Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tuyển tập các sáng kiến kinh nghiệm giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.28 KB, 63 trang )

25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

MỤC LỤC
I. Một số biện pháp truyền thông giáo dục dinh dưỡng và sức
khỏe cho các bậc cha mẹ.........................................................3
II. Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo của trẻ thông qua
việc sử dụng các nguyên vật liệu mở......................................5
III. Chuẩn bị cho trẻ vào Trường phổ thông...........................6
IV. Một số biện pháp rèn phát âm chữ L – N cho trẻ 5 tuổi...8
V. Biện pháp tạo hứng thú cho trẻ khám phá khoa học........13
VI. Làm thế nào để góc Âm nhạc lôi cuốn và hấp dẫn trẻ?..15
VII. Yêu cầu chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi sẵn sàng
vào lớp 1................................................................................16
VIII. Một số thí nghiệm khoa học phục vụ môn MTXQ......20
IX. Xây dựng những cuốn sách biết nói cho góc thư viện....30
X. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài đồng dao. 32
XI. Quan sát và ghi chép hoạt động làm quen với Toán của
trẻ Mẫu giáo...........................................................................36
XII. Giúp trẻ 5 – 6 tuổi cảm thụ truyện kể thông qua hệ thống
câu hỏi....................................................................................38
XIII. Một vài kinh nghiệm phát triển kỹ năng giao tiếp của
trẻ Mầm Non..........................................................................39
XIV. Giúp trẻ phát triển tồn diện qua bộ mơn Âm nhạc.....41
XV. Một số biện pháp gợi ý tưởng cho trẻ trong hoạt động
phòng thể dục........................................................................44
XVI. Một số kinh nghiệm trong việc phối hợp tạo kinh phí tổ
chức tham quan cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, cơng nhân
viên........................................................................................45
XVII. Những trị chơi đơn giản với trẻ mầm non.................46
XVIII. Một số biện pháp bước đầu cho trẻ 3 – 4 tuổi làm
quen với chữ viết...................................................................48


1


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

XIX. Một số kinh nghiệm giúp cháu sớm thích nghi với
trường, lớp mầm non.............................................................50
XX. Giúp trẻ phát triển trí tuệ thông qua giáo dục Âm nhạc.
...............................................................................................52
XXI. Làm thế nào giúp trẻ 1 – 2 tuổi phát triển ngôn ngữ
được tốt?................................................................................54
XXII. Sáng tạo một số đồ chơi cho trẻ từ các loại ống nhựa,
ống nước................................................................................55
XXIII. Tạo môi trường cho trẻ làm quen văn học - chữ viết
thơng qua phịng thư viện đồ chơi – góc sách Ở TRƯỜNG
MẦM NON 2 THÀNH PHỐ HUẾ.......................................56
XXIV. Góc xây dựng trong hoạt động vui chơi....................58
XXV. Biện pháp tạo hừng thú cho trẻ khám phá khoa học. .60

2


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

I. Một số biện pháp truyền thông giáo dục dinh dưỡng và sức
khỏe cho các bậc cha mẹ
Phòng Mầm Non TP.HCM
1. Xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên:
Mở các lớp về bồi dưỡng và kỹ năng tuyên truyền cho các đối tượng như ban giáo hiệu, giáo
viên, nhân viên nấu ăn nhằm huấn luyện đội ngũ thành những tuyên truyền viên tốt có được

phong cách trình bày, ngơn ngữ mạch lạc, dễ hiểu truyền đạt thông tin đến đối tượng; biết lắng
nghe tóm tắt nhanh những câu hỏi, các ý kiến thắc mắc để trả lời, giải thích tư vấn cho phụ
huynh; biết sử dụng một số phương tiện nghe, nhìn, các đị dùng học cụ hỗ trợ cho các bước tiếp
xúc với cha mẹ trẻ thêm phong nhú, ấn tượng.
2. Củng cố và nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ:
Mở nhiều lớp về dinh dưỡng, vệ sinh, phòng bệnh, cách chăm sóc trẻ… cho đội ngũ tuyên truyền
viên; cung cấp tài liệu cho học viên giúp người học nắm chắc củng cố kiến thức và nâng thêm
trình độ chun mơn; cập nhất các kiến thức mới, các vấn đề thời sự đang diễn ra trong cuộc
sống, xã hội. Nhờ luyện tập đội ngũ tuyên truyền viên có được sự tự tin của bản thân; tạo được uy
tín, niềm tin đối với các bậc cha mẹ; đã thống nhất được với phụ huynh cách nuôi dạy con với
từng gia đình, từng trường lớp.
3. Lập kế họach tuyên truyền hàng tháng cho cả năm học.
Các chủ điểm, đề tài tuyên truyền được xây dựng, sắp xếp vào mỗi tháng xoay quanh các yêu cầu
như:
Lượng thông tin bao gồm các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng, vệ sinh, phòng bệnh. Các họat
động hưởng ứng các phong trào giáo dục sức khỏe của nhà trường.
Nội dung được chọn đề tuyên truyền cần căn cứ vào các yếu tố liên quan như:
Tình hình sức khỏe của học sinh có những vấn đề nào phải can thiệp.
Tình hình bệnh tật của trẻ có thể phát sinh do thời tiết, khí hậu, mơi trường cần được nhắc nhở đề
phịng bệnh, xử lý kịp thời.
Tình hình hiểu biết về ni con của cha mẹ.
Thời điểm chọn nội dung tuyên truyền được gắn kết cùng thời điểm với các nội dung truyền
thông của thế giới, trong nước của thành phố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

3


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
Ví dụ: Tháng 3 hàng năm ủy ban nhân dân thành phố tuyên truyền tháng hành động về chất
lượng vệ sinh an tịan thực phẩm thì tại các trường MN cũng có bandroll tuyên truyền hưởng ứng

tháng hành động này đồng thời trên các bảng tuyên truyền của nhóm, lớp phổ biến các tin như:
lực chon thực phẩm an tòan; cách chế biến hợp vệ sinh, cách ăn uống hợp vệ sinh; dạy trẻ rửa tay
trước khi ăn; Cách bảo quản thức ăn; Giới thiệu họat động hội thi tay nghề cấp dưỡng đang diễn
ra trong trường…
4. Học tập trao đổi khinh nghiệm:
Mở các hội nghị học tập rút kinh nghiệm tại cơ sở từ cấp thành phố đến quận, huyện để cùng
nhau bàn bạc, thảo luận. Nhiều cách làm thuận lợi, tranh thụ được sự giúp đỡ hợp tác từ nhiều
phía giúp các trường làm tốt cơng tác tuyên truyền đã được giới thiệu trong các hội nghị như:
- Tổ chức sinh họat câu lạc bộ tuyên truyền viên trong quận, huyện. Các tuyên truyền viên ngòai
việc trao đổi kinh nghiệm, cách giải quyết các tình huống khi tiếp xúc với phụ huynh cịn được
cung cấp các thơng tin tài liệu từ ngành. Cùng với các tư liệu tự sưu tầm, đội ngũ tuyên truyền
viên đã biên soạn nhiều bài viết có nội dung phong phú phục vụ cho các vấn đề cần tuyên truyền
trong tháng. Sau đó lại cùng nhau biên tập, trình bày, photo, ép nhực gửi về các trường tham khảo
hoặc sử dụng để phổ biến trên các góc tuyên truyền của trường, của lớp. Đây là một cách làm
giúp giáo viên luôn tự tin, tăng thêm hiểu biết và đỡ vất vả trong công tác tuyên truyền.
- Quan tâm đầu tư cho các góc tuyên truyền của trường và lớp. Kết hợp với bản tin là hình ảnh
được thay đổi nhiều lần trong tháng đã thu hút được sự quan tâm chú ý của phụ huynh. Nhiều
phụ huynh quan tâm đã xin nhà trường tài liệu về đọc. Vì thế, các tài liệu đã được nhà trường
photo; các tờ rơi, sách bỏ túi, bài hát, bài thơ… đã được các nhà tài trợ giúp sức cho nhà trường
gửi đến phụ huynh.
- Mỗi trường đều tổ chức lưu giữ các tài liệu để kho thông tin tuyên truyền thêm phong phú, đa
dạng.
- Tăng cường các buổi trò chuyện giữa giáo viên và phụ huynh. Ban giám hiệu dành thời gian
nhất định trong tuần để tiếp phụ huynh. Nhà trường còn tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm; ngòai
các tuyên truyền viên của trường còn có các chuyên gia, các thầy thuốc gặp gỡ, đối thọai trực
tiếp, giải đáp thắc mắc các vấn đề liên quan đến chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, lôi cuốn phụ huynh
tham dự đông đảo.
- Kết hợp với Hội, Cha mẹ học sinh, các doanh nghiệp tổ chức các hội thi có thưởng trong chủ
điểm Dinh dưỡng sức khỏe dành cho phục huynh và học sinh. Các hình thức thi trắc nghiệm, hỏi
đáp, thi nấu ăn, bé tập làm nội trợ… hoặc thơng qua các trị chơi, các tiết mục văn nghệ đã phản

ánh được kiến thức khả năng thực hành của cha mẹ và trẻ. Hội thi tạo được bầu khơng khí cùng
nhau tích cực tìm hiểu, học tập và áp dụng khoa học vào cuộc sống sinh họat hàng ngày của mỗi
gia đình đồng thời nhà trường cũng tự đánh giá được kết quả tuyên truyền của chính đơn vị.

