Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Khái quát chung về đất nước và con người nước nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.87 KB, 32 trang )






Tiểu luận

Khái quát chung về đất nước và
con n gười nước Nga


NƯỚC NGA
I. KHÁI QUÁT CHUNG Về ĐấT NƯớC VÀ CON NGƯờI NƯớC NGA
1. Vị trí địa lý.

Liên Bang Nga là một đất nước có diện tích lớn nhất Thế giới 17,1 triệu km
2
,
trải dài
từ Đông Âu đến Bắc Á. Liên Bang Nga có 11 múi giờ, giáp với 14 quốc gia. Đặc biệt
Liên Bang Nga có đường bờ biển dài trên 37.000km dọc the Bắc Băng Dương, Thái
Bình Dương, biển Bantich, biển Caxpi và biển Đen.
2. Địa hình.

Địa hình của Liên Bang Nga chủ yếu là đồng bằng thấp và các miền đất cao. Phần lớn
đất đai của Liên Bang N ga là đồng bằng rộng lớn ở cả châu Âu và châu Á như đồng
bằng Đông Âu, đồng bằng Tây Xibia. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về
phía nam và rừng rậm về phía Bắc, cùng với các lãnh nguyên dọc theo bờ biển phía
Bắc. Các dãi núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam và phía đông như dãi Cap ca, dãi



Antai, dãi Xian, dãi Veckhoian…và đặc biệt là dãi Uran chạy dài từ Bắc xuống Nam,
tạo ra sự phận chia ranh giới giữa châu Âu và châu Á. Nhiều con sông chải qua nước
Nga, chủ yếu là những con sông lớn như sông Enitxay, sông Vonga, sông Obi, Sông
Xibia…
Sông Xiabia chia đất nước Nga thành hai phần: Phía Tây chủ yếu là đồng bằng, bao
gồm đồng bằng Đông Âu cao, màu m ỡ phù hợp phát triển lương thực_thực phẩm và
chăn nuôi, đồng bằng Tây Xiabia tuy nhiều đầm lầy nhưng có nhiều dầu mỏ và khí
đốt, ngoài ra còn có dãy Uran có nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào. Phía Đông chủ
yếu là núi và cao nguyên, giàu tài nguy ên khoáng sản và lâm sản.
3. Điều kiện tự nhiên.
Đất nước N ga có nguồn tài nguyên khoáng sản rất đa dang và dồi dào như: dầu mỏ,
than đá, sắt, đồng, khí tự nhiên N ga được xem là siêu cường năng lượng, có dự trữ
khí tự nhiên lớn nhất Thế giới, đứng thứ hai về trữ lượng than, thứ tám về trữ lượng
dầu mỏ.
Nga có diện tích rừng lớn nhất Thế giới với 886 triệu ha, chủ yếu là rừng taiga, rừng lá
kim…vì thế Nga còn được xem là “lá phổi của châu Âu”, đứng thứ hai sau rừng
Amazon về khả năng hấp thụ carbon dioxide, những cánh rừng của N ga đã sản xuất ra
một khối lượng lớn O xy không chỉ cho châu Âu mà cho toàn Thế Giới, vì thế mà động
thực vật ở N ga rất phong phú và đa dạng.
Khí hậu ở Nga được hình thành dưới nhiều y ếu tố xác định. Khí ôn đới chiếm phần lớn
diện tích, phía Bắc có khí hậu cận cực, phía Nam có khí hậu cận nhiệt, sự xa tách khỏi
biển của một số vùng dẫn đến khí hậu lục địa ấm. Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai
mùa riêng biệt là mùa Đông và mùa Hè, mùa Xuân và mùa Thu chỉ là những giai đoạn
thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao. Tháng lạnh nhất và tháng 1 (tháng 2 ở
bờ biển), tháng nóng nhất thường là tháng 7. Vào mùa Đông nhiệt độ lạnh đi từ phía
Nam tới phía Bắc, mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại vùng Xibia và một phần
nhỏ của bờ biển Đen có khí hậu nhiệt đới.
Với những điều kiện tự nhiên như thế, Liên Bang Nga có nhiều thuận lợi để phát triển
kinh tế đa ngành, nền kinh tế của Nga chủ yếu dựa vào xuất khẩu hàng hóa như dầu
mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ.




4. Giao thông vận tải của nước Nga
Giao thông vận tải ở Nga rất phát triển,hệ thống đường sắt ở N ga có tổng chiều dài là
149.000km, đường cao tốc 952km,tàu điện ngầm là phương tiện vận chuyển chủ yếu ở
các vùng đô thị,M axcova đứng đầu thế giới về lượng vần chuyển hành khách,mỗi năm
có đến 2,5 tỉ lượt người sử dụng tàu điện ngầm,
Đường sông 95.900 km,đường giao thông quan trọng nhất là sông Vonga vứi cơ sở
hàng tầng được thiết kế để tàu thủy có kích thước và trọng tải tương đối lớn lưu thông.
Nga là một quốc gia có vị trí tiếp giáp với nhiều biển lớn nhỏ,vì vậy Nga có rất nhiều
cảng và hải cảng,đội thương thuyền của N ga là một phương tiện quan trong để kết nối
Nga với các nước khác như:Arkhangel'sk, Astrakhan', K aliningrad, Kazan',
Khabarovsk, Kholmsk, Krasnoyarsk, M oscow, Murmansk, Nakhodka, Nevel'sk,
Novorossiysk, Petropavlovsk-Kamchatskiy, Saint Petersburg, Rostov, Sochi, Tuapse,
Vladivostok, Volgograd, Vostochnyy, Vyborg.
Đường ống: dầu thô 48km,sản phẩm dầu khí 15.000km;khí ga tự nhiên 140.000km.
Đường hàng không:N ga có khoảng trên 300 công ty hàng không,với 2.743 sân bay,chỉ
riêng thành phố M axcova đã có đến 4 sân bay quốc tế,và hiện nay đã có nhiều chuyến
bay trực tiếp từ Nga đến Việt Nam như hãng hàng không Transaero mở đường bay
thẳng nối liền thủ đô Moskva đến TP.HCM ,gần đây nhất hãng hàng không
Vladivostok (Vladivostok Air) chính thức mở đường bay quốc tế từ hai t hành phố:
Vladivostok và Khabarov (vùng Viễn Đông, Liên bang Nga) đến Sân bay quốc tế Cam
Ranh (Khánh Hòa) và ngược lại.,vì thế mà khách du lịch từ quốc gia này đến Việt
Nam cũng thuận tiện hơn.
5. Dân cư, ngôn ngữ và xã hội.
Liên Bang Nga là m ột quốc gia có dân số là 144 triệu người (đứng thứ 8 trên Thế
Giới) và là một xã hội đa sắc tộc, là nơi sinh sống của trên 160 nhóm sắc tộc. Dù dân
số Nga khá lớn nhưng mật độ dân số ở N ga khá thấp, do diện tích rộng lớn của nước
này. Dân cư phân bố không đồng đều, tập trung phần lớn ở phía Tây và thưa dần về

phía Đông và có đến 73% dân cư sống tập trung ở thành thị.
Trên 160 nhóm sắc tộc ở N ga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ.Ngôn ngữ thông dụng
nhất là tiếng N ga,sau đó là tiếng Tatar và tiếng Ukraina. Tiếng Nga là ngôn ngữ chính
thức duy nhất của nhà nư ớc, nhưng Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt


quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh
tiếng Nga.Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước
Nga.Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên
lục địa Âu Á và cũng là ngôn ngữ Slavơ được sử dụng nhiều nhất
Nga có một hệ thống giáo dục miễn phí bảo đảm cho mọi công dân theo Hiến pháp, tỉ
lệ người biết chữ là 99,4%. Việc đặt giáo dục lên hàng đầu như vậy cũng là sự ưu tiên
hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa
học vũ trụ…cung cấp lực lượng nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực cong nghệ
cao, công nghệ mới…

