Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT HÀ TIỆN QUA VỞ KỊCH “LÃO HÀ TIỆN” CỦA MOLIERE VÀ TIỂU THUYẾT “EUGENIE GRANDET” CỦA H.BALZAC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.86 KB, 56 trang )





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH NGỮ VĂN
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
HÀ TIỆN QUA VỞ KỊCH “LÃO HÀ
TIỆN” CỦA MOLIERE VÀ TIỂU
THUYẾT “EUGENIE GRANDET” CỦA
H.BALZAC












SV. HÀ TỐ UYÊN
LỚP ĐH4C2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH NGỮ VĂN
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT HÀ TIỆN QUA VỞ KỊCH
“LÃO HÀ TIỆN” CỦA MOLIERE VÀ TIỂU THUYẾT “EUGENIE
GRANDET” CỦA H.BALZAC


Giảng viên hướng dẫn
Ths. Phùng Hoài Ngọc

LONG XUYÊN 5/ 2007

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Trường Đại Học An Giang đã tạo mọi điều kiện để
em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn Ngữ văn, đặc
biệt thầy Phùng Hoài Ngọc đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành tốt luận
văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lớp ĐH4C2 đã quan tâm giúp đỡ, sưu tầm
tài liệu giúp tôi hoàn thành luận văn.
Long
Xuyên 5/2007
Hà Tố
Uyên



MỤC LỤC


PHẦN MỞ
ĐẦU………………………………………………… 1
PHẦN NỘI
DUNG………………………………………………. 4
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC
GIẢ 4
1. Tác giả – Tác

phẩm 4
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Moliere 4
1.2. Vài vét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của H.Balzac
9
2. So sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn
học 13
cổ điển Pháp thế kỉ XVII và trong văn học hiện thực
phương Tây thế kỉ
XIX
2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học cổ điển
Pháp thế kỉ
XVII. 13
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học hiện thực
phương Tây thế kỉ
XIX. 18 Chương 2: “HÀ
TIỆN” – NHÂN VẬT QUEN THUỘC TRONG
VĂN HỌC TÂY ÂU
1. Nhân vật Euclion trong vở “Cái nồi” của
Plaute 21 21

2. Nhân vật Sailock trong “Người lái buôn thành
Venise” 23
(Shakespeare)
3. H’Arpagon trong vở kịch “Lão hà
tiện” (Moliere) 25 25
4. Lão Grandet trong tiểu thuyết “Eugenie Grandet”
(Balzac) 25
5. Nhận
xét 26


Chương 3: MOLIERE XÂY DỰNG TÍNH CÁCH HÀ TIỆN.
BALZAC XÂY DỰNG NHÂN VẬT HÀ
TIỆN 30
1. Điểm giống nhau giữa hai nhân vật H’Arpagon (Moliere)
và 30
lão Grandet (H.Balzac).
2. Điểm khác nhau giữa hai nhân
vật 39
2.1. H’Arpagon – tính cách hà
tiện 39
2.2. Lão Grandet - nhân vật hà
tiện 45
3. Cách nhìn của nhà văn đối với nhân vật hà
tiện 50 3.1. Moliere 50
3.2.
H.Balzac 51
KẾT LUẬN
………………………………………………………… 54
TÀI LIÊU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Moliere và Balzac là hai trong số những tác gia có đóng góp đáng kể cho nền
văn học thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của họ đã để lại trong lòng
người đọc rất nhiều ấn tượng sâu sắc.
Molier được coi là người đã sáng lập ra hài kịch cổ điển Pháp thế kỉ XVII và
đưa nó tới đỉnh cao xán lạn. St Beuve đã nhận xét : “Nếu có một đại hội các
thiên tài văn học cổ kim trên thế giới thì người đại diện cho văn học Pháp phải
là Moliere”. Và không phải ngẫu nhiên mà “trong 209 tác giả được Balzac