4


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

II. Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo của trẻ thông qua
việc sử dụng các nguyên vật liệu mở.
Giáo viên: Hồ Thu Thảo
Lớp:Chồi 4
A.Đặt vấn đề:
Hiện nay khi thực hiện chương trình đổi mới điều khó khăn nhất đối với chúng ta
Là làm thế nào để hoạt động thật đơn giản, nhưng lại đạt hiệu quả cao. Một trong những yếu
tố để làm được điều đó là biết tận dụng các nguyên vật liệu để tổ chức cho trẻ hoạt động. Và đó
chính là lý do tơi muốn giới thiệu đến các bạn: “Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo của trẻ
thông qua việc sử dụng các nguyên vật liệu mở”. Ý tưởng này nảy sinh từ việc tổ chức hoạt động
của lớp.
B. Giải quyết vấn đế:
Có thể nói việc sử dụng nguyên vật liệu mở trong việc tổ chức các hoạt động khơng có gì mới
đối với GV chúng ta. Nhưng làm thế nào cho hiệu quả, phát huy hết khả năng sáng tạo và tưởng
tượng ở trẻ mới là điều cần quan tâm. Trước tiên ta cần lưu ý những vấn đề sau:
Nguyên vật liệu phải thật đơn giản (rẻ tiền, dễ tìm, an tồn...)
Ngun vật liệu dễ thực hiện (cô và cháu có thể cùng làm)
Cuối cùng nó phải được sử dụng thật hiệu quả ( sử dụng xuyên suốt được qua nhiều hoạt động
khác nhau)
Khó khăn cần giải quyết ở đây: Là khi có đầy đủ các nguyên vật liệu rồi ta sẽ làm cách nào để
phát triển tưởng tượng cho trẻ và giúp trẻ hoạt động sáng tạo theo sự tưởng tượng đó.

Hướng giải quyết như sau:
Bước 1: Sưu tầm các nguyên vật liệu cần cho hoạt động
Bước 2: Làm các vật liệu rời
Bước 3: Tổ chức hoạt động.
Cụ thể như giờ hoạt động LQVH truyện “ Ông cây già”
Bước 1: Sưu tầm các NVL như cành khô, ống hút, những đồ chơi nhỏ nhẹ, vải vụn, bao xốp...
Bước 2: Làm vật liệu rời từ các nguyên vật liệu sưu tầm
Ghép các cành khô tạo thành các cây với các tư thế khác nhau
Thắt nơ từ ống hút, vải vụn, xỏ dây cho đồ chơi cắt hoa từ giấy, bao xốp..
Bước 3: Tổ chức hoạt động
Dùng những cây khô để tạo thành mơ hình để kể chuyện : “Ơng cây già”
Gợi ý để trẻ phát triển tưởng tượng như làm thế nào để cây già có thể biến thành cây có sức sống
kỳ diệu (như trò chuyện với cây, tưới nước, nhảy múa, vuốt ve cây, làm đẹp, trang trí cây...)
Hoạt động sáng tạo theo sự tưởng tượng: Trẻ sẽ chọn những nguyên vật liệu rời đã chuẩn bị để
làm đẹp cho cây, sau đó có thể chơi với cây tùy theo sự tưởng tượng và sáng tạo của từng nhóm
trẻ.
Cách giải quyết trên đây cũng là những gì tơi đã thực hiện trên trẻ và cho kết quả rất tốt.
Kết quả đạt được:
_ Với nguyên vật liệu đơn giản nhưng lại tổ chức được nhiều hoạt động khác nhau và xuyên
suốt.
_Từ đó MĐYC chính đạt được hiệu quả cao, trẻ được hoạt động sáng tạo và phát triển tưởng
tượng tốt, thêm một cái mới nữa là cảm xúc của trẻ phát triển tốt, trẻ cịn biết giao lưu tình cảm
với đồ vật, cây cỏ rất hồn nhiên và dễ thương.
_ Qua đó ta có thể giáo dục trẻ về các mối quan hệ giao lưu tình cảm khác.
C. Kết thúc vấn đề:
5


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
Từ việc sử dụng NVL là những cành cây khô cho các hoạt động rất có hiệu quả, tiếp tục với

các nguyên vật liệu với giấy và nước, tôi và các bé sẽ làm ra những quả bầu quả bí đơn giản, sử
dụng nó để kể chuyện rối trang trí những nét ngộ nghĩnh, cũng trị chuyện với chúng và sử dụng
trong các hoạt động khác khiến trẻ rất tích thú.
Ngun vật liệu mở là nguồn ngun liệu vơ cùng đa dạng và phong phú có thể giúp ta tổ chức
các hoạt động cho trẻ, hãy tận dụng tối đa những gì có xung quanh ta bạn nhé! thật đơn giản vì dễ
tìm và dễ làm... nhưng lại cho hiệu quả cao trong việc phát triển tưởng tượng, sáng tạo và cảm
xúc ở trẻ.

III. Chuẩn bị cho trẻ vào Trường phổ thơng
Người viết: Võ Thị Tường Vy
Trường MGTH TW3`
Vì sao phải chuẩn bị cho trẻ vào học phổ thông ?
Nếu như chúng ta trả lời câu hỏi này một cách sâu sắc, thấu đáo và khoa học thì chúng ta sẽ hiểu
được đối với trẻ em, việc đến trường phổ thông được coi như là một bước ngoặt quan trọng trong
cuộc đời,là một bước chuyển biến mang tính nhảy vọt vì trẻ có sự biến đổi giữa lớp mầm non lên
tiểu học. Đó là việc trẻ được chuyển qua một lối sống mới với những hoạt động mới, một vị trí xã
hội mới với những mối quan hệ mới của một người học sinh thực thụ.
Chính vì thế là một giáo viên đang dạy ở lớp lá .Bạn đã chuẩn bị được gì cho trẻ của bạn bước
vào trường phổ thông mà trẻ không bị hẫng hụt về tâm ly, cũng như có đầy đủ những tố chất sẵn
sàng cho việc học phổ thông.
Chúng ta đừng nghĩ, chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông là dạy cho trẻ biết đọc, biết viết,làm
các bài toán ở sách lớp 1.Quan điểm này thật là sai lầm và hiện nay cũng có một số phụ huynh và
giáo viên đã mắc phải và làm ảnh hưởng khơng ít đến trẻ, có một số trẻ đã mắc phải một số bệnh
khi trẻ lên lớp 1 như : bệnh chủ quan, bệnh sợ học, bệnh lơ là trong giờ học ( vì trẻ đã biết trước)
…., vơ tình ta đã làm cho trẻ khơng cần phải tư duy,ghi nhớ trong giờ học, làm mai một đi khả
năng tiếp cận tri thức,sáng tạo của trẻ.
Chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông là chuẩn bị tồn diện về mọi mặt khơng thiên về khía cạnh
nào, và tuỳ theo lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mà ta áp dụng các bài tập, giờ học, giờ
chơi, sinh hoạt cho phù hợp.
* Sau đây là những chuẩn bị của tôi ở lớp:

Ngay từ khi nhận trẻ ở lớp chồi lên, buổi đầu tiên tôi và trẻ cùng trị chuyện với nhau, tơi chú ý
nhìn vào tên của trẻ và trò chuyện để tạo mối quan hệ thân thiện với trẻ.Mục đích của tơi trong
giờ trò chuyện này cho trẻ hiểu sau một năm học, lớn thêm một tuổi, học giỏi là được lên lớp
mới, được làm anh chị các em lớp chồi, mầm. Trẻ rất thích được làm người lớn và khi đó trẻ ý
thức được vai trị mới của mình, và hiểu được quy luật “lên lớp khác”.
Chuẩn bị về thể lực cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng đòi hỏi tất cả chúng ta có sự quan
tâm sâu sắc.Một cơ thể khoẻ mạnh là tiền đề vật chất giúp cho trẻ phát triển năng lực hoạt động
trí tuệ ở trường phổ thông. Qua các giờ học thể dục của lứa tuổi : đi chạy, leo trèo, ném…….,các
vận động trong các giờ học khác, tơi cịn cho trẻ rèn luyện vận động tinh, sự khéo léo của đôi
bàn tay, của các giác quan: như trẻ tự xỏ quai giày, tự cài nút áo, trong giờ ăn, giờ chơi tôi tập
cho trẻ sử dụng các đồ dùng sinh hoạt một cách khéo léo gọn gàng. Và những vận động bằng tay
của trẻ càng khéo léo càng phong phú bao nhiêu thì càng dễ hình thành các thao tác trí tuệ bấy
nhiêu.
6


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
Ơ lớp tôi dạy cho trẻ thói quen,khả năng tự phục vụ bản thân như trẻ tự xách cặp vở của mình, tự
đút ăn, tự rửa tay, lau mặt, đánh răng, tự thay quần áo…, các thói quen này rất có ích cho trẻ,
hình thành ở trẻ tính độc lập, không phụ thuộc ỷ lại người khác.
Trẻ được phân cơng trực nhật làm việc vì tập thể, ( xếp tô đĩa cho bạn… phơi khăn ra giá khăn,…
thông qua hành động này trẻ còn học được một số quy luật trong phép đếm , 1:1, 1 bạn 1
tô,1muỗng,1 khăn….Hoạt động lao động tập thể cũng góp phần cho trẻ làm quen đến những ảnh
hưởng của cá nhân với tập thể. Tính tập thể rất cần thiết khi lên lớp 1.
Qua các giờ học, tơi hình thành cho trẻ tư duy hình ảnh, trí tưởng tượng, óc sáng tạo,cơ sở của tư
duy ngôn ngữ lôgic, sự lĩnh hội các phương thức hoạt động nhận thức, kỹ năng phân loại,khát
quát hoá, mơ hình hố, lĩnh hội tiếng mẹ đẻ, các hình thức cơ bản của ngôn ngữ thông qua các
môn học : Làm quen văn học, làm quen với toán, tạo hình,làm quen chữ viết……Cụ thể như qua
giờ Văn học : tôi kể truyện cho trẻ nghe truyện, cho trẻ kể lại truyện, kể chuyện sáng tạo, đóng
kịch ,dùng ngôn ngữ để diễn đạt, phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ,phát triển trí tưởng

