Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu
trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm
Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu)
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội, nên
phát triển nguồn nhân lực luôn được sự quan tâm chú ý trong chiến lược phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta. Trước tiên để phát triển con người toàn
diện thì cần phải có một sức khỏe tốt, nếu không có một thể lực mạnh khỏe thì
khó có thể làm được việc gì. Hồ Chí Minh cũng đãn rất coi trọng sức khỏe con
người, Người đã từng nói: “Mõi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi
người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Dân cường thì nước thịnh”.
Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cũng đã nêu: “Sự cường tráng về
thể chất là nhu cầu của bản thân con người đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản
trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm
của bản thân xã hội”. Sức khỏe là vốn quý có sức khỏe thì sẽ khỏe mạnh, làm
giàu cho bản thân tạo ra nhiều của cải cho xã hội thúc đẩy đất nước phát triển.
Vấn đề chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân đang là mối quan tâm
của xã hội hiện nay, toàn Đảng toàn dân ta luôn quan tâm chú ý đến vấn đề này
và được thể hiện nhất quán trong nghị quyết Trung ương khóa VII là: “Sự
nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, trách
nhiệm của Đảng, của chính quyền, …”.
Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 – 2010
có đưa ra mục tiêu chung là : Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch
vụ CSSKBĐ, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng.
Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và
tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển
giống nòi. (12)
1
Đặc biệt là việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho đối tượng người nghèo
nói chung và người nghèo dân tộc thiểu số nói riêng, được thể hiện trong nhiều
văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trong đó, đặc biệt quan trọng là các
văn bản về đảm bảo quyền được khám chữa bệnh và tăng cường khả năng tiếp
cận cũng như sử dụng dịch vụ y tế của mọi người dân thông qua các chính sách
phát triển bảo hiểm y tế và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Như:
Quyết định 135/1998/QĐ - TTg năm 1998, được Thủ tướng Chính phủ
ban hành và phê duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi và vùng sâu vùng xa.
Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 186/2001/QĐ -
TTg về chương trình phát triển kinh tế xã hội cho 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc
biệt khó khăn, đó là: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai, Hà Giang, Sơn La và Lai
Châu.
Năm 2002, ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 06 –
CT/TW về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, trong đó nêu rõ: “Cần
phải xây dựng các chính sách y tế ưu tiên cho người dân sống ở khu vực vùng
sâu, vùng xa, đặc biệt người dân tộc thiểu số nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
y tế, góp phần nâng cao sức khỏe người dân”.
Được sự quan tâm ngày càng nhiều của Đảng và Nhà nước, trên thực tế
là, tại rất nhiều xã miền núi các trạm y tế với đội ngũ thầy thuốc đã phần nào
đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về chữa bệnh cho nhân dân. Thực trạng đó thể
hiện qua số lượt người dân đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế đã ngày một
tăng lên. Lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số vào các thầy thuốc tây y ngày
càng được củng cố. Có thể có một cái nhìn khái quát là hệ thống y tế Nhà Nước
ở các cơ sở đã có nỗ lực lớn thu hút người dân miền núi đến khám và chữa bệnh.
Đó là một khía cạnh đáng mừng, tuy nhiên thực trạng chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho các dân tộc thiểu số có số dân quá ít như dân tộc La Hủ còn đang tồn tại
rất nhiều bất cập.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện nhiều
chính sách, chương trình dự án nhằm nâng cao đời sống, đẩy mạnh phát triển
2
kinh tế, văn hóa xã hội vùng các dân tộc thiểu số đặc biệt là dân tộc La Hủ. Hệ
thống cơ sở hạ tầng vùng dân tộc La Hủ đã được Nhà nước quan tâm đầu tư xây
dựng, đời sống cộng đồng dân tộc La Hủ phần nào được cải thiện cả về vật chất
lẫn tinh thần. Tuy nhiên , do một số hạn chế: địa bàn cư trú khó khăn, trình độ
học vấn, khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật, … còn kém nên mặc dù được
Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ
phát triển sản xuất, … nhưng dân tộc La Hủ vẫn là dân tộc có mức sống thấp, tỷ
lệ hộ nghèo đói cao, chất lượng chăm sóc sức khỏe đồng bào La Hủ còn nhiều
hạn chế.
Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba
Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu).
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu dựa trên các kiến thức của xã hội học chuyên ngành và xã hội
học đại cương nhằm làm rõ vấn đề “thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
dân tộc La Hủ”.
Qua nghiên cứu giúp cho việc củng cố và hoàn thiện hơn hệ thống lý luận
của xã hội học chuyên ngành và xã hội học đại cương. Đồng thời từ cái nhìn
khái quát hóa, trừu tượng hóa mở ra một số hướng tiếp cận về hoạt động y tế đối
với đồng bào dân tộc thiểu số dưới góc độ xã hội học, gợi mở những nghiên cứu
tiếp theo với quy mô lớn hơn sâu hơn.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dưới góc độ tiếp cận của xã hội học cho chúng ta thấy rõ thực trạng chăm
sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu số La Hủ ở xã Bum Tở, xã Ba
Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao – thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu.
Đồng thời tìm ra những mặt tích cực, những mặt hạn chế cần khắc phục
trong hoạt động của cán bộ y tế ở các vùng dân tộc thiểu số. Giúp chúng ta thấy
3
rõ được sự đánh giá của người dân về một số yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cộng đồng y tế. Đề xuất giải pháp để khắc phục
những khó khăn yếu kém còn tồn tại phát huy vai trò đội ngũ cán bộ y tế của
dân tộc La Hủ ở huyện Mường Tè nói riêng và cả nước nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ “Thực trạng chăm sóc
sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”.
Trong khuôn khổ của một báo cáo thực tập về chuyên ngành xã hội học
tôi tập trung làm rõ thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu về một số vấn đề sau:
* Thực trạng về kiện toàn mạng lưới y tế ở địa bàn dân tộc La Hủ sinh
sống.
* Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em
* Thực trạng vệ sinh môi trường của đồng bào.
