dân tộc.Nếu giai cấp
ấy là lực lượng tiên tiến, tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội và ngược
lại. Cũng theo Mác-Lênin, chỉ có giai cấp vơ sản mới thống nhất được lợi ích của
mình với lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc, mới thực hiện được sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại.

Tuy nhiên, theo Mác, Ăngghen và Lênin thì so với vấn đề giai cấp vơ sản thì
vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu và tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa chủ được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vơ
sản ở chính quốc. Xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu
Âu, Mác, Ăngghen và Lênin đều tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp.
1.2 Sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc – giai cấp.
Tiếp thu hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng truyền thống yêu
nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có quan điểm riêng về vấn
đề dân tộc – giai cấp. Người cho rằng: “Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên và trước hết”.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu
thuẫn giữa người nông dân với địa chủ phong kiến; giữa công nhân và tư sản mại
bản. Do đó, Hồ Chí Minh đã xác định phải giải quyết những vấn đề dân tộc thì mới
giải quyết được những vấn đề giai cấp. Quyền lợi dân tộc – giai cấp là thống nhất
và được thể hiện rõ nét ở Nghị quyết Trung ương VIII năm 1941 do Nguyễn Ái
5


Quốc chủ trì: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn
vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, khơng duy trì được tự do độc lập cho tồn dân tộc thì chẳng
những tồn thể quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được.”
Từ việc nhận thức được rằng, thuộc địa là khâu yếu nhất trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cả cách mạng vơ sản ở chính quốc, và sau
đó sẽ giúp đỡ cho cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đây chính là điểm sáng tạo nổi
bật nhất của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc – giai cấp so với chủ nghĩa MácLênin.
2. Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc - giai cấp.

2.1 Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vấn đề dân tộc luôn gắn liền với vấn đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp,
và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của
một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ trên lập
trường của giai cấp công nhân, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở
Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác,
vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Hồ Chí Minh là người cộng sản sớm nhận thức mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp và vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ này trong cách mạng Việt Nam.
Người chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công-nông
và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng
để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập nhà nước của dân, do
dân, vì dân; gắn kết ĐLDT với CNXH.
2.2 Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH.

6


Hồ Chí Minh khẳng định: các nước thuộc địa phương Đông không phải làm
ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi
mới bàn đến cách mạng XHCN.
Khác với các con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX), hoặc với chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX),
con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.Năm
1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định con
đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.Năm 1960, Hồ Chí

Minh lại khẳng định rõ hơn: “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, “Nước được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản
ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân
tộc với các mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được
độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu,
nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Hồ Chí Minh
nói: “u Tổ Quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu CNXH, vì có tiến lên CNXH thì
nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ Quốc mỗi ngày một giàu mạnh
thêm”.
2.3. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp, có độc lập rồi mới có địa bàn để làm
cách mạng XHCN. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5 - 1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt trước sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
khơng địi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những quốc gia dân

7


tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”.
2.4 .Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tơn trọng độc lập của các
dân tộc khác.

Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc
mình mà cịn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Người nói: “Chúng ta phải
tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta
vậy”.
Người nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc
tế cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam
Á, ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống
Pháp và khẳng định: “giúp bạn là tự giúp mình”, bằng thắng lợi của cách mạng
mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Nguyễn Ái Quốc đã ý thức rõ hơn về con đường đúng đắn mà cách mạng Việt
Nam phải trải qua. Năm 1960, Người cịn nhấn mạnh: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì
khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đây cũng là sự
khẳng định một tầm nhìn mới, hướng đi mới, nguyên tắc, mục tiêu và giải pháp
hoàn toàn tiến bộ, thấu đáo và sâu sắc về căn bản so với các vị lãnh tụ trong những
phong trào yêu nước trước đó. Ngay từ những năm đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin, Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” - chủ nghĩa dân
tộc truyền thống ở các nước thuộc địa, với “chủ nghĩa quốc tế” - chủ nghĩa dân tộc
theo lập trường của giai cấp vô sản. Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực
lớn của đất nước… Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng
sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ
biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Người luôn nhắc nhở khi giải quyết vấn đề dân tộc
phải đứng vững trên lập trường vơ sản, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc
tư sản, chủ nghĩa sô vanh cũng như chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.