tượng,phát triển thính giác âm vị ,sự khác nhau của các âm thanh.
Hay trong giờ tốn, tơi cho trẻ làm quen với các thuật ngữ toán học như “nhiều hơn, ít hơn, bằng
nhau” tuy nhiên những thuật ngữ này được trả lời trong ngữ cảnh và trọn câu khi cô đặt câu hỏi:
“số cà rốt như thế nào so với số cà chua” Tại sao con biết? Làm thế nào để biết được số cà rốt
nhiều hơn hoặc ít hơn số cà chua? Trẻ phải dùng ngơn ngữ để diễn đạt, và trẻ ở lứa tuổi này vừa
học vừa chơi nên ta không cứng nhắc là dạy trẻ học mà thông qua chơi ,mối tương quan giữa
nhiệm vụ chơi và nhiệm vụ sẽ thay đổi dần. Số lượng nhiệm vụ giao cho trẻ dưới hình thức trị
chơi ở đầu năm học sẽ được thay đổi dần bằng nhiệm giao dưới hình thức học tập ở cuối năm.
Làm quen chữ viết là một phần việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Hướng đứa trẻ làm quen với chữ
viết bằng hình thức bắt chước, nhập tâm kết hợp với trò chơi đố vui, trò chơi với chữ cái… tạo
cho trẻ môi trường tự khám phá, nuôi dưỡng sự hứng thu cho trẻ, tạo cơ sở cho tre học tốt ở phổ
thông,ở lớp tôi tạo môi trường chữ cho trẻ có nghĩa là tôi viết tên ở các đồ dùng, đồ chơi, mặc dù
trẻ không đọc được nhưng trẻ biết chữ đó ghi là gì.ghi tên trẻ ở các hồ sơ cá nhân, trên dép, trên
các bảng biểu như: bảng phân công trực nhật bàn ăn, bảng phân công trẻ tưới cây….Mặc khác
khi cho trẻ vui chơi, tôi cũng chuẩn bị giấy viết ở mỗi góc chơi,góc bác sĩ trẻ dùng viết ghi tên
bệnh nhân, góc bán hàng dùng viết ghi tên các mặt hàng, góc khoa học ghi lại các kết quả nghiên
cứu …., đối với trẻ có thể chỉ là vẽ một vài nét nguệch ngoạc trên giấy hoặc viết một hai từ . Tuy
nhiên tôi thấy rằng nhiều trẻ bị cuốn hút bởi giấy, viết và kỹ năng viết trước khi trẻ biết đọc, trẻ
viết tên bệnh nhân ra sau đó mới gọi bệnh nhân vào khám bệnh.Hình thành ở trẻ tính hiếu kỳ đối
với ngơn ngữ viết là hứng thú với những nét nguệch ngoạc hoặc vẽ gì đó.
Chính từ đây phát triển hứng thú sao chép các đối tượng hoặc chữ cái.
Làm quen trẻ với kỹ năng đọc cụ thể thông qua việc đọc truyện cho trẻ nghe, tôi áp dụng biện
pháp đọc cho trẻ nghe truyện tới đoạn truyện hấp dẫn tôi dừng lại cho trẻ tưởng tượng chuyện gì
sẽ xảy ra sau đó, trẻ sẽ kể tiếp cho cô và trẻ khác nghe, sau cùng tôi mới đọc tiếp đoạn cuối, qua
việc trẻ ồ lên đoạn cuối của câu chuyện khác với tưởng tượng của các bạn,hoặc có khi tôi dừng
lại để ngày mai mới đọc, có một số trẻ đến nơi để truyện của tôi và tự đọc theo ý mà trẻ suy nghĩ
ra, trẻ có nhu cầu học chữ để có thể tự đọc truyện mà không cần người khác .
Thông qua các ngày hội lễ, tôi cho trẻ làm các tấm thiệp và ghi vào đấy lời chúc mừng của mình,
gởi đến cho các bạn,hoặc khi bạn bị ốm trẻ viết lời chúc bạn mau bình phục….những nét chữ
nguệch ngoạc trẻ viết vào thể hiện sự quan tâm chăm sóc nhau giữa trẻ với nhau.Hoặc khi trẻ trả

lời những câu hỏi của cô hoặc những thắc mắc của trẻ tôi đều ghi lại và treo lên bảng, tạo môi
trường khuyến khích đứa trẻ quan tâm đến chữ viết.
Trong khi đi tham quan dã ngoại là nơi cho trẻ hiểu được thế giới xung quanh và cũng là nơi mà
tôi khơi gợi ở trẻ lòng ham muốn đọc chữ. Đến nơi xem thú, tôi đọc cho trẻ nghe những cái bảng
7


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
quy định cho mọi người vào công viên như: không dẫm lên cỏ, khu vực cấm tới gần ở những nơi
có điện, giúp trẻ hiểu rằng việc đọc được chữ là rất bổ ích.Hoặc khi tới các chuồng động vật tôi
đọc cho trẻ nghe tên con vật, môi trường sống, thức ăn, sinh sản của các con vật…trẻ lớp tôi đã
phát biểu: ”cô Vy hay quá con vật nào cơ cũng biết” , tơi chưa trẻ lời thì có trẻ khác nói chen vào
“ Vì cơ Vy biết đọc nên cô đọc ở bảng treo” dần dần trẻ cũng hiểu việc biết đọc là có lợi như thế
nào đối với trẻ.
Ngay trong sinh hoạt ăn ngủ, đi vệ sinh, tơi cũng hình thành thói quen đúng giờ giấc, có nề nếp
nhằm hình thành ở trẻ khả năng tự kiềm chế,thói quen tốt…
Ơ mọi lúc mọi nơi khi trẻ làm tốt tôi đều động viên khen trẻ bằng những câu nói ”con giỏi lắm,
con lớn rồi đấy,giỏi nên sắp được lên lớp 1 rồi, giúp trẻ hiểu được mình đã lớn. Và có tâm thế
chuẩn bị lên lớp 1.
Khi được nhà trường tổ chức dẫn trẻ đi thăm trường Tiểu Học, tơi tạo bầu khơng khí hứng thú
cho trẻ,khi vào trường giải thích cho trẻ biết các phịng ban ,bàn ghế đồ dùng, sân chơi, các bảng
biểu của trường tiểu học….
Tuyên truyền cho phụ huynh là vấn đề mà tôi quan tâm vì chính phụ huynh là trợ thủ đắc lực
giúp tôi trong vấn đề phối hợp chăm sóc giáo dục các cháu. Tôi thường xuyên trao đổi với phụ
huynh về tình hình học tập của trẻ, vấn đề về ngơn ngữ của trẻ, trẻ đã làm được gì ở lớp, những gì
mà trẻ quan tâm…. Tơi trao đổi cho phụ huynh hiểu và ủng hộ những gì mà tơi đã chuẩn bị cho
trẻ khi vào lớp 1.
Nói tóm lại
Chuẩn bị cho trẻ vào học phổ thông được đặt ra một cách nghiêm túc và khoa học đối với mỗi
giáo viên Mầm Non,và trong tất cả mọi hoạt động sinh hoạt của trẻ trong trường Mẫu Giáo đều

có thể là bước chuẩn bị cho trẻ vào học phổ thông. Nhưng chuẩn bị như thế nào để đạt được hiệu
quả cao nhất? Đó là vấn đề quan trọng mà bất cứ ai làm công tác giáo dục đều phải chú ý tới.
Tôi mong muốn các giáo và các bạn góp ý cho “kế hoạch chuẩn bị cho trẻ học phổ thông của
tôi” để bài sáng kiến này có thể là một kinh nghiệm nhỏ cho sinh viên tham khảo.

IV. Một số biện pháp rèn phát âm chữ L – N cho trẻ 5 tuổi
ĐỖ THỊ LƯƠNG HUỆ
Trường Mầm non Đằng Hải – Quận Hải An – Hải Phòng
Trong khi dạy trẻ 5 tuổi phát âm đúng, chúng tôi đã gặp nhiều khó
khăn. Ngun nhân chính lá do bộ máy phát âm của trẻ ở độ tuổi này chưa
hoàn thiện. bên cạnh cịn có cả ngun nhân do người lớn phát âm sai nên trẻ
bắt trước theo. đặc biệt khi dạy trẻ phát âm hai phụ âm L – N, tôi nhận thấy
trẻ rất khó nhận biết, hay lẫn lộn nên phát âm thường sai. Để khắc phục
những khó khăn trên tơi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Rèn phát âm
chữ cái L – N cho trẻ 5 tuổi” và đã tìm ra một số biện pháp cụ thể như sau:
Biện pháp 1: Tự rèn luyện phát âm chuẩn xác phụ âm L – N

8


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

Muốn cho trẻ phát âm đúng, trước tên cô giáo phải là người phát âm
chuẩn xác. Do ảnh hưởng của Thổ ngữ tôi đã phát âm không chuẩn phụ âm L
– N nên đã tự rèn luyện phát âm cho mình như sau:
Tơi đã nghiên cứu tài liệu hướng dẫn cách phát âm 2 phụ âm đầu L – N
biết được cấu tạo đặc điểm và cơ chế phát âm của 2 phụ âm L – N, sau đó tôi
tập phát âm hàng ngày vào những thời gian rảnh rỗi bằng cách đọc đi đọc lại
nhiều lần những bài thơ, câu chuyện, bài đồng dao, ca dao… có nhiều phụ âm
L – N.

Bên cạnh đó tơi làm những bài tập trắc nghiệm điền các phụ âm L – N,
các từ, câu có chứa phụ âm L – N từ dễ đến khó hoặc tự tìm ra những ví dụ
khác để làm phong phú nội dung luyện tập phát âm L - N cho mình.
Khi giao tiếp với mọi người, tôi luôn tự ý thức đến cách phát âm L – N
để sửa sai. để kiểm nghiệm và thiết thực cho việc rèn phát âm của mình tơi
tham gia gia tích cực cuộc thi “Nói và viết đúng tiếng Việt” do nhà trường tổ
chức.
Sau 1 thời gian luyện tập tích cực tơi đã phát âm chuẩn xác, rõ ràng, có
âm điệu làm tăng hiệu quả bài giảng và tự tin, mạch lạc trong giao tiếp với
mọi người cũng như khi giao tiếp với trẻ.
Biện pháp 2: Sửa sai lỗi phát âm phụ âm L – N thông qua hoạt động chung
cho trẻ làm quen với chữ cái,
Hoạt động chung là hoạt động giáo viên chuẩn hóa, chính xác hóa kiến
thức cho trẻ thu nhận từ nhiều nguồn tin khác nhau. Với hoạt động “với hoạt
động làm quen với chữ cái L – N”, tôi chuẩn bị rất kỹ và xác định đây là hoạt
động chính giúp trẻ nhận thức đúng về cách phát âm. Tôi hướng dẫn luyện
cách phát âm cho trẻ như sau:
Khi đọc mẫu tôi cố gắng đọc to, rõ ràng âm thật chuẩn để trẻ nghe rõ
cách đọc, đồng thời tôi nêu rõ cách phát âm chữ L – N cho trẻ hiểu.
- L: Đọc cong lưỡi, đầu lưỡi uốn vào trong và đưa sát vào lợi trên.
- N: Đọc thẳng lưỡi, lưỡi sát với lưỡi dưới.
Song nếu cơ chỉ nêu và phát âm thì trẻ chưa thể hình dung được mà mà
tơi cho trẻ luyện đọc nhiều lần từng phụ âm với nhiều cách khác nhau. Trước
tiên tôi cho trẻ cùng đọc đồng thanh vài lần, sau đó gọi cá nhân trẻ đọc. Để dễ
theo dõi cách phát âm và kịp thời sửa ngay cho trẻ tơi đứng đối diện với trẻ
u cầu trẻ nhìn khn miệng và nghe tơi phát âm sau đó phát âm lại nhiều
lần.
Ví dụ: Cháu Đạt, Tiến, Tồn, Duy, Hải Anh… được cô gọi thường
xuyên, cô đọc trước trẻ đọc sau, đọc đi, đọc lại, cô sửa để trẻ nhớ về và biết
cách đọc.