* Từ việc phân tích trên tôi xin đưa ra một số kết luận và khuyến nghị có
tính khả thi giúp các nhà hoạch định chính sách cùng chính quyền địa phương có
cơ sở tham khảo để đề ra những chính sách và chương trình, kế hoạch phát triển
để nâng cao chất lượng chăm sóc ban đầu cho dân tộc La Hủ ở địa bàn huyện
Mường Tè nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung trong cả nước.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho dân tộc La Hủ”.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là: Dân tộc La Hủ sinh sống trên địa bàn
xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè
tỉnh Lai Châu.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ báo cáo thực tập về: “Thực trạng chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho dân tộc La Hủ”, tôi đã sử dụng nguồn tư liệu, số liệu tổng hợp của:
4
* Dự thảo báo cáo tổng hợp: “Dự án điều tra cơ bản dân tộc La Hủ” –
năm 2006, của KS, CN Vy Xuân Hoa – Phó vụ trưởng Vụ chính sách dân tộc,
thuộc ủy ban dân tộc miền núi.
- Trong dự án này đã tiến hành điều tra 454 hộ đồng bào dân tộc La Hủ
trên địa bàn 5 xã thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu:
+ Xã Bum Tở
+ Xã Ba Vệ Sủ
+ Xã Pa ủ
+ Xã Ka Lăng
+ Xã Nậm Khao
Dự án điều tra về:
+ Kinh tế
+ Văn hóa, y tế và giáo dục
+ Chính sách và thực hiện chính sách.
Ở báo cáo của tôi, tôi xin phép lấy một phần số liệu về y tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để có được những số liệu biên bản phỏng vấn sâu trong báo cáo của tôi,
tôi đã sử dụng phương pháp phân tích tài liệu dựa trên số liệu của Dự thảo báo
cáo tổng hợp: “Dự án điều tra cơ bản dân tộc La Hủ” – năm 2006, của KS, CN
Vy Xuân Hoa – Phó vụ trưởng Vụ chính sách dân tộc, thuộc ủy ban dân tộc
miền núi.
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
6.1. Giả thuyết nghiên cứu.
Mô tả về:
* Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở tuy đã có những đầu tư đáng kể xong
còn tồn tại nhiều hạn chế, tỷ lệ hoạt động của các trạm y tê quá thấp so với số
lượng dân cư; số lượng cán bộ y tế tại các xã còn rất ít, nơi đến khám chữa
bệnh của đồng bào dân tộc.
5
* Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em ngày càng được quan
tâm nhiều hơn, được thể hiện qua các chỉ báo về: Nơi sinh đẻ; tỷ lệ trẻ em bị suy
dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ được uống và tiêm phòng.
* Vệ sinh môi trường của dân tộc La Hủ còn kém.
6.2. Khung lý thuyết
Điều kiện kinh tế – xã hội
Chăm sóc sức khỏe ban đầu
6
Chăm sóc sức khỏe
bà mẹ – trẻ em
Vệ sinh môi trường Kiện toàn mạng
lưới y tế cơ sở
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
1.1. Quan điểm Macxít
Đề tài nghiên cứu của tôi được vận dụng triệt để nguyên tắc và quan điểm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc phân
tích “thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”.
Đối tượng nghiên cứu đòi hỏi phải xem xét như một chỉnh thể thống nhất
trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố: kinh tế, văn hóa, xã hội. Đồng thời
phải luôn luôn nhìn đối tượng trong sự vận động, biến đổi, phát triển trong điều
kiện lịch sử cụ thể. ở đây tôi xem xét thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
dân tộc La Hủ được đặt trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố kinh tế, văn
hóa xã hội trong điều kiện cụ thể của địa phương, là địa bàn vùng núi non hiểm
trở – tất cả mọi điều kiện nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần của
đồng bào còn rất nhiều hạn chế.
Vậy thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ cũng còn
rất nhiều vấn đề bất cập, bên cạnh những mặt đã đạt được sẽ còn không ít hạn
chế.
Ngoài việc vận dụng triệt để cơ sở lý luận chung đề tài còn vận dụng một
số lý thuyết của xã hội học đại cương và xã hội học chuyên ngành nhằm làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu này.
1.2. Lý thuyết xã hội học sức khỏe – bệnh tật theo quan điểm K.Marl
– Engels
Trong tác phẩm K.Marl – Engels toàn tập: “Tinh cảnh giai cấp công
nhân”, đứng trên lập trường Macxít. Engels cho rằng sức khỏe được coi nhu là
vũ khí chính trị mà giai cấp tư ssản dùng để chế ngự giai cấp công nhân, còn giai
cấp công nhân thì coi sức khỏe là tài sản duy nhất của họ trong quan hệ xã hội
với các nhà tư sản. Đặc điểm chung của phương pháp Mac – xít là tìm cách gắn
bệnh tật với cấu trúc kinh tế, sự phát triển về chính trị.
7
Theo Engels bệnh tật là một biểu hiện và là kết quả trực tiếp chạy theo lợi
nhuận bất chấp sự an toàn trong lao động. An toàn ở đây không chỉ bó hẹp trong
nội dung công nghiệp mà còn có ý nghĩa đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con
người, đảm bảo an ninh xã hội bao gồm đời sống như: Nhà ở, lương thực, thực
phẩm, thuốc men. Engels đưa ra hai điểm cơ bản đặt ra cơ sở nhận thức Mac –
xít về y học xã hội, cơ sở một khoa học xã hội về sức khỏe:
- Thứ nhất: Bệnh tật không phải là sản phẩm của phẩm chất cá nhân và tai
nạn, là sản phẩm của tổ chức công nghiệp.
- Ốm đau và bệnh tật trước hểt là sản phẩm của điều kiện xã hội chứ
không phải do sự cố sự vật không thể tránh khỏi, Engels bác bỏ quan niệm thần
học khi giải thích hiện tượng bất công trong xã hội, ông xem xét việc sản sinh ra
bệnh tật trong mối quan hệ với sự nghèo khổ. Có nghĩa là trong gia đình, vùng
có mức sống thấp phải sống trong những điều kiện tồi tàn, ô nhiễm, ăn uống
không đủ chất nên dễ bị bệnh. Engels và các tác giả Mac – xít khác đã nhìn thấy
bệnh tật và chính trị nó như một kế hoạch của quá trình xã hội.