nhắc tới trong tác phẩm của mình, Moliere đứng đầu với 240 lần” (Theo
J.Belatre). Mặc dù sinh ra trong một gia đình tư sản hầu cận nhà vua, có một
cuộc sống khá vất vả và khó khăn nhưng bằng tài năng và lòng yêu thích nghệ
thuật đặc biệt là kịch, ông đã sáng tạo nên những tác phẩm để đời. Trong
những tác phẩm của ông chất hài kịch rất đậm nét. Thông qua tiếng cười để
phê phán, đả kích thói xấu xa của giai cấp quí tộc, tăng lữ, phong kiến Pháp,
thể hiện quan điểm của ông trước hiện thực xã hội. Những thăng trầm và trải
nghiệm trong cuộc sống đã là chất liệu và cảm hứng để Molier kiến tạo ra
những tác phẩm hài kịch đặc sắc.
Balzac, một nhà văn “thư kí của thời đại”, một nhà văn hiện thực xuất
sắc của Pháp thế kỉ XIX. Trong sự đa dạng và phong phú các tác phẩm của
Balzac, ta vẫn nhận ra được sự kế thừa và phát triển từ những bậc tiền bối
trước, đăc biệt có cả Molier. Hai tác phẩm, một là vở hài kịch “Lão hà tiện”
của Moliere và một là tiểu thuyết hiện thực “Eugenie Grandet” của Balzac có
những điểm tương đồng nhau trong cách xây dựng nhân vật hà tiện, tuy nhiên
cũng có những nét khá độc đáo mang phong cách riêng đã góp phần tạo nên
sự thành công không nhỏ của hai tác phẩm này. Tên của hai nhân vật
H’Arpagon và lão Grandet đã trở thành những danh từ được sử dụng khá quen
thuộc và phổ biến trong dân gian đặc biệt là ở Việt Nam, dùng để chỉ những
người giàu có nhưng keo kiệt và có phần tàn nhẫn.
Với đôi chút kiến thức đã học được cùng với sự yêu thích hai tác phẩm “Lão
hà tiện” và “Eugenie Grandet”, tôi xin mạnh dạn viết nên những cảm nhận về
cách xây dựng nhân vật hà tiện. Rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của bộ
môn Ngữ văn và bạn đồng môn để luận văn này càng phong phú và hoàn thiện
hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cả hai tác phẩm “Lão
hà tiện” của Moliere và “Eugenie Grandet” của Balzac, điển hình như Đặng
Anh Đào với “Ônôre đờ Banzac và một thế giới bước đi” (NXB Trẻ – 2002),
Đỗ Đức Dục với chủ nghĩa phê phán trong văn học Phương Tây (NXBKHXH

– 1981), Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm với văn học lãng mạn và hiện thực
phê phán TK XIX, gần đây là cuốn “Honore De Balzac- Lão Goriot” (NXB
ĐHQGHN 2001) giới thiệu và nghiên cứu do Lê Huy Bắc biên soạn, Văn học
Phương Tây giản yếu-Nguyễn Minh Chính (NXB ĐHQGTPHCM), Văn học
Phương Tây nhiều tác giả biên soạn (NXB GD 2002), Giới thiệu về Moliere
và Lão hà tiện – Đỗ Đức Hiểu (NXB ĐH – TH chuyên nghiệp Hà Nội 1978),
Giới thiệu Moliere–Nguyễn Minh Chính (VHPT- NXBGD 2002). Nhìn chung
các công trình này đã nghiên cứu khá sâu về nội dung và nghệ thuật của hai
tác phẩm trên cũng như giới thiệu khá đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của Moliere và Balzac. Tuy nhiên việc đi vào phân tích, tìm hiểu nghệ
thuật xây dựng nhân vật hà tiện thì hầu như chưa có một công trình cụ thể,
chuyên biệt.
Luận văn này xin mạnh dạn nghiên cứu một vấn đề cũng khá mới mẻ và hấp
dẫn nhưng cũng không phải là đơn giản nên chắc hẳn sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình thực hiện. Để hoàn thành luận văn người viết dựa vào
một số tài liệu của các tác giả kể trên và những tài liệu liên quan đến hai tác
giả Moliere và Balzac (được liệt kê ở danh mục Tài liệu tham khảo).
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn trong một tác phẩm
không phải là việc đơn giản. Nó đòi hỏi người tìm hiểu phải đọc kĩ, phân tích
văn bản, chọn lọc dữ liệu và đặc biệt phải có cách nhìn nhận tinh tế từng chi
tiết miêu tả nhân vật (hành động, lời nói, tính cách) và đặc biệt là mối quan
hệ giữa nhân vật tìm hiểu nghiên cứu với các nhân vật khác, qua đó thấy
được tư tưởng của nhà văn gửi gắm trong nhân vật.
Luận văn này cố gắng tìm ra cách xây dựng nhân vật, đặc biệt là hai nhân vật
hà tiện H’Arpagon trong vở hài kịch “Lão hà tiện” của Moliere và lão
Grandet trong tiểu thuyết hiện thực “Eugenie Grandet” của Balzac, một phần
nào đó là tìm ra sự giống và khác nhau trong cách xây dựng hai nhân vật này
của hai nhà văn. Từ đó tìm hiểu cách nhìn của mỗi nhà văn trong việc xây
dựng nhân vật hà tiện, thái độ với xã hội đương thời, giá trị của tác phẩm đối