9


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

Qua hoạt đồng với từng cá nhân, có một số trẻ phát âm đúng ngay, song
còn một số trẻ đọc sai tôi tiếp tục rèn luyện cho trẻ. Để trẻ phát âm một cách
tự nhiên, đọc chữ nhiều lần không thấy chán nản và mệt mỏi tôi tổ chức cho
trẻ tham gia các trò chơi hoạt động.
Trò chơi: Ai đúng
Cho trẻ đọc bài thơ có nhiều chữ L – N do tôi sáng tác, chọn đúng chữ
cái để đọc nhiều lần:
Là lá la la
Chúng ta cùng đếm
Bạn cố nhanh lên
Tìm ngay chữ này
u cầu trẻ khi nghe cơ phát âm “L” hoặc “N” trẻ chọn đúng giơ lên, đọc to,
các cháu ngồi cạnh phát hiện, kiểm tra lẫn nhau và tự sửa sai. Với trò chơi này
trẻ vừa nhận biết và phát âm đúng chữ L – N, đồng thời phát âm chuẩn các từ
có chứa chữ cái L – N trong bài thơ.
Trị chơi: Tìm chữ
Tơi chuẩn bị những bài thơ do tôi sáng tác hoặc sưu tầm viết chữ to có nhiều
từ chứa chữ cái L – N. Tôi yêu cầu trẻ đọc thuộc bài thơ theo cô và gạch chân
những chữ cái vừa học.
Là lá la la
Em là bé giỏi
Em là bé ngoan
Ngày giúp mẹ chăm làm
Lau nhà, múc nước
Tưới vườn na xanh

Hoặc:
Mẹ đi làm về
Thấy đầu chum nước
Hoa na thơm nức
Quả na non xanh
Lủng lẳng trên cành
Mẹ cười vui vẻ
Nhà lau sạch sẽ
Con đến là ngoan
Ngồi ra tơi cịn tổ chức các trị chơi khác như trị chơi tìm nhà đọc chữ,
thả bóng đọc chữ, đá bóng đọc chữ, quà tặng cho bạn có tên phụ âm đầu là L –
N (tặng cái làn cho bạn Lan, tặng quả táo cho bạn Nam …) hoặc trò chơi hát
đối, đọc chữ … tùy thuộc vào mức độ hứng thú hoạt động của trẻ.
10


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

Với những trị chơi như vậy, tơi thấy trẻ học rất vui, thoải mái, nhẹ
nhàng và được khắc sâu cách phát âm đúng chữ cái L – N.
Chính vì vậy, trong hoạt động làm quen chữ L – N, số trẻ phát âm đúng
đã tăng, song để trẻ nhớ lâu, phát âm không sai khi 2 phụ âm nằm trong các
từ tôi tiếp tục rèn trẻ ở các hoạt động khác.
Biện pháp 3: Rèn trẻ phát âm chữ cái L – N thông qua các hoạt động khác
Hoạt động chung
Như chúng ta đã biết trẻ dễ nhớ nhưng cũng mau qn, vì vậy cơ giáo
phải ln ln tạo ra những tình huống hợp lý nhằm giúp trẻ ơn luyện thường
xun. Một trong những tình huống cơ có thể tạo ra một cách tự nhiên và đạt
hiệu quả là lồng ghép chữ L – N vào trong các hoạt động chung khác.
- Ở hoạt động giáo dục âm nhạc:

Tôi không chỉ dạy trẻ hát đúng nhạc rõ lời mà rất chú ý dạy trẻ hát
chuẩn các từ. Khi trẻ hát, có những lúc tơi cho trẻ hát khơng có nhạc đệm để
sửa cao độ, trường độ của bài hát, đồng thời sửa lỗi phát âm cho trẻ, đặc biệt
với những bài hát có nhiều câu, từ có phụ âm đầu L – N.
Ví dụ: Bái “ Thật lá hay” có câu: “li lí li, lí lì li…”
Bài “Mùa xn đến rồi” có câu: “Sáng hơm nay trời đã nắng lên rồi”
Bài “Bác đưa thư vui tính” có đoạn “… cầm lá thư, nói cảm ơn này em
bé ngoan cầm ngay lá thư…”.
Bài “Vườn trường mùa thu” câu: “là la la, lá la la…”.
Trong hoạt động cho trẻ làm quen với văn học, tôi quan tâm đến giọng
đọc, giọng kể của trẻ, phát hiện cách phát âm sai của trẻ để sửa, tơi thường
chú ý tới những bài thơ có nhiều phụ âm L – N như:
“Đàn lợn đã được ăn
Cơm nước nấu tinh tươm
“Rồi hôm lấy nàng tiên
Không cho chui vào nữa
“Này chú gà nâu
Này chú vịt bầu…”
- Ở hoạt động thể dục vận động:
Tôi sửa cách phát âm cho trẻ bằng cách dán chữ cái L – N cho trẻ phát
âm kết hợp vận động qua các bài tập vận động với bóng như: chuyền bóng
bên phải, bên trái, lăn bóng theo đường dích dắc, tung bóng, bắt bóng…
Hay bài tập bật nhảy: bật qua 4 – 5 vòng, bật tách chân tôi viết chữ vào
các ô để trẻ vừa bật nhảy vừa kết hợp đọc chữ.
Ngồi ra tơi còn tập trung nhiều cơ hội sửa lỗi phát âm 2 phụ âm L – N
cho trẻ vào các hoạt động khác như: hoạt động tạo hình, hoạt động với
MTXQ, làm quen với một số biểu tượng về toán.
11



25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

Tuy nhiên để sửa “ngọng” cho trẻ không chỉ chú ý đến hoạt động học
tập khác trong này, trẻ ln cần có sự quan tâm của cơ.
Hoạt động ở mọi lúc mọi nơi
Trong hoạt động ngoài trời khi quan sát những sự vật hiện tượng xung
quanh, trẻ có những cảm nhận rất tự nhiên về đặc điểm, màu sắc của sự vật
hiện tượng (cái lá này màu nâu, hoặc nụ hoa này chưa nở…) trẻ nói những
nhận xét và cảm nhận của mình. Thơng qua sự bộc lộ ngơn ngữ này tơi sửa
ngay cho trẻ nếu trẻ nói chưa đúng.
Hoặc giao tiếp giữa các cháu với nhau, khi trẻ gọi tên bạn hay nói
chuyện với bạn tơi chú ý lắng nghe trẻ nói, nếu sai tơi u cầu trẻ nhắc lại câu
trẻ vừa nói và chậm rãi nói lại từng từ, khuyến khích trẻ nói theo.
Càng gần gũi với trẻ thì việc luyện phát âm cho trẻ càng thuận lợi hơn,
ngay trong giờ đón trẻ hay trả trẻ tơi thường tổ chức chơi trị chơi dân gian có
lời như: Nhảy lò cò, nu na nu nống, thả đỉa ba ba, kiếm chúa na… trong thời
gian ngắn giữa các hoạt động tôi thường dạy trẻ đọc một số bài ca dao, đồng
giao hoặc một số bài thơ do tôi sưu tầm và sáng tác có chứa phụ âm L – N.
Kết hợp với phụ huynh sửa lỗi cho trẻ
Ngay từ đầu năm học tơi đã có kế hoạch cùng bàn bạc và thảo luận với
phụ huynh nêu ra cách đọc một số chữ khó, đặc biệt là chữ L – N để phụ
huynh nắm bắt được, từ đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho trẻ khi ở nhà.
Với một số trẻ các biệt về phát âm, tôi gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và
động viên họ nên chọn mua những quyển truyện tranh trong có lời đối thoại
nhiều phụ âm L – N và dành thời gian đọc, kể cho trẻ nghe, dạy trẻ kể lại
chuyện. Động viên phụ hynh mua những băng, đĩa hát của nhà văn hóa thiếu
nhi Hà Nội hay của Vụ giáo dục Mầm non cho trẻ nghe và hát theo. Ngồi ra
tơi còn nhắc nhở phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của
mọi người trong gia đình , giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của
người thân trong gia đình là mơi trường giáo dục trẻ khi ở nhà. Như vậy việc

phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo mơi trường phát âm chuẩn mực
giúp trẻ ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng phụ âm L – N.
Biện pháp 4: Khuyến khích trẻ tự phát hiện và sửa lỗi phát âm cho nhau:
Để hình thành thói quen này,tơi ln gần gũi, giao tiếp với trẻ, yêu cầu
trẻ chú ý lắng nghe, phát hiện chính bản thân và các bạn, tơi kịp thời động
viên các những cháu có ý thức phát âm đúng, đồng thời khích lệ các cháu phát
hiện lỗi phát âm của các bạn khác, nhắc nhở bạn sửa ngay.
Ví dụ: Cho trẻ đọc bài thơ “Giữa vịng gió thơm” có câu
“Này chú gà nâu…
Này chị vịt bầu…”
Khi phát hiện có 1 số trẻ đọc sai phụ âm L – N tôi yêu cầu trẻ đọc lại và
hỏi trẻ đọc như thế đã đúng chưa. Tại sao chưa đúng? Đọc như thế nào là
12