- Áp dụng lý thuyết sức khỏe bệnh tật trên quan niệm Mac – xít vào trong
nghiên cứu “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” ở xã
Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường
Tè, tỉnh Lai Châu thì bệnh tật của người dân không phải là sản phẩm của cá
nhân mà nó là sản phẩm của điều kiện xã hội cụ thể. Việc sản sinh ra bệnh tật là
do nghèo khổ, gia đình ở các khu vực có mức sống thấp thường phải sống trong
vùng điều kiện ăn ở tồi tàn không đảm bảo vệ sinh dễ bị bệnh mà đây là ở các xã
Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao – là địa bàn miền núi
điều kiện sống chưa phát triển, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, môi
trường sống mang đặc trưng vùng núi cao, ít có sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài
nên điều kiện đó rất dễ mắc bệnh.
Vì vậy thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu
số nơi đây còn tồn tại những vấn đề gì ? Các cơ quan ban ngành cần có các
chính sách, sự quan tâm đầu tư đúng đắn và nhiều hơn nữa để đảm bảo nâng cao
sức khỏe cho đồng bào dân tộc La Hủ.
8
1.3. Lý thuyết hành động xã hội
Theo quan điểm Max Weber: “ Hành động xã hội là một hành vi mà chủ
thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định”. Weber đã nhấn mạnh đến
“động cơ” bên trong của chủ thể gắn cho nó ý nghĩa chủ quan nhất định. Hành
động xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức.
Những thành tố cấu thành nên hành động xã hội là: Động cơ, mục đích,
chủ thể, hoàn cảnh, môi trường, công cụ phương tiện.
Khởi điểm của phương tiện hành động xã hội là nhu cầu, lợi ích của cá
nhân. Những yếu tố này tạo ra động cơ thúc đẩy hành động.
Nhu cầu của chủ thể tạo ra động cơ thúc đẩy hành động để thỏa mãn nó.
Động cơ này sẽ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham gia định hướng hành động
và quy định mục đích của hành động.
Thành tố tiếp theo trong cấu trúc của hành động xã hội là chủ thể của
hành động. Chủ thể hành động có thể là cá nhân, nhóm, cộng đồng hay toàn thể
xã hội. Có thể nói rằng để có một hành động xã hội thì cần phải có tối thiểu là
một chủ thể. Một yếu tố khác trong cấu trúc của hành động xã hội là hoàn cảnh
hoặc môi trường của hành động. Nói cách khác đó là những điều kiện về thời
gian, không gian, vật chất và tinh thần của hành động. Tùy theo hoàn cảnh hành
động, các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án tối ưu nhất với họ.
Áp dụng vào thực tiễn đề tài nghiên cứu theo quan điểm của Max Weber:
Là do nhu cầu (muốn được chữa trị, quan tâm chăm sóc, … ) của đồng bào dân
9
Hoàn cảnh
Nhu
cầu
Động cơ Chủ thể
Công cụ
phương tiện
Mục
đích
tộc La Hủ, ở trong hoàn cảnh cho phép (là ngày càng được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước) tác động vào chủ thể hành động, thông qua phương tiện ( ở
đây là hệ thống mạng lưới y tế tại địa bàn các xã ), để đạt mục đích ban đầu thỏa
mãn nhu cầu. Nhưng việc thỏa mãn nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
dân tộc La Hủ như thế nào, thực trạng của vấn đề ra sao ? trong báo cáo tôi xin
trình bày về nội dung này.
2. Khái niệm công cụ
* Khái niệm sức khỏe
Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi con người chúng ta và được coi
là giá trị chung của nhân loại. Khái niệm sức khỏe trong đời sống hàng ngày
được hiểu như là: Sức khỏe là không ốm đau bệnh tật, không phải đến bệnh
viện. Người có sức khỏe là người có cơ thể cường tráng, cơ thể hoạt động bình
thường có khả năng lao động, làm việc và hoạt động với năng suất chất lượng
cao.
Tổ chức Y tế thế giới WHO (World Healthy Organization) đã đưa ra khái
niệm sức khỏe như sau: “ Sức khỏe là trạng thái sảng khoái về mặt thể chất, tinh
thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh hay tật, không yếu đuối mà là ở
trạng thái có thể chất tốt, trí tuệ phát triển và xã hội lành mạnh”.
Năm 1978, Hội nghị quốc tế của 134 nước và 67 tổ chức quốc tế ở Alma
– Ata đưa ra một tuyên ngôn quan trọng kêu gọi đẩy mạnh sức khỏe cho nhân
dân và cũng cho rằng sức khỏe liên quan đến đến cả về thể chất, tinh thần và xã
hội.
Như vậy, sức khỏe là trạng thái hoàn chỉnh về thể chất, tâm thần và xã hội
chứ không chỉ là không có bệnh và thương tật.Sức khỏe là tài sản riêng của mỗi
cá thể đồng thời cũng là tài sản quý giá chung của cả cộng đồng. Tất cả mọi
người trên hành tinh này đều có mơ ước sống khỏe mạnh để cống hiến tối đa
cho bản thân, gia đình và xã hội. Bảo vệ sức khỏe là quyền lợi đồng thời cũng là
nghĩa vụ cao cả của mọi người, mọi ngành trong toàn xã hội.
* Chăm sóc sức khỏe ban đầu
• Khái niệm chăm sóc sức khỏe
10
Theo tác giả Hoàng Đình Cầu trong cuốn: “Quản lý và chăm sóc sức
khỏe ban đầu”, NXB Y học Hà Nội năm 1995.
Chăm sóc sức khỏe: Là việc làm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt
(nhu cầu đầy đủ dinh dưỡng, được vui chơi giải trí …), để đảm bảo trạng thái
thỏa mãn về thể chất, tinh thần, xã hội của mỗi thành viên trong xã hội.
• Khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu
Khái niệm chăm sóc sức khỏe ban đầu được Đại hội sức khỏe thế giới
Alma – Ata định nghĩa như sau:
“ Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những chăm sóc thiết yếu, xây dựng trên
những phương pháp và kỹ thuật thực hành có cơ sở khoa học và chấp nhận về
mặt xã hội. Có thể phổ biến rộng rãi cho cá nhân và gia đình của cộng đồng xã
hội ở nước đó có thể chịu đựng được ở mỗi giai đoạn phát triển của họ và theo
một tinh thần tự nguyện, tự giác”.
CSSKBĐ có 8 nội dung sau:
- Giáo dục sức khỏe
- Dinh dưỡng hợp lý
- Cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường
- Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em – kế hoạch hóa gia đình
- Phòng và chống các dịch bệnh đang lưu hành ở địa phương
- Tiêm chủng mở rộng (chủ yếu 6 bệnh lây nhiễm ở trẻ em)
- Điều trị bệnh thông thường và thương tích tại nhà
- Đảm bảo thuốc thiết yếu và trang bị chủ yếu
Ở Việt Nam, để phù hợp với điều kiện thực tế thì ngoài 8 nội dung trên
còn có thêm 2 nội dung sau:
- Quản lý sức khỏe
- Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở
Ở đề tài này chúng ta tìm hiểu cụ thể thực trạng CSSKBĐ cho dân tộc La
Hủ, là sự mô tả thực trạng CSSKBĐ về các nội dung sau: Thực trạng kiện toàn
mạng lưới y tế cơ sở thể hiện qua: hoạt động của các trạm y tế tại địa bàn các xã,
số lượng cán bộ y tế tại các xã, nơi chữa bệnh.Thực trạng chăm sóc sức khỏe bà
11
mẹ – trẻ em thể hiện qua các chỉ báo về: Nơi sinh đẻ; tỷ lệ trẻ em bị suy dinh
dưỡng, tỷ lệ trẻ được uống và tiêm phòng. Các yếu tố về vệ sinh môi trường, …
để mang lại cuộc sống khỏe mạnh cho đồng bào dân tộc.
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng luôn được sự quan tâm của tất
cả mọi người.
Đại hội sức khỏe thế giới ở Alma – Ata tổ chức năm 1978, đã đưa ra 8 nội
dung CSSKBĐ cho cộng đồng có liên quan đến vấn đề: CSSK bà mẹ – trẻ em
và vệ sinh, phòng chống các dịch bệnh đã nêu trên.
Ở Việt Nam Đảng và Nhà nước cũng ban hành nhiều chủ trương về chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân.
Việc CSSKBĐ cho nhân dân,chúng ta cứ nghĩ thuộc lĩnh vực nghiên cứu
của ngành y tế. Nhưng nghiên cứu về CSSKBĐ cho nhân dân đã thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Ngành xã hội học cũng có
những nghiên cứu về CSSKBĐ cho nhân dân như trong tạp chí xã hội học có
chuyên đề “Nghiên cứu xã hội học về sức khỏe”, tác giả James Allman có
những bài viết quan trọng về “chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Việt Nam”, trên tạp
chí xã hội học số 2 năm 1993.
Nguyễn Hồng Sơn nghiên cứu “Vai trò của hệ thống y tế cơ sở trong
CSSKBĐ cộng đồng nhân dân huyện Mê Linh – tỉnh Vĩnh Phúc”, khóa luận tốt
nghiệp K38 chuyên ngành xã hội học. Tác giả đề cập đến hệ thống y tế cơ sở y
trong chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn.
Bùi Thị Hồng Thùy nghiên cứu “ảnh hưởng của hoạt động y tế cơ sở
trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng nông thôn trong những năm gần đây”,
khóa luận tốt nghiệp K41 chuyên ngành xã hội học.
Cả hai nghiên cứu trên đều xoay quanh những vấn đề hệ thống y tế cơ sở:
Thực trạng chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn của hệ thống y tế cơ sở
như thế nào, có đề cập đến đội ngũ cán bộ y tế xã, cùng trang thiết bị của trạm y
tế ra sao. Hệ thống y tế này đóng vai trò như thế nào trong chăm sóc CSSKBĐ
cho cộng đồng.
12
“Phụ nữ, sức khỏe và môi trường” (Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình
và phát triển), do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2001 đã tập trung vào
mấy vấn đề chính sau đây:
Một là mô tả điều kiện và môi trường làm việc trong mối quan hệ với sức
khỏe lao động nữ.
Hai là nghiên cứu sự hiểu biết, nhận thức của lao động nữ và người sử
dụng lao động về tác động tiêu cực môi trường làm việc không đảm bảo vệ sinh
đối với sức khỏe.
Ba là điều tra thái độ của lao động nữ và hành vi phòng ngừa về mặt sức
khỏe của việc sử dụng thiết bị an toàn trong thời gian làm việc.
Bốn là phân tích tác động của các yếu tố tâm lý – xã hội và văn hóa đến
việc sử dụng thiết bị an toàn bảo vệ sức khỏe lao động nữ.
Năm là làm rõ vai trò của người sử dụng lao động và người lao động, cả
nam giới và nữ giới trong việc bảo vệ môi trường làm việc.
Trong bài viết “Về ứng xử của gia đình nông thôn trong phòng và chữa
bệnh qua các khảo sát xã hội học gần đây” trích trong cuốn sách “Những nghiên
cứu chọn lọc về xã hội học nông thôn”, do nhà xuất bản Khoa học xã hội năm
2004. Tác giả Trịnh Hòa Bình nêu khá rõ về tình hình chăm sóc sức khỏe của
gia đình nông thôn hiện nay.
Tác giả cho rằng cách xử lý và lựa chọn loại hình dịch vụ y tế của gia
đình nông thôn, trong những lúc ốm đau không chỉ phản ánh khả năng thực tế
của gia đình trong việc chăm sóc sức khỏe, mà còn thể hiện trình độ “văn hóa y
tế”. Trong điều kiện “văn hóa y tế” thấp thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng
thấp và cách ứng xử của gia đình cũng thật đơn giản. Ngược lại trong điều kiện
“văn hóa y tế” cao thì nhu cầu chữa trị cũng cao và sự lựa chọn các hình thức
phục vụ y tế hợp lý, ngay cả trong điều kiện gia đình có những hạn hẹp về vật
chất.