với nền văn học Pháp ở trong hai thế kỉ XVII và thế kỉ XIX nói riêng và nền
văn học thế giới nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong một tác phẩm văn học có ít hoặc nhiều nhân vật, mỗi nhân vật đều có
vai trò khác nhau, thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Bên cạnh hàng loạt
nhân vật phụ còn có nhân vật chính, nhân vật thể hiện quan điểm tư tưởng của
nhà văn. Nhưng đôi khi, không hẳn nhân vật chính mới thể hiện điều đó mà
nhân vật phụ có vai trò khá quan trọng, góp phần thể hiện nội dung tư tưởng
của nhà văn ví như lão Grandet chẳng hạn.
Trong luận văn này, đối tượng chính là vở hài kịch Lão hà tiện của Moliere và
tiểu thuyết hiện thực Eugenie Grandet của Balzac. Do vậy để tìm hiểu nghệ
thuật xây dựng nhân vật hà tiện người viết đi sâu vào tìm hiểu hai nhân vật
H’Arpagon và lão Grandet.


5. Đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu, tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật hà tiện qua hai tác
phẩm trên giúp ta nhận ra được một phần nào đó sự vận động và phát triển của
văn học. Đặt nó vào trong sự tương quan với những nhân vật hà tiện của nhiều
tác phẩm văn học ở một số nước giúp ta nhận ra được hành trình của những
nhân vật hà tiện ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Qua nghiên cứu xây
dựng nhân vật hà tiện giúp người đọc nhận thấy được bộ mặt của xã hội Pháp
thế kỉ XVII và thế kỉ XIX, thấy được sự ảnh hưởng giữa các nhà văn trong
quá trình sáng tác. Và có lẽ giúp ta hiểu được rõ hơn tại sao lại có những biệt
danh đựơc đặt cho nhiều người H’Arpagon hay lão Grandet.
Ta cũng thấy được sự khác biệt trong việc xây dựng nhân vật hài kịch và một
nhân vật tiểu thuyết hiện thực ở hai thế kỉ cách xa nhau.
Việc nghiên cứu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật hà tiện có thể đã có
nhiều người nghiên cứu nhưng hy vọng luận văn này giúp người đọc tự mình
tìm được cái nhìn mới mẻ hơn, thấy được một cách đầy đủ hơn trong sự so

sánh đối chiếu hai tác phẩm trong hai thế kỉ khác nhau thuộc hai giai đoạn văn
học khác nhau. Đây chỉ là nỗ lực nhỏ bé trong quá trình tìm hiểu giá trị nội
dung và nghê thuật của hai tác phẩm lão hà tiện của Moliere và Eugenie
Grandet của Balzac.
6. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu là phương pháp khảo sát và phân tích tư liệu, tổng hợp và phân loại
tư liệu.
Mục đích là chỉ ra được nghệ thuật xây dựng nhân vật hà tiện của Moliere và
Balzac, thấy được điểm giống và khác nhau trong cách xây dựng nhân vật.
Từ đó thấy được cách nhìn của mỗi nhà văn đối với thời đại mà họ đang sống,
đặc biệt là đối với những giai cấp tầng lớp trên (quí tộc, phong kiến, tư sản
thành thị, tư bản ).
7. Bố cục luận văn
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ
1.Tác giả – Tác phẩm
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Moliere
1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác cùa Balzac
2. So sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật trong hài kịch cổ điển Pháp và trong
văn học Phương Tây thế kỉ XIX
2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học cổ điển Pháp thế kỉ XVII
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học hiện thực phương Tây thế
kỉ XIX

Chương 2: “HÀ TIỆN”- NHÂN VẬT QUEN THUỘC TRONG VĂN
HỌC
TÂY ÂU
1. Nhân vật Euclion trong vở “Cái nồi” của Plaute (Nhà viết kịch La

Mã cổ đại)
2. Nhân vật Sailoc trong “Người lái buôn thành Venise” của
Shakespeare
3. H’Arpagon trong vở kịch “Lão hà tiện” (Moliere)
4. Lão Grandet trong tiểu thuyết “Eugenie Grandet” (Balzac)
5. Nhận xét
Chương 3: MOLIERE XÂY DỰNG TÍNH CÁCH HÀ TIỆN. BALZAC
XÂY
DỰNG NHÂN VẬT HÀ TIỆN
1. Điểm giống nhau giữa hai nhân vật H’Arpagon (Moliere) và lão
Grandet
(Balzac)
2. Điểm khác nhau giữa hai nhân vật
2.1. H’Arpagon tính cách hà tiện
2.2. Lão Grandet nhân vật hà tiện
3. Cách nhìn của mỗi nhà văn đối với nhân vật hà tiện
3.1. Molier
3.2 .H.Balzac
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ
1. Tác gia – Tác phẩm
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Moliere
1.1.1. Cuộc đời
Moliere là một tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển Pháp, của lịch sử văn học
Pháp và của lịch sử sân khấu thế giới. Hoạt động chủ yếu vào cuối thế kỉ XVII
cùng thời với Boileau, La Fontaine, Racine, Moliere đem đến cho văn đàn
Pháp những cống hiến rất lớn với tư cách là nguời sáng lập ra hài kịch cổ điển