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

đúng? Tôi cho trẻ đọc chuẩn đọc lại và cho các bạn nhận xét cách phát âm của
bạn mình. Với nhiều lần làm như vậy tôi đã giúp trẻ có thể tự phát hiện lỗi
phát âm của mình và các bạn trong lớp.
Qua một thời gian thực hiện và theo dõi tơi nhận thấy những biện pháp
trên rất có hiệu quả, học sinh lớp tơi có chuyển biến rõ rệt, đặc biệt số cháu đã
phát âm chuẩn và biết pháp hiện các bạn torng lớp pháp âm chưa đúng tăng
lên. Qua khảo sát kết quả đạt được như sau: (xem bảng thống kết qua khảo
sát).
Kết quả khảo sát
Trước khi
Sau khi thực
Nội dung
thực hiện các hiện các biện

So sánh
biện pháp
pháp
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
trẻ
trẻ
Số trẻ phát âm nhầm 5/35 14,29% 2/35 5,72%
Giảm
lẫn 2 phụ âm L - N
8,57%
Số trẻ phát âm sai phụ 6/35/ 17,14
3/35 8,57%
Giảm
âm N
%
8,57%
Số trẻ phát âm sai phụ 20/3
57,14
3/35 8,57%
Giảm
âm L
5
%
48,57%
Số trẻ phát âm đúng 2 4/35
11,43 27/35 77,14%
Giảm

phụ âm L - N
%
65,71%
Bài học kinh nghiệm
1. Cô giáo ln có ý thức rèn luyện, thường xun tham khảo các tài liệu
chun sau, các giáo trình “ngơn ngữ tiếng Việt” ln chú trọng tới lời nói khi
giao tiếp với trẻ, với mọi người, ở mọi lúc mọi nơi.
2. Cô giáo phải gần gũi với trẻ, nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ, quan tâm chú trọng tới lời nói của trẻ trong các hoạt động cũng như khi
giao tiếp với bạn, với cô và với mọi người đèn rèn luyện uốn nắm trẻ kịp thời.
3. Cô linh hoạt sáng tạo và biết tận dụng mọi cơ hội tìm ra những biện
pháp hữu hiệu nhất để sửa ngọng cho trẻ, giúp trẻ dễ nhớ.
4. Biết kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tuyên truyền vận động phụ huynh tham gia rèn
luyện cách phát âm cho trẻ có kết quả tốt.

V. Biện pháp tạo hứng thú cho trẻ khám phá khoa học
Sở Giáo Dục và Đào Tạo Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Mầm Non BCTH 19/5 – Quận 1
Giáo viên: Hoàng Thị Ngọc Trâm
Lớp: Chồi 2
13


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Khi nghe nói đến “ Trẻ mầm non Khám Phá Khoa Học”, mọi người đều rất ngạc nhiên và tự
hỏi: “ Trẻ mầm non chứ có phải là cấp II, cấp III hay Đại học đâu mà Khám phá khoa học? ” Bản
thân tôi lúc đầu cũng nghĩ như vậy nhưng sau khi tham khảo một số tài liệu nói về “ Khám phá
khoa học” và dự giờ một vài hoạt động khoa học của khối Lá, tơi tự đặt câu hỏi: “ Tại sao mình
khơng lấy những thí nghiệm từ các tài liệu nhưng phải tìm hiểu kỹ xem đề tài nào phù hợp với trẻ

và những kỹ năng, thao tác thử nghiệm nào phù hợp với trẻ lớp mình và tạo thành các hoạt động
khám phá khoa học cho trẻ Mẫu Giáo?”
Những suy nghĩ, câu hỏi đó cịn làm tơi trăn trở và cuối cùng tơi đã tìm ra một số hoạt động để
tơi và các cháu cùng tham gia thí nghiệm, cùng chơi, cũng trải nghiệm và kết quả là các cháu
thích học, tiết học vô cùng sinh động và đặc biệt các cháu tự tìm ra. Tự khám phá ra kết quả mà
các cháu vừa được thí nghiệm. Qua sự thành cơng này đối với lớp, tơi xin trình bày một số biện
pháp, biện pháp khi tổ chức cho trẻ khám phá khoa học để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Được trực tiếp làm thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là một điều thích thú đối với
trẻ. Thật vậy, cứ để cho cháu được hoạt động, được trải nghiệm, được thử - sai và cuối cùng cháu
tìm ra một kết quả nào đó sẽ là một điều lý thú đối với trẻ.
Thí nghiệm 1: Dạy về khơng khí
Đầu tiên cơ cho trẻ chơi các trị chơi nhỏ:
Trò chơi 1: “ Bịt mũi”
Cho trẻ bịt mũi, hỏi trẻ có thở được không? → không thở được
Vậy làm thế nào để thở được? → thả tay ra, thở được
Cho cháu đứng vào chổ cô quy định, hỏi cháu: THỞ ĐƯỢC KHÔNG?
Cho cháu đứng góc khác cùng vài bạn nữa, hỏi cháu: THỞ ĐƯỢC KHÔNG?
Cho cháu đứng tự do trong lớp, hỏi cháu: THỞ ĐƯỢC KHƠNG?
Lúc này tơi mới đặt vấn đề: Chúng ta thở được là nhờ có khơng khí, vậy KHƠNG KHÍ CĨ Ở
ĐÂU? → Khơng khí ở xung quanh chúng ta.
Tơi kết luận: NHƯ VẬY KHƠNG KHÍ CĨ Ở XUNG QUANH CHÚNG TA.
Tơi tiếp tục đặt tình huống: THẾ KHƠNG KHÍ CĨ BẮT ĐƯỢC KHƠNG? → Có cháu nói
được có cháu nói không.
Tôi hỏi tiếp: LÀM CÁCH NÀO ĐỂ BẮT ĐƯỢC KHƠNG KHÍ? → Lúc này các cháu đưa ra
rất nhiều ý kiến: lấy ly, lấy chai, lấy lon, lấy hộp,… để bắt khơng khí.
Tơi phát cho mỗi cháu một cái túi nilon và yêu cầu: “ Hãy lấy và bắt khơng khí vào túi” → mỗi
cháu đã thực hiện một cách khác nhau: nắm bắt khơng khí xung quanh bỏ vào túi, với khơng khí
cho vào túi…. Nhưng các cháu vẫn chưa thấy gì trong túi.
Tôi tiếp tục gợi ý: “ Các con hãy làm cách nào để túi phồng to lên đi ” → Cháu phát hiện là

mình phải thổi hơi vào túi và muốn giữ hơi trong túi thì phải xoắn hay cột túi lại.
Sau đó tơi giải thích: : KHƠNG KHÍ ĐANG Ở TRONG TÚI CỦA CÁC CON ĐẤY”.
Tiếp theo tôi cho các cháu chơi với túi khơng khí….
Ví dụ: Lấy kéo cắt túi để thấy khơng khí xì ra, lấy cây nhọn đâm nhẹ sẽ thấy hơi thoát → đó là
khơng khí.
Tiết học sơi động và vui hẳn lên, các cháu biết thêm là: Khơng khí ln ln ở bên cạnh con
người, con người phải có khơng khí thì mới sống, mới thở được….
Thí nghiệm : Trứng chìm – Trứng nổi
Tơi cho cháu làm thí nghiệm: đổ muối vào hai ly nước, lượng nước hai ly bằng nhau, riêng
lượng muối thì khác nhau, khuấy đều sẽ thấy trứng có quả sẽ nổi, quả chìm…
Trẻ thực hiện: bỏ trứng vào hai ly nước
14


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
Ly A trứng nổi, ly B trứng chìm
→ Cho cháu tìm ra nguyên nhân. Thử ly nước A sao thấy mặn quá, thử ly nước B không mặn
bằng hoặc bạn đổ vào ly A bao nhiêu muỗng muối, đổ vào ly B bao nhiêu muỗng muối….
Từ đó cháu suy ra: vì ly B ít muối nên trứng khơng thể nổi lên được. Muốn trứng nổi lên phải
làm gì? (Cháu thỏa thuận với nhóm là phải thêm muối vào ly B…)
→ Vậy trứng ở trong nước muối có nổi được khơng? Trứng cịn nổi được ở đâu nữa khơng?
→ Mở rộng: nước đường, dầu ăn….→ tiếp tục cho trẻ khám phá.
Mỗi khi cháu khám phá ra điều gì, ta cho cháu ghi kết quả bằng kí hiệu mà cơ và cháu đã thỏa
thuận để dễ kiểm tra. Khi thí nghiệm thành công, tôi thấy trên khuôn mặt các cháu lộ rõ vẻ thích
thú, phấn khởi vơ cùng và có những nhóm đã reo hò ầm ĩ. Với tiết học này tôi thấy vui và các
cháu thực sự chủ động khi làm cơng việc thí nghiệm. Lại thêm một lần nữa tơi đã tác động vào
các cháu tính tự tin, tự lập, tự suy nghĩ, tự tìm ra kết quả nhanh nhất để hồn thành cơng việc
mình đang làm.
Đối với tơi, tôi đã áp dụng nhiều vào tiết học của cháu về những đề tài khám phá khoa học và
tất cả đều được sự hưởng ứng nhiệt tình, say mê của cách cháu. Tơi đã tự tin hơn khi tìm các đề

tài cho trẻ sau này như:
Nhanh chậm
Thấm mau
Đổi màu
Đã được tôi đưa vào dạy và đạt kết quả cao, phụ huynh cũng đã đến kể cho tôi nghe về những
thành quả cháu đã thí nghiệm ở nhà như: hoa đổi màu, nhuộm quả…
Tôi thật sự phấn khởi với những phương pháp, biện pháp khi cho chúa thí nghiệm và điều tơi
thích nhất là các cháu mang về nhà làm thí nghiệm cho bố mẹ xem
KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Thông qua một số hoạt động khoa học đó, tôi đã tạo cho trẻ:
Sự hứng thú, tị mị, thích khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh.
Hình thành cho trẻ 1 số kỹ năng, thao tác thử nghiệm trong góc khoa học.
Trẻ ngày càng có kỹ năng quan sát tốt, biết suy đốn, phán đốn nhằm tìm ra một kết quả chính
xác.
Khơng chỉ khám phá trong góc khoa học hoặc trong các hoạt động khoa học mà cháu còn khám
phá, áp dụng và phát hiện được rất nhiều điều qua các môn học khác.
Đây là những phương pháp, biện pháp mà tôi đã dạy trẻ khi lên chuyên đề “ Khám phá khoa
học” và ngày hôm tôi xin mạn phép đưa ra những kinh nghiệm dạy trẻ về đề tài “ Biện pháp tạo
hứng thú cho trẻ khám phá khoa học” để các bạn cùng tham khảo và có những phương pháp, biện
pháp dạy cháu hay hơn và đạt hiệu quả tốt.