Các tạp chí khoa học xã hội có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề chăm
sóc sức khỏe cho cộng đồng như: Bài viết của tác giả Đoàn Kim Thắng “Những
13
vấn đề xã hội của mô hình nhà y tế thôn bản trong CSSKBĐ” (tạp chí Khoa học
về Phụ Nữ số 5 năm 2003). Bài viết đề cập đến những vấn đề:
Thực trạng chăm sóc tại một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn lạc hậu
theo tập tục, người dân không có điều kiện tiếp cận với y tế.
Thứ hai là những khó khăn của trạm y tế về trình đọcủa y bác sĩ còn kém,
ngân sách hạn chế, điều kiện địa lý còn cách xã cộng đồng.
Chính những khó khăn đó cần thiết có một loại hình y tế cơ sở tuyến thôn
bản phục vụ CSSKBĐ cho cộng đồng, là cầu nối trạm y tế với người dân xã.
Nhân viên y tế thôn bản là mạng lưới cộng tác viên, giúp cho y tế cơ sở triển
khai các chương trình y tế, vệ sinh phòng chống bệnh dịch, CSSKBĐ cho người
dân có ý nghĩa đối với địa hình phức tạp, khó có điều kiện tiếp cân nhanh với
trạm y tế xã và tuyến trên.
Cần xây dựng mô hình nha y tế thôn bản, tuy nhiên còn gặp nhiều khó
khăn, cần sự vươn lên của chính các dân tộc và cộng đồng.
Cuốn “Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế Việt Nam”, nhà xuất bản
Thống kê Hà Nội xuất bản năm 2004, do Dominique Haughton, Jonathan
Haughton và Nguyễn Phong biên soạn, các tác giả đã tập trung vào chủ đề chăm
sóc sức khỏe và y tế bắt đầu bằng việc đánh giá tình trạng sức khỏe của dân cư.
Mục tiêu là cung cấp những thông tin chính xác và phù hợp cho các nhà hoạch
định chính sách y tế, cùng một số khuyến nghị nhằm cải thiện tình trạng sức
khỏe dân cư trên góc độ cá nhân và cộng đồng.
Hay như trong : Dự thảo báo cáo tổng hợp “Dự án điều tra cơ bản dân tộc
La Hủ” – năm 2006, của KS, CN Vy Xuân Hoa – Phó vụ trưởng Vụ chính sách
dân tộc , thuộc ủy ban dân tộc miền núi.
Dự án đã tiến hành điều tra 454 hộ đồng bào dân tộc La Hủ trên địa bàn 5
xã thuộc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu: xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã
Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
Dự án điều tra về: Kinh tế; văn hóa, y tế và giáo dục; chính sách và thực
hiện chính sách.
14
Có thể nói hầu hết các tác giả đã đi vào phân tích và nêu lên được các vấn
đề liên quan đến CSSKBĐ cho cộng đồng, chỉ ra được vai trò của hệ thống y tế
cơ sở, những yếu tố tiêu cực, tích cực ảnh hưởng đến CSSKBĐ cho nhân dân.
Tuy nhiên các tác giả vẫn chưa đi sâu vào tìm hiểu thực trạng CSSKBĐ cho một
dân tộc thiểu số cụ thể nào ?
Với những cuốn sách, công trình nghiên cứu đó là nền tảng gợi mở cho
công trình nghiên cứu của tôi với cái nhìn hẹp hơn, với đối tượng nghiên cứu là
về dân tộc thiểu số La Hủ ở địa bàn huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
Vì những lý do trên tôi tiến hành công trình nghiên cứu: “Thực trạng
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ” (nghiên cứu trên địa bàn các xã
Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã Nậm Khao thuộc huyện Mường
Tè, tỉnh Lai Châu).
4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
4.1. Nguồn gốc dân tộc La Hủ
Người La Hủ ở Việt Nam sinh sống duy nhất ở các xã Pa ủ, Pa Vệ Sủ, Ka
Lăng, Bum Tở, Nậm Khao và xã Mường Tè của huyện Mường Tè. Người La
Hủ có các tên gọi khác nhau như: Xá Lá Vàng, Khù Sung, Cò Sung, Khạ Quy,
Xá Quỷ, Xá Toong Lương, Xá Pươi. Dân tộc La Hủ chia làm 3 nhóm :
- La Hủ Sủ.
- La Hủ Na – La Hủ Đen.
- La Hủ Pung – La Hủ Trắng.
Tiếng nói của người La Hủ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến.
Người La Hủ định cư ở một vùng rộng lớn thuộc khu vực biên giới tiếp
giáp giữa Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào - Thái Lan và Mianma.
Người La Hủ sống tập trung thành khu vực riêng, ít xen kẽ với các dân tộc khác.
Mường Tè là huyện biên giới tỉnh Lai Châu, có 5 xã có đường biên giới
giáp Trung Quốc và 2 xã tiếp giáp với Lào. Với sự hoạch định biên giới quốc
gia thời cận hiện đại, các dân tộc sống ở vùng biên giới, tiếp giáp với nhiều
nước, trở thành những tộc người cư trú không biên giới. Khác với nhiều dân tộc
thiểu số ở nước ta là phân bố xen kẽ với các dân tộc khác ở nhiều nơi khác nhau,
15
người La Hủ chỉ sống tập trung duy nhất ở huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Họ
cư trú trên các sườn núi, mỗi bản trước đây chỉ có bốn, năm nóc nhà, giao thông
đi lại rất khó khăn. Hiện nay nhiều bản của người La Hủ đã có từ 20 đến 60 hộ
gia đình.
Theo số liệu Tổng điều tra dân số qua các năm:
- Năm 1960 dân tộc La Hủ (Khù Sung) có 2.477 người,
- Năm 1979 dân tộc La Hủ có 4.270 người.