Liên Bang Nga là một quốc gia đông dân, có trình độ dân trí cao, có đội ngũ khoa học
kỹ thuật, kỹ sư lành nghề…vì thế mà tiềm năng du khách từ đất nước này rất lớn, bởi
đội ngũ lao động ở đất nước này phần lớn là làm về ngành công nghiệp,ngành khoa
học cơ bản nên họ thường phải làm việc trong một môi trường căng thẳng nên du cầu
được đi du lịch thư giãn rất cao,những vị khách này thường có những đòi hỏi về phong
cách phục vụ cao,họ sẵn sàng chi một số tiền khá lớn để được hưởng các loại dịch vụ
du lịch cao cấp nhất.Bên cạnh đó,một số người dân sống ở vùng nông thôn cũng có
nhu cầu được đi du lịch sau những mùa vụ,những người dân làm nghề nông thường có
tính cách hiền hòa và đòi hỏi không quá cao,họ thường có xu hướng chọ những nơi
mới lạ,được tìm hiểu về những vùng đất mới.Nhưng nhìn chung,người Nga thường có
tính cách hòa đồng,vui vẻ,thân thiện,đặc biệt dân tộc Nga nổi tiếng là những người yêu
chuộng hòa bình,vì thế mà những vùng đất thanh bình êm ả như Việt Nam là những
nơi mà họ lựa chọn để có một kỳ nghỉ thoải mái.
II. NHữNG ĐặC ĐIểM VĂN HÓA NƯớC NGA

Với diện tích lớn nhất trên thế giới nước Nga đã có những nét văn hóa độc đáo trải
rộng khắp lãnh thổ của mình. Với rất nhiều điểm đặc trưng, văn hóa Nga đã, đang và
sẽ có nhiều người thuộc các dân tộc lãnh thổ khác nhau trên thế giới biết đến. Sau đây
là những phần đặc trưng nhất về văn hóa N ga:
1. Văn học Nga
Văn học Nga đã bắt đầu xuất hiện trong những người Xla-vơ Đông, sau phong trào cơ
đốc hoá vào thế kỷ thứ 10.


Trong suốt thế kỷ 16, hầu hết những tác phẩm văn học đều có chủ đề tôn giáo hoặc do
những người trong những lĩnh vực tôn giáo viết ra. Một số tiểu thuyết ngắn và chuyện
châm biếm của thế kỷ 17 cũng đã sử dụng tiếng N ga bản xứ.
Thế kỷ 18, đặc biệt là dưới triều đại của Peter đại đế và Catherine Đại đế, là một giai
đoạn chịu ảnh hưởng rất mạnh của phương Tây.
Đến thế kỷ 19 văn học Nga đã hình thành một truyền thống thể hiện những vấn đề
trong cuộc sống thực tế và những nhà văn từ thế kỷ 18 đã làm giàu hơn ngôn ngữ Nga
bằng những yếu tố mới.
Kỷ nguyên của chủ nghiã Hiện thực bắt đầu khoảng năm 1850. Trong thời kỳ này các
chuẩn mực mới về ngôn ngữ, chủ đề, hình thức và kỹ t huật miêu tả đã được phát triển.
Pushkin đã được coi như nhà thơ vĩ đại nhất của N ga. Lermontov thì đã đóng góp cho
văn học bằng cả thể loại văn xuôi lẫn thể loại thơ ca. Gogol được công nhận như người
khai sinh ra văn xuôi hiện thực và hiện đại của Nga. Những nhà văn viết văn xuôi có
tầm cỡ nhất trong kỷ nguyên này là Ivan Turgennev, Fedor Dostoyeveskiy và Lev
Tolstoy.
Đến thập kỷ 1890, thơ ca của Nga đã được phục hồi và định hình lại bởi một số thi sĩ
theo trường phái tượng trưng, mà người đại biểu nổi bật nhất là Aleksandr Blọk. Năm
1933 Bunin đã trở thành nhà văn N ga đầu tiên nhận giải Nobel văn chương.
Thời kỳ ngay sau cách mạng Nga là một giai đoạn thử nghiệm của văn học và cũng đã
nổi lên nhiều nhóm nhà văn khác nhau. Hầu hết những tác phẩm trong thập kỷ 1920
mô tả cuộc nội chiến hoặc sự đấu tranh giữa người Nga cũ và người Nga mới. Tác

phẩm chiếm ưu thế trong giai đoạn này là “Thép đã tôi thế đấy” của Nikolay
Ostrovskiy.
Văn học N ga có phong cách riêng biệt, khác lạ. Đặc biệt, tư tưởng dân chủ bộc lộ
trong văn học mạnh mẽ đến mức tạo ra nhu cầu đòi hỏi tư tưởng xã hội chủ nghĩa như
một qui luật tất yếu. Vì lẽ đó, Lênin đã coi tác phẩm của L.Tonxtôi là "tấm gương
phản chiếu cách mạng N ga". Đó là đóng góp quan trọng của văn học N ga vào nền văn
học thế giới. Những tác phẩm của , Lermontov, Gogol, L.Tonxtôi, Dotstoievski,
Sekhov đã trở thành t ác phẩm cổ điển cùng với thành tựu lý luận, phê bình của
Bielinski, Tsernysevski còn đặt nền móng lí luận và gây ảnh hưởng sâu sắc đến cả
thế kỷ sau.