VI. Làm thế nào để góc Âm nhạc lôi cuốn và hấp dẫn trẻ?
Lê Thị Hoàng Trang
Viêêc thực hiêên chương trình đổi mới , tạo điều kiêên cho giáo viên linh hoạt, sáng tạo trong viêêc xác
định, lựa chọn và tổ chức các hoạt đôêng giáo dục cho trẻ. Bên cạnh đó còn khuyến khích giáo viên lựa
chọn, vâên dụng các phương pháp khác nhau môêt cách sáng tạo nhằm phát huy tính tích cực của trẻ, tạo
điều kiêên cho trẻ thể hiêên những ý tưởng của mình. Viêêc đổi mới hình thức và phương pháp dạy học liên
quan đến các tổ chức các góc hoạt đôêng trong đó có góc âm nhạc nhằm tạo điều kiêên cho trẻ được học
và chơi theo ý thích, thúc đẩy hoạt đôêng của các nhân hay nhóm trẻ.
Góc âm nhạc là nơi trẻ có điều kiêên để thể hiêên khả năng âm nhạc của mình, trẻ có thể làm quen, ôn

luyêên , củng cố và vâên dụng phát triển những kỹ năng âm nhạc qua các trò chơi, các họat đôêng sáng tạo
làm phát triển khả năng sáng tạo của trẻ. Tại đây, trẻ tự hát hay tự vâên đôêng theo nhạc, biểu diễn môêt

15


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
mình hay môêt nhóm trẻ môêt cách thích thú và sáng tạo. Vì thế góc âm nhạc sẽ làm phát triển môêt số kỹ
năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiêên cảm xúc, kỹ năng thẩm mỹ, kỹ năng nhâên thức, đồng thời
giúp trẻ bước đầu làm quen với nền văn hóa dân tôêc thông qua các nhạc cụ như: đàn T’rưng, đàn tranh...
Ngoài ra góc âm nhạc góp phần làm cho chế đôê sinh hoạt trong ngày linh hoạt, mềm dẻo, trẻ bớt căng
thẳng vì trẻ có thể chơi, nghe nhạc... và thể hiêên những ý thích của mình. Cũng nên chú ý rằng tại góc
này giáo viên có thể luyêên tâêp riêng cho môêt số trẻ có năng khiếu các tiết mục minh họa để làm mẫu ở
hoạt đôêng chung hay chuẩn bị cho các chương trình biểu diễn văn nghêê của lớp , trường.
Góc âm nhạc có ý nghĩ quan trọng như vâêy,làm thế nào nơi đây thâêt sự lôi cuốn và hấp dẫn trẻ?
Tốt nhất góc âm nhạc không nên cố định, các kêê đóng sao cho vừa tầm trẻ khi sử dụng, nên có bánh
xe đẩy, để vào những ngày đẹp trời, trẻ có thể đẩy ra sân rôêng, thoáng mát, trẻ có thể sử dụng những
mảnh vải, dây thừng giấy...sáng tạo làm ra môêt khoảng không gian riêng theo ý trẻ để sinh hoạt: vui chơi,
biểu diễn văn nghêê....Ngoài những dụng cụ mua sắm như hoa vải, hoa nhựa, phách tre, trống lắc...Giáo
viên cần cung cấp nhiều nguồn âm thanh: các loại lon, thùng thiếc, thùng giấy chứa đâ êu, hôêt hạt, gạo, các
loại đá, các dụng cụ nhà bếp, khối gỗ, chén bằng sành. Có thể để giấy báo hay những loại giây phế liê êu
có kích cỡ lớn, tạo điều kiêên cho trẻ sáng tạo ra các kiểu áo váy... theo ý tưởng các nhân, phục vụ chơi
vũ hôêi hóa trang, nhảy múa tự do. Giáo viên cần sưu tầm thể hiêên phong phú các thể loại băng nhạc thiếu
nhi, mầm non, dân ca, nhạc cổ điển... các loại nhạc cụ dân tôêc. Nếu có điều kiêên dùng đàn thâêt hay có
thể sử dụng mô hình, tranh cho trẻ quan sát. Ngoài ra cần có môêt số đồ dùng khuyến khích trẻ sáng tạo
trong vâên đôêng theo nhạc như: khăn choàng, cờ đuôi nheo, vòng đeo tay, chân, những con búp bê bằng
vải hay thú nhồi bông làm bạn nhảy cùng trẻ. Tất cả những đồ dùng, đồ chơi trên đều phải ở trạng thái
mở, trẻ dễ dàng lấy và sử dụng.
Khi bố trí góc âm nhạc cần chú ý sao cho ở nơi đó tiếng ồn ào trẻ tạo ra tại góc không ảnh hưởng, làm
phiền đến những hoạt đôêng yên tĩnh ở góc khác.

Để kích thích tính tò mò, ham hiểu biết lôi cuốn trẻ vào góc chơi âm nhạc, giáo viên phải chú ý thay đổi
chất liêêu, những thiết bị tạo âm thanh khác nhau định kỳ, tạo điều kiêên cho trẻ sử dụng tối đa.
Ví dụ: Cái nắp xoong, úp xuống ta sẽ đánh âm thanh khác so với khi ta ngửa ra, hay đánh trên đỉnh âm
thanh khác với khi ta đánh để ngửa nắp.
Khi trẻ khai thác hết, chơi liên tục, trẻ cảm thấy chán, giáo viên phải thay đổi ngay. Dùng lời kích thích
trẻ : “Hôm nay góc âm nhạc có đồ dùng đồ chơi mới, các con hãy đến thử xem”. Mỗi lần nên thay đổi 3-4
đồ dùng, đồ chơi. Giáo viên khuyến khích trẻ trải nghiêêm, tìm tòi, khám phá những đồ dùng đồ chơi mới.
Ví dụ như dưới sự giúp đỡ của cô trong quá trình trẻ chơi, trẻ tự phát hiê n ra âm thanh của chén sành
ê
chén sứ khi chứa lượng nước khác nhau,thì các chén tạo ra âm thanh khác nhau. Giáo viên gợi ý cho trẻ
biết phối hợp những đồ dùng đồ chơi cũ với đồ dùng đồ chơi mới, gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Để gõ đêêm cho môêt bài hát, gợi ý trẻ sử dụng trống lắc, phách trẻ kết hợp với viêêc sử dụng đũa gõ
những ly thủy tinh có lượng nước khác nhau tạo ra môêt tổ hợp âm thanh hài hòa, rất hay. Trong quá trình
trẻ chơi tại góc âm nhạc, giáo viên có thể tâên dụng để giới thiêêu cho môêt số đàn dân tôêc trẻ biết. Ví dụ về
đàn tranh, sau khi cô giới thiêêu chọn tiếng đàn tranh trong đàn organ, cô đàn cho trẻ nghe môêt bài hát
quen thuôêc giúp trẻ dễ cảm thụ. Nếu giáo viên dùng đàn tranh đàn cho trẻ nghe thì hiê u quả càng cao.
ê
Tại góc âm nhạc, giáo viên cũng nên chú ý tạo điều kiêên cho trẻ thể hiêên những ý tưởng, mong muốn
của trẻ, đăêc biêêt phát huy tác dụng của trẻ hỗ trợ nhau, liên kết với nhau tổ chức các hoạt đôêng mang
tính nghêê thuâêt. Khuyến khích trẻ tự làm hay gió viên cùng trẻ trang trí môêt số đồ dùng đồ chơi để vỗ hay
gõ đêêm bài hát nhằm gây hứng thú cho trẻ khi sử dụng. Có thể cho trẻ phối hợp chơi với nhóm tạo hình
trang trí váy áo làm măêt nạ hóa trang....Trẻ vô cùng sung sướng khi được sử dụng đồ dùng do chính trẻ
tạo ra, để thực hiêên các hoạt đôêng âm nhạc.
Hy vọng rằng môêt số biêên pháp gợi ý nêu trên sẽ giúp giáo viên mầm non xây dựng được những góc
âm nhạc có sức lôi cuốn hấp dẫn trẻ.
( KHGDMN)

VII. Yêu cầu chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi sẵn sàng
vào lớp 1
Qua khảo sát học sinh đầu vào lớp 1 ở Long An

Theo Luật Giáo dục, Giáo dục mầm non có mục tiêu hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách cho trẻ mầm non và chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Kết quả chăm sóc, giáo dục của trường
16


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
mẫu giáo sẽ được phản ánh khi trẻ vào lớp 1 tiểu học và rõ nét nhất ở giai đoạn đầu lớp 1. Nghiên
cứu phân tích, đánh giá khả năng của học sinh đầu lớp 1 qua các lĩnh vực: phát triển nhận thức,
phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã hội sẽ giúp chúng ta có cơ sở đề xuất những biện pháp
tác động đến 3 môi trường giáo dục (nhà trường, gia đình, xã hội) nhằm nâng cao hơn nữa kết
quả chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi vào lớp 1; đáp ứng tốt mục tiêu giáo dục tiểu học mới
theo tinh thần Nghị quyết 40/QH của Quốc hội về đổi mới chương trình GD phổ thơng; đồng thời
góp thần làm rõ mối quan hệ liên thông giữa mục tiêu GD mầm non với mục tiêu GD tiểu học
cũng như vai trò của GD mầm non với GD tiểu học theo tinh thần Luật Giáo dục 2005
Với mục đích, ý nghĩa nói trên, đầu năm học 2004 – 2005, chúng tôi đã tiến hành cuộc
khảo sát học sinh đầu vào lớp 1. Cuộc khảo sát được thiện trên 350 học sinh đầu lớp 1, được chọn
ngẫu nhiên ở 7 trường tiểu học thuộc các vùng miền khác nhau trong tỉnh Long An. (bảng 1)
Tại các trường tiểu học tham gia đợt khảo sát, 350 học sinh được chọn trả lờ phỏng vấn
10 câu hỏi chính thức (một số câu hỏi có kết hợp với quan sát tranh) và một số câu hỏi phụ (bảng
2)
Kết quả khảo sát như sau:
Bảng 1: Thống kê kết quả chung
Kết quả