- Năm 1989 dân tộc La Hủ có 5.319 người.
- Năm 1999 dân tộc La Hủ có 6.874 người.
- Theo thống kê hiện nay (tháng 7/2006) dân tộc La Hủ có 1.526 hộ với
7.962 nhân khẩu, phân bố tập trung ở 43 bản thuộc 6 xã phía Bắc của huyện
Mường Tè. Trong các xã này đều có các dân tộc khác sống xen kẽ như Thái, Hà
Nhì, Kinh, Sila, Hoa,v.v
Địa bàn cư trú của người La Hủ nói riêng và các dân tộc nói ngôn ngữ
Tạng – Miến nói chung là trên các sườn núi cao, biên giới, nơi gần các khe lạch,
sông suối, những nơi có nguồn nước dùng sinh hoạt hằng ngày.
4.2. Phân bố dân tộc La Hủ
Cho đến thời điểm điều tra (tháng 7 năm 2006) dân tộc La Hủ có 1.526
hộ, 7.962 khẩu. Đồng bào dân tộc La Hủ sinh sống tập trung chủ yếu ở 43 bản, 6
xã phía Bắc của huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, cụ thể:
+ Xã Ka Lăng : 6 bản, 194 hộ, 1.095 khẩu.
+ Xã Pa ủ : 12 bản, 394 hộ, 2.230 khẩu.
+ Xã Pa Vệ Sủ : 14 bản, 413hộ, 1.731 khẩu.
+ Xã Bum Tở : 8 bản, 436 hộ, 2.533 khẩu.
+ Xã Nậm Khao: 2 bản, 69 hộ, 258 khẩu.
+ Xã Mường Tè: 1 bản, 20 hộ, 115 khẩu.
4.3. Điều kiện tự nhiên nơi cư trú của dân tộc La Hủ
4.3.1. Vị trí địa lý
Các bản dân tộc La Hủ sinh sống nằm ở độ cao từ 700 - 1.200m. Có toạ
độ địa lý vào khoảng: 22
0
23’-22
0
31’ vĩ Bắc; 102
0
43’-102
0
51’ độ kinh Đông.
16
Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông giáp xã Hum Bum, phía Nam giáp
các xã nội địa trong huyện, phía Tây giáp các xã nội địa trong huyện. Vùng dân
tộc La Hủ cư trú nằm cách xa trung tâm huyện, tỉnh lỵ.
4.3.2. Khí hậu thời tiết
Khí hậu nhiệt đới gió mùa - nóng ẩm, lượng mưa bình quân 2.500 - 3.000
mm/năm, mùa mưa tập trung vào tháng 7 và tháng 8, thường gây ra lũ ống và lũ
quét, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, khí hậu lạnh, nhiệt độ khoảng
5- 10
0
c. Độ ẩm cao, trung bình năm W% = 80-86%. Số giờ nắng trung bình
chiếm 1.500-1.600
h
/năm.
Thuỷ văn: Trên địa bàn dân tộc La Hủ cư trú có một số hệ thống suối
chính chảy qua:
- Xã Ka Lăng: Suối Nậm Lằn, Là Si.
- Xã Bum Tở: Suối Nậm Pục, Nậm Xả, Huổi Củng, Nậm Cấu.
- Xã Pa Vệ Sủ: Suối Nậm Sì Lường và các khe suối nhỏ khác.
- Xã Pa ủ: Suối Nậm Củm, Nậm Hản, Nậm Phìn và một số khe suối nhỏ
khác.
- Xã Nậm Khao: Suối Nậm Kha ứ, Nậm Phìn và một số khe suối nhỏ khác
4.3.3. Địa hình, đất đai vùng dân tộc La Hủ cư trú
Địa hình bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, nhiều núi cao hiểm trở, độ
dốc lớn, độ cao trung bình từ 700 - 1.200 m, đỉnh cao nhất 3.076 m.
Tổng diện tích tự nhiên vùng dân tộc La Hủ 85.360,85 ha. Trong đó:
+ Đất nông nghiệp : 1.390,22 ha.
+ Đất lâm nghiệp : 26.757,29 ha.
+ Đất chuyên dùng: 215,49 ha.
+ Đất ở : 10,85 ha.
+ Đất chưa sử dụng: 56.987 ha.
Chủ yếu là các loại đất feralit đỏ vàng thuận lợi cho việc trồng các loại
cây công nghiệp ngắn ngày và lâu năm.
17
CHƯƠNG II:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu “Thực trạng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho dân tộc La Hủ”
(nghiên cứu trên địa bàn các xã Bum Tở, xã Ba Vệ Sủ, xã Pa ủ, xã Ka Lăng, xã
Nậm Khao thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu). Nhằm mô tả thực trạng về :
Vấn đề kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở ;. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em. Vệ
sinh môi trường của đồng bào dân tộc La Hủ được thể hiện qua các chỉ báo cụ
thể.
1. Vấn đề kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở
Qua số liệu phân tích của tài liệu (1) ta thấy :
Thực trạng kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở thể hiện qua: hoạt động của các
trạm y tế tại địa bàn các xã, số lượng cán bộ y tế tại các xã, nơi chữa bệnh.
1.1. Thực trạng hoạt động của các trạm y tế
Trạm y tế luôn có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với công tác
CSSKBĐ cho nhân dân, điều nà y được khẳng định trong các văn bản quy định
hiện hành của Đảng và Nhà nước.
Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 135/1998/QĐ-
TTg phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
miền núi và vùng sâu vùng xa. Chương trình này chủ yếu đầu tư phát triển hạ
tầng cơ sở, trong đó ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình về y tế và giáo dục.
Quyết định 186/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ cần
phải nâng cấp các trạm y tế xã, đảm bảo 100% các xã có trạm y tế xã.