Văn học N ga Xô viết là một bước tiến hóa cao trong tiến trình văn học của nhân loại.
Gần 7000 người cầm bút viết văn trong dân số 300 triệu người (số liệu 1975) với bút
pháp đa dạng, đề tài phong phú, giáo trình này thật khó lựa chọn những gương mặt
thực sự tiêu biểu cho nền văn học Nga. (ĐẠI HỌC AN GIANG - Phùng Hoài Ngọc -
2008).
2. Ẩm thực Nga.
Các món ăn chính thường chế biến từ thịt, thường là thịt bò, thịt cừu, hay thịt heo, đôi
khi kèm với nấm, kem chua hay nước sốt pho mát.
Do ở Nga có rất nhiều sông, hồ, rừng rậm nên trong ẩm thực của nước này có một số
lượng lớn các món ăn từ cá, thịt rừng, nấm và quả rừng. Thường thì sẽ là cá, thịt bò,
thịt cừu hầm hoặc nướng được ăn kèm với rau và khoai tây. Người Nga thích ăn khoai
tây, họ có cả thảy hơn 1000 món làm từ khoai tây. Ngoài những món đơn giản như
khoai tây rán, khoai tây luộc, còn có khoai tây nhồi thịt băm và nấm, thịt băm viên tẩm
khoai tây rán, bánh nướng làm bằng khoai tây…
Ở Nga có 2 món ăn rất nổi tiếng đó là là bánh mì đen và salad Nga. Trong tục ngữ của
nước N ga, bánh mì đen được ví như là cha ruột của mỗi người vậy. Món salad Nga bí
quyết lại nằm ở việc có mua được đúng loại M ayonaise hay không.
Ẩm thực nước Nga rất đa dạng nhưng hầu hết người Việt Nam khi nhắc đến nước Nga

là nhắc đến món trứng cá hồi, bánh mì đen và salad Nga. Ngoài ra phải kể đến đó là
loại rượu Vodka nặng độ hơn cả rượu Nàng hương Việt Nam.
Những món ăn Nga từ trứng cá hồi với bánh mỳ nướng, súp củ cải đỏ ăn với bánh mỳ
đen, cuống tỏi muối, chả gà Kiep, cá khô Atrakhan, súp củ cải đỏ, bánh cuốn
Lêningrát mang phong vị Nga nhưng lại rất phù hợp với khẩu vị của người Việt
Nam.
Café của Nga có đặc điểm là loãng vô cùng đến nỗi mỗi người uống tầm 1 lít café là
chuyện bình thường.
Một số món ăn truyền thống ở Nga:
Borsh (Борщ): Borseht là món súp cổ điển của Nga, món này gồm có nhiều thành
phần chính với màu sắc tươi sáng nhất là của cải đỏ. Món này thường được ăn lạnh
vào mùa hè và ăn nóng vào mùa đông. Bnili (Блины): Bnili là một loại bánh kếp nhỏ,
trong có nhồi trứng cá muối, cá, bơ lỏng hoặc kem chua. Tsipleonok tabaka


(Цыпленок табака): đây là món thịt gà, trong đó thịt nướng bằng xiên. Shi (Щи):
món Sehchi bao gồm bắp cải nhồi và ớt ngọt nhồi cơm và thịt băm.
Varenniki (Вареники): Đây là món bánh bao dùng để ăn sáng, trong ruột có các loại
quả mọng, quả anh đào hay mứt. Cốt lết gà kiểu Nga (Котлеты): người ta nghiền nhỏ
thịt gà, cho thêm một ít bơ và kem để giữ cho thịt được ẩm. M uốn cho hương vị được
tuyệt hảo, người ta dùng rượu vang Beaujolais của Pháp hoặc rượu M erlot ở vùng
Trentino của Bắc Ý. Thịt cừu nướng xiên (Шашлык): Theo truyền thống món ăn này
được làm bằng thịt cừu, nhưng người ta cũng có thể làm bằng thịt heo, thịt bò, thịt gia
cầm, hoặc cá tầm. Mì ống hầm (Макароны): Đây là món mì ống nấu theo kiểu N ga
với pho mát vàt thật nhiều rau. Seledka (Селедка): Cá trích là món rất khoái khẩu của
người N ga, cùng với dưa chuột ri và các loại thịt nguội và các món trộn.
Thưởng thức trà theo kiểu Nga:
Để thưởng t hức trà N ga, bộ ấm tách bằng sứ là đặc biệt cần thiết. Việc pha loãng trà
bằng nước sôi luôn trong tách là nét đặc trưng của cách thưởng thức trà N ga.
Tại Nga, trà luôn được pha loãng ra - do đó, ngoài bộ ấm chén phà trà đạt tiêu chuẩn,

khi thưởng thức trà N ga cần phải có cả hũ đựng nước sôi riêng.
Chanh là thành phần quan trọng thứ 2 trong cách thưởng thức trà của người Nga. Toàn
thế giới đều cho rằng, trà với chanh là phát minh của người N ga và cách thưởng thức
trà này được gọi là “Trà Nga”. Đó là lý do vì sao trên bàn trà Nga nhất định phải có
chanh.
Còn một đặc điểm nữa khá quan trọng trong cách thưởng thức trà N ga đó là trà pha
sẵn và được uống liền. Tất nhiên, đó phải là trà đen.
Bộ đồ trà bằng sứ, ấm trà, chanh và trà Trung Quốc hay Xrilanca – đó là những thành
phần cần thiết để có thể thưởng thức trà theo đúng kiểu Nga.
2. Trang phục Nga.
Trang phục của dân tộc Nga có một lịch sử rất phong phú. Trong suốt chiều dài lịch
sử, từ thời nước Nga cổ đại đến đầu thế kỷ XVIII, bộ trang phục đã có những thay đổi
lớn về hình dáng cơ bản của nó. Thế kỷ X VIII trở thành cái mốc đánh dấu sự khác biệt
trong trang phục. Đây là thời kỳ của những cải tổ trong kinh tế - xã hội và văn hóa ở
nước N ga. Nó được đánh dấu bởi những thi hành pháp luật của Petr I nhằm điều hòa
những môi trường khác nhau trong xã hội và tiến hành những thay đổi cơ bản. Cuộc


cải cách đã thay đổi cuộc sống ở nước N ga một cách sâu rộng, trong đó có cả trang
phục.
Bộ trang phục truyền thống đặc trưng bởi đường cắt thẳng tự nhiên, độ dài của trang
phục, ống tay lớn và rộng, có nhiều lớp với sự kết hợp m àu sắc tương phản của các
phần trong trang phục, sự đa dạng về họa tiết và trang trí.
Trang phục của phụ nữ
Các nhà dân tộc học đã chia ra làm 4 loại cơ bản trang phục trên lãnh thổ nước N ga:

Với váy poneva.

Với váy sarafan.


Với váy andarak.

Với váy kubelek.
Hai bộ đầu tiên thường đươc mặc trên phần lớn vùng châu Âu và châu Á của nước
Nga.

Bộ trang phục với váy poneva bao gồm có áo cánh, thắt lưng, chiếc váy poneva, yếm
đằng trước, khăn đội đầu dạng con chim ác là, trang sức bằng lông chim và hạt cườm,
giày được bện từ vỏ cây hoặc bằng da. Bộ trang phục với váy sarafan gồm có áo cánh,
váy sarafan, khăn bịt đầu kiểu kokoshnik, mũ dushegrei, giày chủ yếu là bằng da.
Trang phục với váy kubilek là chiếc váy may thắt ở eo, mặc phía trên là áo với ống tay
rộng. Váy mặc cùng với quần dài và chít khăn trên đầu.
Bộ trang phục váy andarak gồm áo cánh, váy, áo nâng ngực, tấm thắt lưng lớn, khăn
bịt đầu kiểu kokoshnik. Chúng có mặt tại Ryazan, Orlov, Kursk, T ambov.
Trang phục cho nam giới
Trang phục cho đàn ông Slavơ nói chung đều giống nhau. Nó bao gồm có áo dài thắt
ngang lưng, quần không quá rộng, giày da hoặc bện bằng vỏ cây, mũ có hoặc không có
vành. Như một nguyên tắc, áo buông đến cạp quần thì thắt lại.