Chưa đạt yêu cầu
(đứng dưới 50%)
Số lượng
33
29
26

30
31
26
30
205

Trường TH
TH Khánh Hậu
TH Võ Thị Sáu
TH Tân Phước Tây
TH Lạ Tấn
TH Nhị Thành A
TH Mai Thị Non
TH TT Tân Hạnh
Cộng

Tỉ lệ
66
58
52
60
62
52
60
58,6

Nhận xét (bảng 1)
- Có đến 58,6% học sinh chưa đạt yêu cầu, chỉ có 41,4% học sinh đạt yêu cầu
Nhận xét từng trường tiểu học
- Cá trường TH Khánh hậu (vùng ven Thị Xã), Thị trấn Tâm Thạnh (Thị trấn của huyện vùng

sâu), TH Nhị Thành, TH Lạn Tấn (vùng nông thôn) có tỉ lệ học sinh chưa đạt yêu cầu từ 60% đến
66% (TH Khánh hậu cao nhất là 66%)
- TH Mai Thị Non và TH Tân Phước Tây có số học sinh chưa đạt ít nhất (52%) nhưng cũng còn ở
mức cao (trên 50%)
- Trường TH Võ Thị Sáu tuy là trường ở trung tâm Thị xã tân An nhưng cũng có số học sinh
chưa đạt yêu cầu ở mức cao (58%)
Bảng 2: Thống kê số lượt trả lời đúng theo nhóm khả năng
TH
Khánh
Hậu

17

TH

Thị
Sáu

TH Tân TH
Phước Lạ
Tây
Tấn

TH
Nhị
Thành

TH
Mai
Thị

Non

TH TT Cộng
Tân
Hạnh


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
1. Khả năng quan sát, so
sánh, phán đoán
2. Khả năng diễn đạt ý
muốn, cảm xúc, ý nghĩa
bằng lời nói
3.Quan tâm, giúp đỡ, chi
sẻ, hợp tác
4. Nghe hiểu lời nói
trong giao tiếp (*)
(qua tất cả các câu hỏi)
5.Mạnh dạn, hồn hniên,
tự tin, lễ phép (**)
(qua tất cả các câu hỏi)

31
(31%)
32
(32%)
49
(49%)
34
(34%)

30
(30%)

46
(46%)
45
(45%)

55
(55%)
53
(53%)

32
(32%)
33
(33%)

32
(32%)
30
(30%)

54
(54%)
54
(54%)

30
(30%)

31
(31%)

280
(40%)
278
(39,7%)

34
(34%)
52
(52%)

50
(50%)
45
(45%)

31
(50%)
33
(33%)

32
(32%)
44
(44%)

35
(35%)

53
(53%)

48
(48%)
43
(43%)

279
(39,9)
304
(43,4%)

32
(32%)

43
(43%)

41
(41%)

53
(53%)

41
(41%)

52
(52%)


292
(41,7%)

Nhận xét (bảng 2)
Ở từng nhóm nội dung, tỉ lệ học sinh đạt yêu cầu từ 39,7% đến 43,4%
Tỉ lệ học sinh “nghe hiểu lời nói trong giao tiếp” đạt 43%,4% và “mạnh dạn, hồn nhiên,
tự tin, lễ phép” chỉ đạt 41,7%. Khả năng “quan sát, so sánh, phán đoán” cũng chỉ có 40% học
sinh được khảo sát đạt yêu cầu.
Nhận xét từng trường tiểu học
Các trường TH Khánh Hậu (TXTA), tiểu học Nhị Thành ( Thủa Thừa) có ít học sinh phát
triển tốt khả năng quan sát, so sánh, phán đoán, TH Tân Phước tây (Tân Trụ), Mai Thị Non (Bến
Lức) có nhiều học sinh phát triển tốt khả năng này
Các trường TH Khánh Hậu, Nhị Thành, tân Thạnh có ít học sinh phát triển tốt khả năng
diễn đạt ý muốn, cảm xúc, ý nghĩa bằng lời nói. Các trường TH Mai Thị Non (Bến Lức) có nhiều
học sinh phát triển tốt khả năng này
Các trường Võ Thị Sáu, Mai Thị Non có1 ít học sinh thể hiện sự quan tâm, chia sẽ, hợp
tác với người thân. Trường TH Tân Thạnh, TH Khánh Hậu, TH Tân Phước Tây có nhiều học
sinh thể hiện sực quan tâm, chia sẻ, hợp tác với người thân
Các trường TH Khánh Hậu và Lạc Tấn có ít học sinh phát triển tốt khả năng nghe hiểu lời
nói trong giao tiếp. Các trường Võ Thị Sáu, Mai Thị Non có nhiều học sinh phát triển tốt khả
năng này
Các trường Võ Thị Sáu, Khánh Hậu có ít học sinh thể hiện sự mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin,
lễ phép. Các trường THTT Tân Thạnh, Nhị Thành có nhiều học sinh bộc lộ rõ các phẩm chất tốt
đẹp này
Nhận xét – đánh giá chung
Tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu chung là 41,4%, tỷ lệ đạt từng nhóm nội dung từ 39,7 – 43,4%. Điều
này cảnh báo việc chuẩn bị cho trẻ sẵn sàng vào lớp 1 ở Long An cịn chưa tốt.
Các trường tiểu học ở nơng thôn, đa số phụ huynh là nông dân có tỷ lệ sai khá cao. Ngược lại, ở
các vùng thị xã, thị trấn, với đa số phụ huynh là công chức, buôn bán, nghề tự do, có kinh tế ổn

định, quan tâm đến việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một có tỷ lệ trả lời sai thấp hơn. Ví dụ: Trường
TH Mai Thị Non và Võ Thị Sáu có tỷ lệ trả lời sai dưới 60%, trường TH Khánh Hậu, vùng nông
thôn ven thị xã Tân An, có tỷ lệ trẻ chưa đạt cao nhất, đến 66%. Như vậy, yếu tố phụ huynh có
tác động lớn đến đến kết quả chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Học sinh các trường tiểu học đạt chuẩn
quốc gia có kết quả tốt hơn các trường còn lại.

18


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm
Thời gian trẻ được chăm sóc, giáo dục ở trẻ mầm non càng dài thì kết quả cho trẻ 5 đến 6 tuổi sẵn
sàng đi học lớp một càng cao.
Giai đọan đầu lớp 1, giáo viên tiểu học phải có phương pháp giảng dạy, giáo dục thích hợp, giúp
trẻ thích nghi với mơi trường giáo dục mới – mơi trường mà trong đó hoạt động học tập phải là
chính (thay vì vui chơi là chính khi trẻ cịn học mẫu giáo). Qua khảo sát cho thấy những lớp 1
trong giai đọan đầu người giáo viên không quá đặt nặng vấn đề học chữ mà quan tâm đến việc
rèn luyện nề nếp học tập, giúp trẻ thích nghi với mơi trường học tập mới thì trẻ nơi đó hồn nhiên,
lễ phép, tự tin và phát triển trí tuệ tốt. Ngược lại, ở những lớp mà giáo viên quan tâm đến việc
dạy chữ, thì trẻ trở nên nhút nhát, thiếu hồn nhiên.
Nhận xét – đánh giá theo các mặt
Nhiều trẻ vào lớp 1 nhưng chưa có thói quen chào hỏi, nói lời cảm ơn trong giao tiếp.
Nhiều trẻ chưa mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin trong giao tiếp.
Nhiều trẻ chưa có khả năng diễn đạt ý muốn, cảm xúc, ý nghĩ bằng lời nói. Đa số trả lời cụt ngủn,
nghèo ý, thiếu lịch sự. Một bộ phận trả lời máy móc, không biểu lộ cảm xúc.
Trẻ vùng nông thôn hồn nhiên, lễ phép biểu lộ tình cảm, quan tâm đến người thân nhung ít mạnh
dạn trong giao tiếp.
Trẻ vùng thị xã, vùng thuận lợi có khả năng quan sát, so sánh, phán đốn tốt nhưng khơng thể
hiện rõ tình cảm, sự quan tâm đến người thân; thiếu suy nghĩ độc lập, có khuynh hướng chông
chờ vào người lớn, khả năng hợp tác kém.
Trường tiểu học có nhiều học sinh qua mẫu giáo 3 năm (TH Võ Thị Sáu, TH Mai Thị Non, TH

Tân Phước Tây) có số học sinh đạt yêu cầu khá hơn .
Ở những lớp mà giáo viên quá nghiêm khắc, hay rầy la, trách phạt trẻ trở nên thụ động, mất tự
tin.
Những trẻ là con cán bộ công chức được chăm lo quá kỹ, cho học trước chương trình lớp 1 có
khuynh hướng khơng hứng thú trong giờ học (vì đã biết rồi!), tụ động chơng chờ vào người khác
(TH Võ Thị Sáu).
Kết luận chung
Kết quả khảo sát cho thấy việc chuẩn bị sẵn sàng đi học cho trẻ 5 – 6 tuổi vào lớo 1 là
quan trọng, chuẩn bị tốt về mặt xã hội sẽ hình thành cho trẻ những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
phát triển trí tuệ, thẩm mỹ và trí tuệ ở tiểu học. Việc chuẩn bị về mặt xã hội cho trẻ chịu ảnh
hưởng của các yếu tố; đặc điểm vùng miền, nghề nghiệp của cha mẹ, hồn cảnh gia đình, và kết
quả giáo dục, chăm sóc trẻ ở mẫu giáo. Nghiên cứu phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực sẽ giúp cho trẻ 5 – 6 tuổi ở tất cả vùng miền, kể cả vùng khó khăn, có kinh
tế chậm phát triển được chuẩn bị tốt về mặt xã hội, tiếp thu tốt chương trình lớp 1 mới.
Bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở kết quả khảo sát, chúng tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Ở mẫu giáo phải xác địng rõ mức độ dạy “chữ” với dạy ”người”. Không biến các chuyên đề “làm
quen chữ cái”, “làm quen với tốn”… thậm chí cịn xem đó là tiệu chí để đánh giá giáo viên, học
sinh mẫu giáo.
Nên đặt vấn đề giáo dục tình cảm cho trẻ. Nội dung giáo dục nên phù hợp với đặc điểm vùng
miền.
Có chương trình MG phù hợp cho trẻ có điều kiện chỉ học 1 năm, 2 năm hoặc 10 tuần. Các
chương trình này phải “độc lập và hòan chỉnh” (tương đối) theo hường chuẩn bị tốt nhất về mặt
xã hội cho trẻ vào lớp 1 (ở bất cứ lọai hình mẫu giáo nào: 1 năm, 2năm, 3 năm hoặc 10 tuần). Các
chưong trình cần quy định cụ thể những nội dung cần kết hợp với gia đình trong việc chuẩn bị
cho trẻ vào lớp 1.
19