Vậy thực trạng hoạt động của các trạm y tế xã trên địa bàn cư trú của
đồng bào dân tộc La Hủ hiện nay như thê nào ? Phần nào được thể hiện qua các
số liệu sau :
18
Bảng 1 : Tình trạng hoạt động của các trạm y tế
TT Xã
Hoạt
động
Tỷ lệ
Không
hoạt
động
Tỷ lệ
Không
thường
xuyên
Tỷ lệ
1 Bum Tở 3 3,0
2 Pa Vệ Sử 19 18,8 9 8,9
3 Pa ủ 0,0
4 Ka Lăng 11 11,0 6 6,0
5 Nậm Khao 2 2,0 0,0
6 Tổng 35 7,7 6 1,3 9 2,0
Hay tình trạng hoạt động của trạm y tế thôn còn được thể hiện qua tỷ lệ
(%) ở biểu sau :
Biểu 1 : Tỷ lệ không có trạm y tế thôn
Qua các số liệu trên ta thấy :
Tỷ lệ số xã có trạm y tế hoạt động có mức chênh lệch quá lớn : Xã Pa Vệ
Sử có số lượng trạm y tế cao nhất với 19 trạm, chiếm 48,8% nhưng lại có tới 9
trạm không hoạt động thường xuyên.Trong khi xã Pa ủ lại không có trạm y tế
nào ? Tiếp đến là xã Ka Lăng có 11 trạm y tế chiếm 11% trong đó có 6 trạm
không hoạt động, xã Bum Tở có 3 trạm y tế chiếm 3%, xã Nậm Khao có 2 trạm
y tế chiếm 2%.
19
Thực trạng hoạt động của các trạm y tế còn quá thấp, làm thế nào nâng
cao được chất lượng CSSKBĐ cho đồng bào dân tộc ?
Nguyên nhân do đâu xảy ra tình trạng này: Do địa bàn cư trú của dân tộc
La Hủ là núi non hiểm trở, điều kiện tự nhiên quá khó khăn phức tạp, các cơ
quan chức năng không thể giúp đỡ họ xây dựng cac trạm y tế ? Hay do chính
bản thân đồng bào dân tộc La Hủ có thói quen du canh du cư, không có địa bàn
cư trú nhất định nên không thể xây dựng các trạm y tế xã được ?
Ảnh 1 : Trạm y tế xã Pa Vệ Sử
1.2. Số lượng cán bộ y tế tại các xã
Thực trạng kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở, còn được xem xét qua số
lượng cán bộ y tế thôn, bản:
Bảng 2: Cán bộ y tế trong làng
20
TT Xã Số hộ
Không
có
Tỷ lệ
1 cán
bộ
Tỷ lệ
2 cán
bộ
Tỷ lệ
1 Bum Tở 100 99 99,0
2 Pa Vệ Sử 101 49 48,5 50 49,5
3 Pa ủ 103 100 97,1
4 Ka Lăng 100 1 1,0 96 96,0
5 Nậm Khao 50 50 100,0
6 Tổng 454 50 11,0 395 87,0 0 0
Biểu 2 : Cán bộ y tế trong làng
Theo số liệu trên ta thấy, có 87% người dân nhận định có 01 cán bộ y tế
trong làng, riêng xã Nậm Khao đảm bảo 100% có cán bộ y tế. Xã Pa Vệ Sủ có
đến 48,5% nhận định không có cán bộ y tế nào. Xã Bum Tở có tới 99% cho biết
có 1 cán bộ y tế trong làng. Xã Ka Lăng 96% người trả lời khẳng định có 1 cán
bộ y tế.
Trên đây tôi sử dụng số liệu trong tài liệu của một dự án nghiên cứu cấp
Nhà nước, đảm bảo về nguồn số liệu là chính xác hợp lí. Nhưng qua số liệu về
tình trạng hoạt động của các trạm y tế xã ( đã nêu ở phần trên ) và số liệu về cán
bộ y tế trong làng có sự khác biệt khá rõ :
- Xã Pa ủ không có trạm y tế xã nào thì trong100 người được hỏi có tới
96 người trả lời là có 1 cán bộ y tế xã, chiếm 96%. Không có trạm y tế nào thì
21
cán bộ y tế hoạt động như thế nào? ở địa bàn xã Pa ủ có phải cán bộ y tế hoạt
động “ du canh du cư” theo các hộ gia đình không, họ sẽ đến khám và chữa bệnh
tại nhà cho người dân khi họ bị bệnh ? Nếu số liệu phản ánh ở trên là đúng thì
đây là một thực tế rất đáng khích lệ, cần được phát huy và có những trợ cấp cho
phù hợp – xứng đáng với cán bộ ở địa bàn này. Hay chính những cán bộ y tế
trong làng bản là người dân tộc La Hủ, họ thích nghi nhanh để có cách phục vụ
đồng bào mình nhanh hơn.
- Xã Pa Vệ Sử có số lượng trạm y tế cao nhất với 19 trạm, chiếm 48,8%
nhưng có 49 người trả lời là không có cán bộ y tế trong làng chiếm 48,5%.
- Xã Nậm Khao chỉ có 2 trạm y tế hoạt động nhưng người dân ở đây cho
biết ở xã mình 100% có cán bộ y tế.
Thực trạng về cán bộ y tế tại xã Pa Vệ Sử là đúng hay sai, theo số liệu
điều tra thì đáng lí xã nào có số trạm y tế nhiều thì sẽ được tạo điều kiện có
nhiều cán bộ y tế, nếu không thì các trạm y tế được xây dựng lên nhiều sẽ không
phát huy được tác dụng, gây những lãng phí không cần thiết trong chi phí xây
dựng, mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu CSSKBĐ cho đồng bào dân tộc
thiểu số. Tuy nhiên, qua số liệu này ta cũng phần nào giải thích được vì sao xã
Pa Vệ Sử có 19 trạm y tế xã mà có tới 9 trạm không hoạt động thường xuyên.
Đây đang là một vấn đề cần xem xét lại trong hoạt động chính sách để nhằm cải
thiện và nâng cao việc CSSKBĐ cho dân tộc thiểu số La Hủ.