Tuy nhiên nó có những đặc trưng riêng của từng vùng. Ví dụ, tại các làng ở ven bờ
Bạch hải, đàn ông mặc áo dệt từ lông thú. Áo được nhét vào trong quần như một số
dân tộc tại các vùng khác phía Bắc nước N ga. Tại một số làng ở miền Nam, trang phục
của nam giới còn có cả áo gilet.

Trang phục của nam giới và phụ nữ được làm từ lanh, vải gai, lông thú, vải pha len của
nhà làm, cũng như các sản phẩm của nhà máy như lụa, lông thú, vải sợi bông, gấm.


Trang phục truyền thống có những chức năng nhất định. Nó được chia ra làm trang
phục lễ hội, nghi lễ, thường ngày và để làm việc. Trang phục lễ hội được may bằng
những loại vải đắt tiền. Tất cả những phụ kiện của trang phục, chiếc khăn bịt đầu, giày
được trang trí công phu. Trang phục thường ngày thường đơn giản, trang trí sơ sài và
được may từ những loại vải rẻ tiền. Trang phục nghi lễ dành để may trong thời gian
diễn ra nghi lễ.

Bên cạnh việc giữ gìn hình dáng truyền thống, bộ trang phục dân gian đã không ngừng
biến đổi. Sự phát triển của công nghiệp và thời trang thành thị ảnh hưởng mạnh tới lối
sống xưa ở nông thôn và đời sống của nông dân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Ngày nay, những đường cắt, những họa tiết của bộ trang phục truyền thống là nguồn
cảm hứng không bao giờ cạn cho những tìm tòi mẫu thiết kế mới. Nó là dành cho
những người đam mê đích thực những sáng tạo dân gian. ().

MộT Số KIểU TạP Dề



Áo saraphan là một thành phần không thể thiếu của bộ trang phục truyền thống N ga.
Từ thế kỷ XVIII cho đến đầu thế kỷ XIX saraphan thường được may từ vải thô, một
màu tông sẫm như xanh, đỏ hoặc đen. Trên nền đơn sắc sẫm của saraphan các hoa văn
trang trí màu sắc sặc sỡ trên áo và tạp dề càng nổi bật.
Cách mặc trang phục nhiều tầng có nhiều độ dài khác nhau của áo, váy, yếm, tạp dề
chia cơ thể người mặc thành nhiều đoạn, và gây cảm giác như thân hình người mặc to
lớn hơn.

TÓC VÀ CÁC LOạI KHĂN, MŨ ĐộI ĐầU

Trong bộ trang phục N ga khăn mũ đội đầu là chi tiết không thể thiếu, bởi theo truyền
thống phụ nữ đã lấy chồng phải luôn che kín mái tóc của mình, còn các thiếu nữ mới

có quyền khoe tóc. Chính truyền thống này quy định hình dạng các loại mũ kín đội đầu
dành cho phụ nữ có chồng, và bờm hay một dải hoa văn buộc đầu dành cho các cô
thiếu nữ.



Các loại mũ đội đầu của phụ nữ được trang trí bằng ngọc trai, cườm, hổ phách, san hô,
dây tòng teng, chuỗi hạt và khuyên.

GIÀY DÉP
Phụ nữ thường mang giày da ngắn cổ, koty có mũi cong bằng dạ hoặc nỉ, và giày đan
lapti với dây buộc dài.

4. Ki Ến trúc Nga.
Chúng ta tìm hiểu về kiến trúc N ga qua các thời kì sau:
Thế kỷ 15 – 18
Những công trình kiến trúc ở nước Nga lú này rất ít được chú ý, mãi cho đến năm
1477, nền kiến trúc của Nga mới có phần khởi sắc.

Saint Basil's Cathedral
Thế kỷ 19

Dormition Cathedral, Kremlim, Moscow


Tại Đông Âu trong một phần tư đầu của thế kỷ thứ 19, ở đây, lối thiết kế mang phong
cách Hy Lạp phục hưng được phát triển và phong cách thiết kế kinh điển cũng được
hồi sinh vào giữa thế kỷ này. Kiến trúc sư người Nga có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
trong thời kỳ này là Thon, ông đã thiết kế xây dựng công trình kiến trúc nhà thờ lễ
Truyền tin tại St Petersburg và Thánh đường St. Saviour đồ sộ ở Moscow (1838 –

1883 theo phong cách Lomba La M ã), cả hai công trình này đã bị phá hủy. Công trình
Bộ hải quân của Z akharov ở St Petersburg (1806) là dấu hiệu đặc trưng nhất vẫn tồn
tại của một công trình kiến trúc mang phong cách thiết kế t ân cổ điển.
Thế kỷ 20

Ivan the Great Bell Tower, Moscow Kremlin
Hầu hết các công trình kiến trúc từ năm 1850 – 1917 không có nét gì nổi bật, thường
là thực hiện kém chất lượng và mang sự hỗn độn của các phong cách thiết kế. Trong
thời gian cách mạng, những kiến trúc sư trẻ đã theo phong trào thiết kế có xu hướng
tạo dựng và phong cách thiết kế k iến trúc hiện đại mới được cổ vũ nhiệt liệt. Năm
1932 phong cách chủ nghĩa kinh điển hầu như lấn át trên sân kiến trúc của nước N ga,
nó được tôn vinh cho đến tận những năm 60. Những công trình kiến trúc đáng chú ý
được dựng lên vào những năm 20 gồm có: Tòa nhà Xô Viết do Yofan thiết kế, Nhà hát
Hồng quân do Alabyan thiết kế, Nhà hát M eyerhold do Schusev thiết kế, Thư viện
Lenin do Shuko thiết kế, Học viện Quân sự do Rudner và M unz thiết kế, Sân bóng
nước D ynamo do Morchan thiết kế, tất cả các công trình đó đều được xây dựng tại
thành phố Moscow, công trình Cựu chiến binh chiển tranh do Simonov thiết kế được


xây dựng tại Leningrad; Đập nước Lenin do Vesnin và nhà hát quốc gia được xây
dựng tại Novosibirsk do Greeuberg thiết kế.
Những công trình xây dựng từ thế chiến thứ hai có khách sạn Moscow, Nhà hát quốc
gia ở Batum, những nhà ga xe điện ngầm, nhà bảo tàng Nizami tại Bacu và viện điều
dưỡng ở Sochi… đều là những công trình quan trọng của nền kiến trúc Xô Viết.


Đến ngày nay nước Nga đã có thêm rất nhiều những công trìng kiến trúc hiện đại vào
bậc nhất thế giới, và nó cũng khắc thêm cho kiến trúc Nga những sắc màu rực rỡ.