8



Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc có nhiệm vụ giải quyết triệt
để những mâu thuẫn cơ bản ở các thuộc địa nói chung và ở Việt Nam nói riêng –
đó là mâu thuẫn giữa dân tộc với thực dân, đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa
công – nông với tư sản, phong kiến trong nội bộ dân tộc. Nghĩa là làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản hay chủ nghĩa xã
hội.
Từ đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: giai cấp vơ sản ở chính quốc và nhân dân lao động
ở thuộc địa cần phải tích cực phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau. Vì, trong cuộc
đấu tranh tự giải phóng, họ có chung một kẻ thù là chủ nghĩa tư bản thực dân, đế
quốc.
Tháng 6 năm 1924, phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
nhận thức được rằng: “… vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc đại gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”.
Vận dụng sáng tạo công thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng
dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…cơng cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và trên lập trường của giai cấp vô sản,
xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp; độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội; chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
2.2 Con đường khẳng định tính đúng đắn trong tư tưởng Hồ Chí Minhvề dân
tộc và giai cấp.
Động lực lớn nhất của đất nước là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc sâu
sắc. Theo cơ sở đó, dân tộc – giai cấp, quyền lợi dân tộc – quyền lợi giai cấp luôn
thống nhất với nhau và phù hợp với thực tiễn lịch sử của Việt Nam. Ở thời đại Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc đã chuyển thành chủ nghĩa dân tộc bản xứ hay chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại. Nói cách khác, cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam có đặc trưng riêng. Vì thế chủ nghĩa u nước Việt Nam hiện đại chẳng

những kế thừa tinh thần dân tộc được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử chống
ngoại xâm mà còn tiến bộ so với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa dân tộc
9


Sơvanh. Nó có nhiệm vụ giải quyết đồng thời hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng
Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân với tư sản mại bản; nông dân với địa chủ phong kiến trong
nội bộ dân tộc. Từ việc thực hiện nhiệm vụ trên, tiếp đến đạt được mục tiêu xây
dựng thành công XHCN là mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt Nam.
Trong chính cương, sách lược vắn tắt của mình, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ hai giai
đoạn của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản và thực hiện mục tiêu ba giải phóng: giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Cuộc cách mạng này, tự bản thân
nó đã két hợp hai tiến trình của hai sự nghiệp: giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ
của thực dân và giải phóng giai cấp khỏi áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải
quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều này phù hợp với lợi ích của giai
cấp và lực lượng tiến bộ cũng như xu thế của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh
khơng chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong
thời đại chủ nghĩa quốc tế mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu
giải phóng dân tộc là mục tiêu giải phóng giai cấp, con người.
Với tư cách là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “Mục đích
của cuộc đấu tranh khơng chỉ cho dân tộc mình mà cịn cho độc lập của tất cả các
dân tộc bị áp bức bóc lột trên thế giới”. Với mục đích nhân văn đó, sức mạnh dân
tộc ln thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sánh. Sức mạnh dân tộc đã hịa
mình vào sức mạnh thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi dân tộc lại có một Đảng cộng sản của riêng mình.
Trước hết Đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm trước dân tộc mình. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, việc chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở

mỗi nước không thể do Đảng cộng sản ở nước khác làm thay. Nêu cao tinh thần
dân tộc tự quyết nhưng Hồ Chí Minh khơng qn nghĩa vụ quốc tế của mình trong
việc giúp đỡ các dân tộc anh em đấu tranh và thành lập Đảng cộng sản của riêng
mình. Theo Người, “giúp bạn là tự giúp mình”. Người tán thành ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Hoa, các cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia với chủ
trương: thắng lợi của cách mạng mỗi nước sẽ đóng góp thành quả vào cách mạng

10


thế giới để “cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vơ sản trong phạm vi quốc gia.”
3. Ý nghĩa của quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc – giai
cấp đối với thắng lợi cách mạng đất nước.
Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng; cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản không chỉ là minh chứng tiêu biểu
cho chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa biện chứng và vận dụng
sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản.
Trên cơ sở đó, Người đã phát triển nhận thức và xử lý mối quan hệ ấy theo quan
điểm phù hợp với nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng.

C.Kết luận
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ dân tộc – giai
cấp và cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí
Minh đã vừa phát triển nhận thức, vừa xử lý mối quan hệ đó theo quan điểm mới

phù hợp với những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó Người đã xây dựng nên một hệ
thống quan điểm riêng, sáng tạo, đúng đắn – tư tưởng Hồ Chí Minh – về vấn đề
dân tộc – giai cấp cũng như cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp có sự sáng tạo đặc sắc, có giá trị lí luận và thực tiễn lớn lao.Những
thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thế kỉ XX đã chứng tỏ giá trị
khoa học và thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng giải
phóng dân tộc.
Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh cho chúng ta những bài học giá trị có
tính lý luận và thực tiễn cao của cả ngày hôm nay. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh,chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
11


dân tộc, tạo nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, nhận thức
và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân,giải quyết tốt mối
quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới nhằm ra sức phát
triển kinh tế, văn hóa làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

12




×