Theo lời cán bộ phụ trách điều tra dự án về dân tộc La Hủ cho biết :
“ Nói thẳng ra tôi thấy cũng thấy thật khổ sở cho đồng bào dân tộc La
Hủ, địa bàn cư trú ngoằn ngèo, toàn thấy đồi với núi, thi thoảng mới nhìn thấy
bóng người. Các trạm y tế cũng thấy vắng vẻ lắm, các cán bộ y tế bảo : thi
thoảng mới có người đến khám thôi, mà cũng phải nói mãi họ mới chịu uống
thuốc. Nhiều khi nhà dân có người ốm phải leo qua quả đồi trật hết cả chân mới
đên được nhà bệnh nhân .”
(Phỏng vấn sâu số 2, nam 35 tuổi )
1.3. Nơi khám bệnh
22
Số liệu về trạm y tế và cán bộ y tế xã cũng đã phần nào phản ánh được
thực trạng về nơi khám chữa bệnh của đồng bào dân tộc nơi đây. Nó cũng thể
hiện được niềm tin của người dân La Hủ vào mạng lưới y tế cơ sở - đã và đang
được nhà nước và các cấp chính quyền quan tâm
Bảng 3: Tỷ lệ khám chữa bệnh
Xã
Số
hộ
Trạm Tỷ lệ
TT Y
tế
Tỷ lệ
Bviện
tỉnh
Tỷ lệ T.Lang Tỷ lệ
Bum Tở 100 90 90,0 14 14
Pa Vệ
Sử
101 98 97,0 3 3,0
Pa ủ 103 5 4,9 96 93,2
Ka Lăng 100 90 90,0 2 2,0
Nậm
Khao
50 50 100,0
Tổng 454 333 73,3 14 3,1 0 0 101 22,2
Bảng 3 được thể hiện thông qua số liệu ở bảng trên :
23
Biểu 3: Tỷ lệ về nơi chữa bệnh
Qua bảng và biểu trên cho ta thấy :Tỷ lệ đồng bào La Hủ đến khám chữa
bệnh tại các trạm y tế xã là ngang nhau, đều từ 90% - 100%.
- Xã Pa ủ là xã có tỷ lệ người được hỏi đến thầy lang khám chữa bệnh
nhiều nhất: hỏi 103 hộ thì có tới 96 người trả lời là đến thầy lang (93,2%). Chỉ
có 5 người được hỏi trả lời là đến trạm y tế xã (4,9%), số lượng người đến trạm
y tế xã là quá thấp.
Số liệu về tỷ lệ khám chữa bệnh của người dân La Hủ ở xã Pa ủ phản ánh
thực trạng CSSKBĐ cho nhân địa phương tại xã này còn rất nhiều hạn chế. Khi
người dân bị bệnh họ không tìm đến bác sĩ mà lại nhờ các thầy lang, họ không
tin tưởng vào khả năng khám chữa bệnh của các cán bộ, thái độ khám chữa bệnh
của cán bộ y tế xã không nhiệt tình gây, gây khó dễ cho đồng bào ; hay do
không có trạm y tế nào ở xã (theo số liệu ở trên) nên người dân vẫn phải làm
theo cách truyền thống như từ khi chưa có cán bộ y tế.
- Xã Pa Vệ Sử có 97% số hộ được hỏi trả lời là đến trạm y tế xã, có 3% là
tìm đến thầy lang.
- Xã Ka Lăng có 90% chọn đến trạm y tế xã, 3% đến thầy lang.
24
Số liệu ở hai xã Pa Vệ Sử, Ka Lăng phản ánh thực trạng chăm sóc khá tốt
của đội ngũ cán bộ y tế đối với đồng bào, chỉ còn một số lượng nhỏ người dân
tìm đến thầy lang.
- Xã Nậm Khao có 100% số người được hỏi trả lời là đến trạm y tế xã để
khám và chữa bệnh.
- Xã Bum Tở trong 100 người được hỏi có 90 người chọn cách là đến
trạm y tế xã khám chữa bệnh, có 14 người đến trung tâm y tế huyện - đây là xã
có tỷ lệ người được hỏi đên trung tâm y tế huyện cao nhất. Cũng là một trong
hai xã được hỏi không có ai đến thầy lang - Đây là một dấu hiệu đáng mừng,
phản ánh phần nào sự tiến bộ trong nhận thức của đồng bào dân tộc La Hủ. Họ
hiểu được tầm quan trọng trong việc chăm lo sức khỏe cho chính bản thân mình,
họ đang dần dần có niềm tin vào sự tiến bộ cua khoa học mà ở đây là lĩnh vực y
tế. Số liệu này cũng phần nào phản ánh sự tiến bộ trong tư tưởng của người dân,
họ không con tin mê muội vào các thày lang nữa.
“ Chúng tôi hỏi mấy chị phụ nữ ở nhà họ, họ cười và bảo : Hồi ngày xưa
khi chưa có các bác sĩ áo trắng về bản, khi mà nhà chúng tôi có ai ốm thì khổ
lắm, suốt ngày phải nhờ cậy các thầy lang lên rừng tìm lá thuốc thôi. Nhưng giờ
thì nhàn lắm, đến trạm y tế xã chỉ uống mấy viên thuốc nghỉ ngơi một ít là đỡ
ngay .”
(Trích phỏng vấn sâu số 2, nam 35 tuổi )
2. Thực trạng chăm sóc bà mẹ – trẻ em
CSSKBM-TE là những việc làm giúp các bà mẹ và trẻ nhỏ nâng cao sự
phát triển về thể chất, phòng tránh bệnh tật, giảm nguy cơ tử vong. Thực trạng
CSSKBM-TE của dân tộc la Hủ được thể hiên qua các chỉ báo về : nơi sinh ; tỷ
lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng ; tỷ lệ trẻ em được uống và tiêm phòng.
Hoạt động CSSKBM-TE là vấn đề quan tâm hàng đầu của các quốc gia
trên thế giới trong đó có Việt Nam và nhiều lần trong các kỳ Đại hội, Đảng ta đã
quan tâm đến vấn đề này. Bác Hồ đã nói “ vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm phải trồng người ”. Hiện tại tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em và suy
dinh dưỡng trẻ em ở nước ta còn cao. Hàng năm nước ta “có khoảng 2500 phụ
25