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

Giáo dục tiểu học: giai đọan lớp 1, đặc biệt ở giai đoạn đầu lớp 1 không quá đặt nặng vấn đề dạy
“chữ” mà vẫn xem trọng vấn đề giáo dục “đạo đức”, từng bước nâng dần mức độ, yêu cầu dạy
“chữ”.
Về quản lý: Xem trong đặc điểm vùng miền (lưu ý vùng nào cũng có những thuận lợi cũng như
khó khăn riêng), kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục ở mẫu giáo, lưu ý việc chuẩn bị khả năng thích ứng xã hội cho trẻ.
Về giáo viên: Mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục phải phù hợp từng đối tượng học sinh,
không quá chú trọng đến việc giảng dạy mơn Tiếng việt, Tốn ở lớp mẫu giáo và đầu lớp 1 mà
phải chú trong đến việc giáo dục tình cảm, đạo đức cho học sinh. Khơng q nghiêm khắc làm trẻ
mất đi sự hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin.
Về phụ huynh: Không quá chăm sóc làm trẻ có thói quen ỷ lại vào người khác, không có tình
cảm, khơng biết chia sẻ với người thân, dễ trở thành người vơ cảm; nhưng cũng tránh tình trạng
bỏ bê, không quan tâm đến việc học của trẻ ngay từ khi cịn ở tuổi mẫu giáo, làm trẻ phát triển
khơng tốt, đáp ứng được mục tiêu giáo dục mới.

VIII. Một số thí nghiệm khoa học phục vụ mơn MTXQ

GV: PHẠM THỊ THANH BÌNH
( Trường MG TH TW3 )

KHÁM PHÁ VỀ NƯỚC:
CÁC LỚP CHẤT LỎNG
NÚI LỬA DƯỚI NƯỚC
KHÁM VỀ KHƠNG KHÍ:
ĐÈN CẦY CHÁY NHỜ KHÍ GÌ?
KHÁM PHÁ VỀ ÁNH SÁNG
THẢ CÁ VÀO CHẬU
LÀM MỘT CẦU VỒNG
KHÁM PHÁ VỀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG
TRÒ ĐỐ QUẢ TRỨNG QUAY

20


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

*KHÁM PHÁ VỀ NƯỚC:
1.CÁC LỚP CHẤT LỎNG
* MỤC ĐÍCH:
Trẻ biết phân biệt lớp chất lỏng khác nhau : dầu, nước,
siro
Nhận biết lớp siro nặng hơn nước nên chìm xuống
dưới. Lớp dầu nhẹ hơn nước và siro nên nổi lên trên cùng.
Còn lớp nước ở giữa
Nhận biết một số chất liệu: nhựa, gỗ, kim sắt, cao su…
nổi ở lớp chất lỏng nào : nước, siro, dầu để rút ra kết
luận
* CHUẨN BỊ:
1 chai dầu ăn, 1 chai nước, 1 chai siro dâu
3 ly thuỷ tinh, khay
các vật liệu:cao su, sỏi, đồ nhựa, sắt…
các thẻ màu đỏ ,trắng, vàng
* TIẾN HÀNH:
BƯỚC 1:
Cho trẻ quan sát và gọi tên 3 chai chất lỏng: dầu,
nước,siro
Mỗi chất lỏng cô dùng 1 miếng nhựa màu tương ứng với
màu chất lỏng: miếng nhựa đỏ, vàng, trắng
BƯỚC 2:
21



25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

Cho trẻ chọn chất lỏng thứ 1 nào đổ vào ly trước. Và
chọn miếng nhựa có màu tương ứng gắn lên bảng
Cô cho trẻ chọn chất lỏng thứ 2 và đổ vào ly. Và trẻ tự
đốn nó sẽ đứng ở chỗ nào trong cái ly. Chọn thẻ nhựa có
màu tương ứng gắn tiếp lên bảng. Cô cho trẻ quan sát lớp
chất lỏng thứ 2 nó đứng ở vị trí nào trong cái ly có đúng
như dự đốn của trẻ không
Làm tương tự với chất lỏng thứ 3
Cho trẻ quan sát vị trí các lớp chất lỏng ở trong ly để rút
ra kết luận: (lớp siro nặng hơn nứơc nên chìm xuống
dưới cùng. Lớp nứơc nhẹ hơn siro nhưng nặng hơn dầu
nên ở giữa. Lớp trên cùng là lớp dầu vì nhẹ hơn lớp nước
và lớp siro)
BƯỚC 3:
Cho trẻ chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm tự chọn vị trí xếp
thẻ nhựa khác với lúc đầu. Rồi mỗi nhóm sẽ đổ thứ tự các
lớp chất lỏng theo như đã chọn và mang ly chất lỏng
vừa đổ lên cùng quan sát xem các lớp chất lỏng có đứng ở
đúng vị trí đó không?
Trẻ tự rút ra kết luận :dù đổ chất lỏng dù đổ loại nào
trước thì nó vẫn đứng theo thứ tự siro, nước, dầu. Và
trẻ lên gắn lại thứ tự thẻ nhựa theo đúng vị trí các chất
lỏng trong ly
22


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm


*MỞ RỘNG:
Cho trẻ thả một số vật: cao su, nhựa, sỏi, gỗ, sắt… và
quan sát xem nó nổi hoặc chìm ở lớp chất lỏng nào và tự
rút ra kết luận

NÚI LỬA DƯỚI NƯỚC
* MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
Trẻ biết phân biệt nước nóng và lạnh
Nước nóng nhẹ hơn nước lạnh
* CHUẨN BỊ:
2 chai nhỏ trong, 2 sợi dây
1 vại trong lớn đầy nước, 2 lọ màu thực phẩm
* TIẾN HÀNH:
BƯỚC 1:
Cho trẻ quan sát và gọi tên các dụng cụ. Và có thể đốn xem
cơ sẽ làm gì với những dụng cụ này
BƯỚC 2:
Cho trẻ quan sát nứơc nóng và nước lạnh trong 2 ca
nhựa. Cho trẻ phân biệt 2 loại nước trên ( bằng cách: sờ
thành ca hoặc quan sát hơi nước từ ca nước nóng bốc lên,
hoặc đậy nắp 2 ca nhựa khi mở nắp ra, ca nước nóng
sẽ đọng hơi nước trên nắp ca..)
BƯỚC 3:
Cơ cho trẻ quan sát cô làm:
23


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm


Cột sợi dây quanh cổ chai nhỏ. Hỏi trẻ cơ cột như thế
để làm gì?
Cơ đổ nước lạnh vào đầy cái vại trong lớn
Cô đổ đầy nước lạnh vào cái chai nhỏ và nhỏ vào vài giọt
màu thực phẩm
Cho trẻ đốn cơ sẽ làm gì tiếp
Cơ cẩn thận thả chai nhỏ vào cái vại lớn. Cho trẻ quan
sát chuyện gì xảy ra( nước màu trong cái lọ khơng tan ra
ngồi)
BƯỚC 4:
Cơ làm tương tự cơ đổ đầy vào lọ nhỏ thứ 2 nứơc nóng và
nhỏ vài giọt màu thực phẩm
Và cũng thả từ t từ vào vại nước , trẻ sẽ quan sát hiện
tượng gì xảy ra
( nước màu trong cái vại nhỏ từ từ dâng lên như 1 núi lửa)
và trẻ đốn xem nó giống hiện tượng gì trong tự nhiên(núi
lửa)
Hỏi trẻ tại sao nước lạnh trong lọ đầu khơng dâng lên mà
lọ nước nóng nước màu lại dâng lên?
* giải thích: nước nóng nhẹ hơn nước lạnh, vì vậy nó
dâng lên và nổi trên mặt vại
Trẻ quan sát tiếp:một lát sau, nước trong 2 vại đều đồng
màu với nhau
24


25 Sáng kiến kinh nghiệm MN – Võ Hồng Linh sưu tầm

*


Giải thích:nước nóng nguội xuống trộn đều với
nước lạnh nên màu hồ lẫn vào nhau
LƯU Ý: Thí nghiệm trên cơ chỉ làm cho trẻ quan sát, vì
nước nóng nên đảm bảo an tồn cho trẻ

*KHÁM PHÁ VỀ KHƠNG KHÍ:
ĐÈN CẦY CHÁY NHỜ KHÍ GÌ?
* MỤC ĐÍCH U CẦU:
Cần cho trẻ nhận biết khơng khí xung quanh
Trẻ nhận biết đèn cầy cháy nhờ có khí ơxi. Khi khí ơxi
hết thì đèn sẽ bị tắt
* CHUẨN BỊ:
Đèn cầy, hộp quẹt
Đất sét dẻo
Chậu nước
Vại thuỷ tinh lớn và nhỏ
* TIẾN HÀNH:
BƯỚC 1:
Cho trẻ quan sát và gọi tên các đồ dùng của cô đã chuẩn bị
Hỏi trẻ: gắn đèn cầy lên dĩa bằng cách nào?
Sau khi gắn xong đặt dĩa đèn cầy vào 1 cái chậu thuỷ tinh
BƯỚC 2:
25


×