Khách sạn Ukraina là một trong bảy tòa nhà chọc trời ở Moscow, khách sạn này đư ợc
xây dựng theo chỉ thị của Stalin trong những năm 1950 ở M oscow. Được xây dựng
năm 1957, khách sạn có 30 tầng và cao 206 mét bao gồm cả 73 mét tháp chuông này
được tọa lạc ngay bên dòng sông M oscow. Khách sạn to lớn này có hơn 1 ngàn phòng


đầy đủ tiện nghi và các đồ đạc trong phòng rất độc đáo, những bức tranh và những cây
đèn bằng đồng ở đây có từ những năm 1950 từ thời kỳ Stalin. Trên nóc của khách sạn
có phòng quan sát, ở đây ta có thể ngắm phong cảnh của thành phố Moscow rất toàn
diện.


Khách sạn Ukraina
Khách sạn này không đồ sộ như trường đại học quốc gia Moscow, nhưng nó có một
phong cách kiến trúc tao nhã và hết sức quyến rũ trong từng chi tiết của công trình.
(DiaOcOnline.vn - Theo Tuvankientruc).
Gần như toàn bộ lịch sử phát triển của mình, ngành kiến trúc của nước Nga bị chi phối
mạnh mẽ bởi yếu tố tôn giáo. Các nhà thờ được xây dự ng hoàn toàn bằng đá với các
bức tường cao trên nền một không gian khoáng đạt (theo lối kiến trúc Hy Lạp).

Cùng với sự ra đời của nước N ga thống nhất dưới thời trị vì của Ivan III, lối kiến trúc
châu Âu bắt đầu xuất hiện tại N ga. Tác phẩm đầu tiên của sự du nhập này là Nhà thờ
Assumption, được hoàn thành vào năm 1479 theo t hiết kế của kiến trúc sư Aritotle
Fioravanti và được xem là nhà thờ lớn nhất ở thủ đô Mát-xcơ-va. Đây cũng là công
trình kiến trúc đầu tiên ở Nga chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phục hưng Ý.



Trong suốt thế kỷ 19, hội họa tạo dựng hồi sinh ở Nga. Lăng Lênin cũng được xây
dựng vào thời kỳ này theo lối kiến trúc của trường phái này. Những năm cuối cùng của

thế kỷ 20, kiến trúc hiện đại thực sự tìm được chỗ đứng ở N ga, các tòa nhà cao chọc
trời chiếm ưu thế trong tương quan chung của các bức tranh thành phố.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, nước N ga đặc biệt đề cao lối kiến trúc dân gian,
các loại gỗ được dùng nhiều trong xây dựng lăng tẩm, bảo tàng (nuocnga.net).

5. Lễ hội ở Nga.
Là đất nước có một nền văn hoá lâu đời, nước Nga nổi tiếng với rất nhiều lễ hội đặc
sắc. Những lễ hội ấy phản ánh nét sinh hoạt mùa màng của nền nông nghiệp vùng ôn
đới, của xứ sở của bạch dương và tuyết trắng. Và những lễ hội ấy cũng gắn liền với
những chiến tích, những di tích lịch sử, những bãi chiến trường nổi tiếng của nước
Nga.
Khác với những gì người ta thường nghĩ, nguồn gốc của nhiều lễ hội của N ga thường
không liên quan tới các lễ hội của đạo Ky-tô nói chung và Chính thống giáo nói riêng,
tôn giáo mà phần lớn người Nga theo. Lễ hội dân tộc của nước này thường bắt nguồn
từ xa xưa, thời kỳ của chủ nghĩa vô thần. Thiên chúa giáo đã kết thúc chủ nghĩa vô
thần bằng những nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên, nhiều truyền thống vẫn được bảo tồn
dưới dạng các dịp vui chơi hay lễ hội, thậm chí một vài lễ hội còn được đưa vào chính
các nghi lễ và truyền thống của đạo Ky-tô.
Lễ Giáng sinh của Đạo Cơ đốc chính thống
Peter Đại Đ ế, vị hoàng đế ưu tú của nước N ga đã mang lại nhiều đổi thay trong cuộc
sống cũng như trên tờ lịch của nước Nga. Lễ Giáng sinh là một ví dụ. M ặc dù, Giáng
sinh vẫn là một trong những ngày lễ chính của người theo đạo Ky-tô ở Nga, Giáng
sinh của Nga lại được tổ chức vào ngày 7/1 theo lịch N ga chứ không phải ngày 25/12
theo lịch T ây.
Lễ Kolyadki
Ở Nga, không có bất cứ một lễ hội nào được tổ chức theo nhiều tập tục và nghi lễ như
những ngày lễ Giáng sinh. Một trong các nghi lễ trong các ngày Giáng sinh đó được
gọi là Kolyadki. Trong buổi lễ này, người ta thường chúc cho nhau hạnh phúc và khỏe



mạnh. Trong buổi lễ, người ta làm ra một bà tuyết với cái mũi bằng cà rốt, mắt bằng
quả mận khô và rǎng bằng hạt đậu xanh. Đức mẹ Kolyadki (như ông già Noel) với một
vài người hộ tống đem theo những ngôi sao đến dự hội để chúc mừng mọi người và
tham gia những trò chơi vui vẻ. Họ hát hò và nhảy múa trong một vòng trên tuy ết xung
quanh ánh lửa bập bùng suốt lễ hội.

Lễ Phục Sinh
Cũng như các nước theo Đạo Ky-tô khác, ở N ga cũng có ngày lễ Phục Sinh. Người ta
sẽ làm loại bánh mỳ ngọt đặc biệt, có hình tròn (gọi là bánh Phục Sinh) và được bày
bán ở hầu hết các hiệu bánh mỳ trong dịp lễ. Ngoài ra, người ta còn làm cả bánh
Paskha (một loại bánh làm bằng hỗn hợp sữa có đường, nho khô và bơ) và những quả
trứng được nhuộm nhiều màu sắc sặc sỡ. Trứng đỏ được coi là biểu tượng của lễ Phục
Sinh. Trứng Phục Sinh có nhiều mục đích, nó là món quà truyền thống để tặng bạn bè
và người thân thay lời chúc mừng trong lễ Phục Sinh. Có một câu thành ngữ nói rằng,
nếu bạn rửa mặt bằng nước có cả trứng phục sinh, bạn sẽ luôn giàu có và xinh đẹp. Lễ
Phục Sinh cũng là dịp để mọi người đi thǎm hỏi bà con, họ hàng.
Lễ hội Red Hill
Ngày chủ nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh được gọi là ngày lễ Red Hill. Ngày này được
coi là dịp tốt nhất dành cho các đôi uyên ương tổ chức lễ cưới. Trước kia, mọi người
thường đón chào mùa xuân trong lễ hội này, như thể để "mời" mùa xuân tới nhà mình
vậy. Vào dịp lễ hội, bạn sẽ bắt gặp ở khắp nơi mọi người hát hò nhảy múa xung quanh
những cây cối đang đâm chồi nảy lộc.
Lễ Ivan Kupalo
Ở các nước theo Đạo Cơ đốc chính thống trên khắp châu Âu, người ta thường tổ chức
lễ thánh John và lễ rửa tội. ở N ga, ngày này gọi là Ivan Kup alo. Mọi thứ trong ngày
này đều liên quan tới nước. Trước đây, các cô cậu thường xuống sông bơi cho đến tận
đêm, sau đó họ đốt lửa và nắm tay nhau nhảy qua đống lửa. Nếu sau khi nhảy qua lửa,
họ vẫn nắm tay nhau thì đó sẽ là dấu hiệu tốt, báo hiệu một lễ cưới chẳng còn bao xa.
Lễ hội Troitsa
Ở Nga, lễ hội dân gian "Troitsa" được tổ chức rất rầm rộ. Vào ngày lễ hội, nhà cửa đều

được trang hoàng bằng những cành cây xanh tốt. Những bộ quần áo của các cô gái


được treo trên những cây bulô nhỏ và người ta hát hò nhảy múa xung quanh. Những
chiếc vòng làm bằng cành và hoa bulô được nhúng xuống nước để bói xem s ố phận
của mỗi người.
Lễ hội Spas
Tháng 8, tháng cuối cùng của mùa hè, khi mùa màng đã xong, người N ga thường tổ
chức 3 ngày hội khác nhau, trong tiếng Nga gọi là "Spas".
Ngày hội Spas đầu tiên là Honey Spas (lễ hội mật ong) (14/8)
Ngày hội Spas thứ 2 là Apple Spas (lễ hội táo) (19/8)
Ngày hội thứ 3 là Nut Spas (lễ hội quả hoạch) (29/8)
Lễ hội Spas mang sương giá đến cho đất đai và cây cỏ. Sau ngày lễ Spas đầu tiên,
người ta sẽ thu hoạch mật ong. Ngày thứ 2, thu hoạch táo và ngày thứ 3 là quả hoạch.
Phong tục đón khách của người Nga
Ở những lễ hội lớn, mở đầu lễ hội, những cô thiếu nữ xinh tươi nhất tặng bánh mì và
muối cho những vị khách đáng kính. Sau khi nhận quà của các thiếu nữ, người khách
cúi xuống, hôn lên ổ bánh mì (ổ bánh mì được đựng trên một chiếc khay có phủ chiếc
khăn thêu màu sắc sặc sỡ).
Tiếp đó, theo nghi lễ cổ truyền, người khách bẻ một m iếng bánh, rắc muối lên, nếm
thử và nói lời cảm t ạ. Người dân N ga trân trọng bánh mì và muối vì lúa mì là nguồn
lương thực quý giá nuôi sống con người và con người không thể sống thiếu muối.
Ngày nay, tục lệ đón khách danh dự bằng muối và bánh mì vẫn được duy trì, nhưng
khách thường chỉ nhận tượng trưng ổ bánh mì và lọ muối ở trên đĩa men sứ cổ truyền
có phủ khăn thêu rồi truyền lại cho người tháp tùng.
Lễ tiễn mùa đông
Một trong những lễ hội khó quên của nước Nga là Lễ tiễn mùa đông. Lễ này bắt nguồn
từ nền nông nghiệp, từ công việc đồng áng của những người nông dân N ga. Mùa đông
nước N ga tuyết rơi phủ kín mặt đất, ruộng đồng, khiến cho cây cối không nảy mầm
được, nếu kéo dài mãi dễ sinh nạn đói. Bởi vậy, người nông dân mong mùa đông mau

qua, mong mùa xuân mau đến.
Lễ tiễn mùa đông là một trong những ngày hội dân gian vui vẻ nhất. Mở đầu buổi lễ,
những chú bé ngộ nghĩnh, mặc quần áo dân tộc truy ền thống, màu sắc sặc sỡ cầm đuốc


đốt những hình nộm bằng rơm, đó là hình ảnh tượng trưng của băng tuyết trong mùa
đông lạnh giá.
Trẻ em và người lớn reo hò ầm ĩ, ca hát, nhảy múa xung quanh hình nộm đang bốc
lửa. Họ mừng vui tiễn tượng trưng mùa đông, hân hoan chào đón mùa xuân tươi đẹp,
chuẩn bị khí thế bước vào một mùa gieo trồng mới.
Lễ tiễn mùa đông thường được tổ chức ở những nơi đông người qua lại, có quảng
trường, ngã tư đường phố, một cánh rừng đầu làng vào những đêm đẹp trời. Tất cả già,
trẻ, nam, nữ đều tham dự lễ hội. Họ nắm tay nhau nhảy điệu múa vòng tròn. Những
động tác giậm chân, không chỉ là một tiết mục nghệ thuật, mà còn là một cách sưởi ấm
nhanh chóng trong giá rét.
Ngày nay, trẻ em và người lớn múa vòng tròn xung quanh cây thông cũng là hình bóng
của Lễ tiễn mùa đông.
Trong ngày Lễ tiễn mùa đông, trên những con đường lớn, những chiếc xe ngựa vừa
rung chuông và lục lạc, vừa đuổi rượt nhau. Ngựa được đeo dải nạm bạc rất đẹp, còn
xe trượt được trang trí bằng thảm. Ba con ngựa được thắng vào một cỗ xe chạy băng
băng trên đường.
Bánh xèo Nga

Ngoài những món ăn cổ truyền dành cho ngày lễ của người N ga thì bánh xèo là món
không thể thiếu trong Lễ tiễn mùa đông, giống như bánh chưng trong ngày Tết của
Việt Nam.
Đó là những chiếc bánh mỏng làm bằng bột mì cho lên men có trộn với trứng gà, bơ,
váng sữa, và được rán bằng những chiếc chảo lửa to nóng bỏng. Chiếc bánh xèo hình



tròn là tượng trưng cho mặt trời thần linh mang lại hơi ấm mùa xuân, tràn trề sức sống
và hạnh phúc.
Hội Ivan Kupala mùa đông
Khác với Lễ Tiễn Mùa Đông được tổ chức chung với nhiều bạn bè và những người
sống xung quanh, hội Ivan Kupala mùa đông thường được tổ chức ngay trong gia đình
để tiễn mùa đông, đón mùa xuân. Đây là hội của những người Nga từ nhiều thế kỷ
nay.
Để bắt đầu buổi lễ, người ta trải cuộn rơm lên bàn, phủ tấm khăn trải bàn rộng lên trên,
đặt lên đó một hũ cháo đại mạch trộn mật ong. Đó là món ăn chính theo phong tục. Bát
cháo đầu tiên là dành cho tổ tiên. Khi chủ và khách ăn xong món ăn chính, phần còn
lại đem để ra ngoài sân cho thần băng giá, mọi người hát bài hát bằng âm điệu êm ái,
ngọt ngào, cầu xin thần đừng làm hại hoa màu.
Tiếp đó, các em nhỏ xuất hiện, chúng đeo mặt nạ, đội lốt con dê, con sếu, con gấu
những con vật gần gũi với người nông dân N ga. Những đứa trẻ cùng nhau hát những
lời cầu mong mùa màng bội thu và nhận những đồng tiền nhỏ từ người lớn.
Hội Ivan Kupala mùa hạ
Hội Ivan Kupala mùa hạ khác với hội mùa đông. Trong ngày hội, các cô gái bói tìm
người yêu bằng cách bện các vòng hoa, thả chúng xuống sông trong đêm Ivan Kupala.
Trên các bãi cỏ trong rừng, những người mạnh bạo nhất nhảy qua đống lửa trong tiếng
cười và tiếng hò hét, khích lệ của người xem.
Trong đêm hội mùa hè ngắn ngủi, nam nữ thanh niên rủ nhau vào rừng, họ tin rằng,
trong những cánh rừng âm u, điều huyền bí nhất có thể xảy ra.

Nhảy múa mừng hội Ivan Kupala
Hội chăn cừu
Hội chăn cừu là một hội có từ thời xa xưa, hội diễn ra vào mùa xuân. Sau những ngày
mùa đông, tuy ết bắt đầu tan, cây cỏ, thảo nguyên bừng thức. Những con cừu bị nhốt
trong chuồng, ăn cỏ khô suốt mùa đông, giờ đây được đưa lên các thảo nguyên, hít thở



khí trời trong lành, ăn cỏ non. Những người chăn cừu phải tạm biệt gia đình đi theo,
chăm sóc, quản lý đàn cừu. Do vậy, người ta tổ chức ngày hội chăn cừu để tiễn những
người chăn cừu lên núi.
Ngày hội mở đầu bằng tiếng kèn hiệu trembita là loại kèn gỗ lớn. Theo sau họ là
những chiếc xe ngựa chở đồ trang trí bằng những tấm thảm thêu. Một số nghệ nhân địa
phương đứng trên thùng xe biểu diễn những tiết mục hài, vui nhộn, hoặc tái hiện
những cảnh tượng sinh động phản ánh sinh hoạt của người chăn cừu như vắt sữa, nấu
pho-mát từ sữa cừu.
Những người thợ thủ công cũng tham gia diễu hành với những khung cửi, những tấm
vải dệt có hoa văn miêu tả đời sống của dân chăn cừu. Ở một bãi cỏ gần nhất trên sư ờn
núi, người ta đã chuẩn bị sẵn một đống củi lớn để đốt. Người chăn cừu nhiều tuổi nhất
nhóm lửa dùng roi chăn cừu dài, vung lên vài lần, đập vào đống lửa. Đó là hiệu lệnh
cho các nghệ sĩ nhân dân lên sân khấu bắt đầu buổi biểu diễn.
Người t a nhảy các điệu nhảy dân tộc, điệu nhảy rồng rắn, mời nhau nếm pho-mát cừu
thơm, tươi nhất, uống rượu sữa cừu, ăn bánh ngọt. Sau đêm hội là những ngày làm
việc bình thường của người chăn cừu. (Theo TTXVN, Tổng Cục Du Lịch)
Lễ hội cô dâu
Lễ hội này được tổ chức tại M atxcơva. Các cô gái trẻ trong cô dâu mang đủ phong
cách sẽ tham gia diễu hành tại đường phố Matxcơva.

Các cô được chụp ảnh ở rất nhiều địa điểm đẹp như bên dòng sông và cạnh các du
thuyền và trở thành đối tượng chiêm ngưỡng của các khách du lịch. Các cô gái Nga rất
háo hức tham gia lễ hội này và họ còn nghĩ ra rất nhiều trò tinh nghịch trong lễ hội.
Người dân địa phương và các khách du lịch rất thích thú với các màn diễu hành của lễ
hội.().
Ngày lễ thánh Tatyana – ngày hội của sinh viên Nga
Lịch sử ngày hội riêng của giới sinh viên Nga khởi nguồn từ năm 1755, khi Nữ hoàng
Elizaveta Petrovna ký Sắc lệnh thành lập ở Matxcơva Trường Đại học tổng hợp đầu



tiên của nước Nga Sa hoàng. Ngày Nữ hoàng ký Sắc lệnh đúng vào ngày lễ thánh
Tatyana. Kể từ đó, thánh Tatyana, vị nữ thần La Mã hồi thế kỷ thứ 3 theo Công lịch,
đã trở thành nữ thánh bảo trợ cho Trường Đại học Tổng hợp lớn nhất của nước N ga.
Rồi sau đó, ngày 25 tháng Giêng hàng năm đã biến thành ngày lễ của toàn thể giới
sinh viên Nga.
Lễ hội đua heo ở Nga
Được biết, đây là một lễ hội có truyền thống từ lâu đời, khoảng thế kỷ thứ 17, nhưng
đã bị mai một dần và không được tổ chức thường xuyên. Vào đầu thế kỷ 20, để làm
sống lại những lễ hội bản sắc dân tộc đang dần bị mai một, các nông dân N ga đã dần
dần khôi phục lễ hội đua heo truyền thống vui nhộn này và ấn định thời gian tổ chức
định kỳ hằng năm.
(nuocnga.net)
6. Những phong tục, trò chơi dân gian Nga.
Nghề thêu truyền thống ở Nga
Thêu thùa là một trong những hình thức phổ biến nhất của nghệ thuật dân tộc. Cây
kim, cuộn chỉ, mảnh vải – đó là tất cả những gì cần thiết để may và thêu trang phục,
làm ra những sản phẩm tinh xảo để trang trí nhà cửa.
Trên trang phục cũng như những vật dụng trong nhà có thêu hình mặt trời, những con
chim, những người phụ nữ - nó như biểu tượng của sức mạnh cuộc sống, hạnh phúc,
sự màu mỡ. Người ta tin rằng chúng sẽ mang tới cho ngôi nhà sự sung túc.
Việc thêu thùa của các dân tộc trên lãnh thổ Nga đặc biệt đa dạng về kỹ thuật cũng
như nghệ thuật thêu, nó mang đặc trưng cuộc sống của mỗi dân tộc.
Có các kiểu thêu: hình chữ thập, hình 2 chữ thập đơn giản, những họa tiết (nửa chữ
thập), đuôi sam, thêu nổi và các kiểu khác. Cách thêu này được sử dụng rộng rãi để
trang trí rèm che, khăn trải bàn, gối trên đivăng, khăn ăn, panno và quần áo.
Những nghệ nhân người Nga đã sáng tạo ra một khối lượng lớn những hoa văn thêu.
Đối với những vùng phía Bắc, màu trắng đặc trưng cho những đường thêu xương cá;
còn với khu vực miền Trung – nó thường thêu cùng những đường thêu màu trong
đường viền bức tranh hay ở những phần nhỏ của hoa văn; ở các tỉnh miền Nam, có
những họa tiết trang trí màu thêu đan xen nhau. Những hoa văn màu cũng như trắng

được thêu theo lưới làm bằng vải t hưa.


Ở bất kể vùng, tỉnh hay miền nào trên đất nước N ga đều có thể bắt gặp những tác
phẩm độc đáo của những nghệ nhân tài hoa.

Búp Bê Matrioshka
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX A.M amontova đã đem về từ Nhật Bản hình ảnh
một cụ già hói đầu, tốt bụng – nhà thông thái, bổ sung vào kho tàng đồ chơi cho trẻ
con Matxcơva.

Thứ đồ chơi này khá đặc biệt, nó bao gồm nhiều con búp bê lồng vào nhau. Búp bê
Matrioshka đầu tiên là hình ảnh một cô gái trong trang phục dân tộc truy ền thống: áo
xa – ra – phan, yếm và khăn trùm đầu. Thứ đồ chơi này có khoảng 8 búp bê trở nên.
Hình tượng các búp bê gái được lần lượt thay đổi từ búp bê bé trai để phân biệt với
nhau. Con búp bê trong cùng nhỏ nhất là hình ảnh một đứa trẻ quấn tã. Tên gọi
Matrena thời đó đã được rất nhiều người biết đến. Cái tên Matrioshka cũng bắt nguồn
từ đó. Sản xuất búp bê M atrioshka đã trở nên phổ biến và rộng khắp t ới mức còn có cả
các đơn đặt hàng sản xuất từ Paris, Đức, tại hội chợ Leipzig nổi tiếng.
Chủ đề trong các câu chuyện cổ tích luôn thu hút được sự chú ý đặc biệt của loại búp
bê này. Bên cạnh đó còn có nhiều chủ đề khác: cácc nhân vật nổi tiếng,… Búp bê
Matrioshka trở nên phong phú không chỉ nhờ các hình vẽ mà cả bởi số lượng búp bê
lồng vào nhau.
Đầu thế kỷ XX, tại Sergiev Posad, những con búp bê Matrioshka có tới 24 con lồng
vào nhau, đến năm 1913 người thợ tiện Nikolai Bulychev đã phá kỷ lục với số lượng
búp bê là 48. Ngay trong năm nay, tại Sergiev Posad, hợp tác xã t iểu thủ công nghiệp


chuyên sản xuất đồ chơi đã được thành lập mang lại số lượng thu nhập đáng kể cho
người dân nơi đây.

Đồng thời, hình tượng con lật đật cũng bắt nguồn từ loại búp bê này. Nhắc tới búp bê
Matrioshka, chúng ta không thể không nhắc tới Bảo tàng đồ chơi tại Sergiev Posad.
Cây Đàn Balalaika
Đàn balalaika là một nhạc cụ truyền thống của Nga. Nó không chỉ là một nhạc cụ đơn
thuần, mà còn mang trong mình cả tâm hồn Nga và đã trở thành một trong những biểu
tượng của văn hóa Nga.

Nhiều người cho rằng, đàn balalaika được nghĩ ra ở nước Nga cổ, những người khác
lại cho rằng nó xuất phát từ một nhạc cụ của người kirgiz – kaisak – dombra. Còn có
một giả thuyết nữa: có khả năng đàn balalaika được nghĩ ra trong thời gian quân Tatar
chiếm đóng, hoặc ở một mức độ nhất định, đó là sự giao thoa với nền văn hóa của
người Tatar. Do vậy khó có thể xác định chính xác năm cây đàn xuất hiện. Những nhà
sử học và những nghiên cứu âm nhạc vẫn đang tranh luận về vấn đề này.
Cây đàn balalaika gồm 3 phần chính. Phần thứ nhất là thân đàn gồm có mặt đàn (phần
trước) và phần sau, được tạo nên bằng cách dán 6 – 7 mảnh gỗ lại với nhau. Phần thứ
hai là cần đàn có các phím đàn và cuối cùng là đầu đàn – phần trên cùng của balalaika.
Trên phần đầu đàn là các khóa để lên dây. Ở phần mặt đàn thường có một cái lỗ nhỏ,
trên lỗ nhỏ đó thường có một màng bảo vệ. Nó có tác dụng bảo vệ mặt đàn khỏi những
cú đập trong khi chơi. Ở nhiều đàn balalaika không có cái lỗ nhỏ này, chúng được thay
thế bằng một bức tranh nhỏ vẽ hình hoa hay quả dại.
Nhưng Vasily Andreev còn nghĩ tới một điều gì đó lớn hơn là hoàn thiện cây đàn
balalaika. Ông muốn trả lại cây đàn cho nhân dân và phổ biến nó. Hiện nay tất cả


những người lính khi phục vụ trong quân đội đều được phát cho một cây đàn balalaika
và khi rời quân ngũ họ mang theo cây đàn.
Lần đầu tiên cây đàn xuất hiện trong dàn nhạc giao hưởng. Ngày nay đàn balalaika
mặc dù gặp nhiều thăng trầm nhưng nó vẫn luôn là biểu tượng cho nền văn hóa truyền
thống của N ga trong mắt bạn bè thế giới.


7. Tôn giáo ở Nga.
Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng và tinh thần của người
Nga hiện đại. Đa số những tín đồ ở Nga là những người theo đạo Cơ đốc chính thống
(Orthodox).
Tôn giáo ở Nga ngày nay
Với gần 5000 giáo hội, Nhà thờ Orthodox của N ga đã chiếm tới quá nửa tổng số giáo
hội được đăng ký ở Nga. Tiếp đến là đạo Hồi với 3000 giáo hội; Baptist - 450 giáo
hội; Seventh Day Adventists -120 giáo hội ; Evangelicals - 120 giáo hội; Cựu giáo
(Old Believers) - trên 200 giáo hội; Thiên chúa giáo - 200 giáo hội; Krishnaites - 68
giáo hội; Đạo Phật - 80 giáo hội; Đạo Do Thái - 50 giáo hội và Đạo Unified
Evarfelical Lutherans - 39 giáo hội.
Một số nhà thống kê ước tính số người theo đạo chiếm 40% tổng số dân Liên bang
Nga. Gần 9000 cộng đồng ở N ga thuộc về trên 40 tôn giáo khác nhau đã chính thức
đăng ký.
Phần lớn tôn giáo của Nga ngày nay là đạo Cơ đốc giáo. Đất nước này có trên 5000
nhà thờ Oxthodox, mà rất nhiều trong số đó được sửa chữa hoặc làm mới bằng công
quỹ của giáo khu hoặc địa phương.
Nga có 19 triệu người theo đạo Hồi, cộng đồng tôn giáo lớn thứ 2 ở N ga, có trên 800
giáo khu và đền đài, phần lớn là ở Bashkort ostan, Daghestan, Kabarda-Balkaria, Bắc
Ossetia, Tatarst an, Ingushetia và Chechnya.
Đạo Phật được phát triển lan rộng ở các vùng Buryatia, Kalmykia, Tuva và các khu
vực Irkutsk và Chits. Liên bang Nga hiện nay đã có 10 phật đường với 200 ngôi chùa,
10 phật đường khác đang được xây dựng.
Liên bang Nga có 42 cộng đồng Do Thái. Thành phố M át-xcơ-va có hơn 10% dân số
là người Do Thái, và có 3 giáo đường Do Thái, trong đó có Giáo đường Hasidic.

×