và đưa nó tới đỉnh cao xán lạn, với tư cách là nhà văn chiến sĩ đã đấu tranh
đến cùng cho những lý tưởng xã hội tiến bộ, với tư cách là người nghệ sĩ ưu tú
đã kết tinh được những truyền thống tốt đẹp của nhân dân và dân tộc Pháp.
Chủ nghĩa cổ điển Pháp với Moliere đã chuyển mạnh hơn và rộng rãi hơn về
phía cuộc sống hiện thực muôn hình muôn vẻ và luôn luôn sôi động, trong đó
quần chúng lao động đang tiến lên đảm nhiệm một vai trò mới. Mấy trăm
năm đã trôi qua nhưng tiếng cười của Moliere không lúc nào vắng mặt trên
sân khấu tiến bộ của Pháp và thế giới. Một số sáng tạo nghệ thuật độc đáo của
Moliere đã đi vào cuộc sống, gắn chặt với nó và đẩy mạnh nó lên. Với văn
học hiện đại Việt Nam, lịch sử kịch nói Việt Nam, hài kịch Moliere cũng có
những đóng góp đáng kể.
A.Jean Baptiste Pocelin sinh tại Paris trong một gia đình tư sản hầu cận nhà
vua. Khoảng năm 1636–1639, ông được dạy dỗ chu đáo ở trường trung học
Clecmon nổi tiếng. Trong thời gian này, ông tỏ ra đặc biệt yêu thích văn
chương, trung thành với triết học và chịu ảnh hưởng của Gassandy. Cha ông
định cho học luật và thừa kế chức vụ hầu cận nhà vua trong cung đình nhưng
Moliere lại chọn sân khấu gán bó với một thứ nghề nghiệp thấp hèn vào thời
đó. Năm 1643, ông làm quen với nữ diễn viên Madelen Beja và cùng với anh
em nhà Beja xây dựng nên đoàn kịch chứ danh. Mặc dù thiếu những điều kiện
cơ bản để diễn xuất như kịch bản và diễn viên tốt nhưng với sự cố gắng hết
sức họ vẫn không thu được kết quả đáng kể gì. Đoàn kịch tan rã vào năm
1645. Cuối năm đó, Pocelin đã đổi tên là Moliere và quyết định cùng anh em
Beja về các tỉnh nhỏ.
Suốt 15 năm trời (1643–1658) khó khăn, thiếu thốn Moliere và các bạn của
ông đi lang thang khắp nước Pháp. Dọc đường sáp nhập với đoàn kịch khác.
Đoàn kịch của ông đã đi qua và biểu diễn ở nhiều nơi trên đất Pháp… 15 năm
lưu lạc giang hồ chính là thời gian chuẩn bị cho Moliere một sự nghiệp sáng
tác lớn. Nó giúp cho ông hiểu biết và tích lũy thêm nhiều kiến thức thực tế
trong cuộc sống. Giúp mở rộng mối quan hệ với những gánh hát , học tập và
cạnh tranh với họ. Cũng chính là thử thách để ông nhìn nhận khả năng thực

sự, thể hiện tài năng nghệ thuật của bản thân. Moliere–người diễn viên, người
đạo diễn, người sáng tác kịch bản, người lãnh đạo đoàn kịch- đã trưởng thành
lên sau một quãng thời gian dài gian khổ, khó khăn.
Từ năm 1650, Moliere đã trở thành người đứng đầu đoàn kịch và đã có điều
kiện xây dựng dần một số tiết mục sân khấu đặc sắc. Ông bắt đầu viết những
kịch hề và hài kịch trong đó có vận dụng những kinh nghiệm của kịch mặt nạ
Italia về kĩ thuật, về hành động về tính cách. Những vở kịch đầu tay của
Moliere: Chàng ngốc (1655), Ghen (1656) đã báo hiệu một tài năng xuất sắc.
Thành công của đoàn kịch vang đến tận thủ đô Paris. Năm 1658, đoàn được
vua vời về thủ đô. Chính nơi này Moliere đã cho ra mắt vở kịch hề Thầy
thuốc si tình. Với sự hấp dẫn của nó thì đoàn kịch Moliere đã chinh phục được
triều đình và họ được ở lại Paris, được dành cho rạp hát của triều đình là
Peautit Buorbon để biểu diễn. Sau một năm hoạt động vừa diễn vở cũ đồng
thời tuyển thêm diễn viên mới. Năm 1659 Moliere đã mạnh dạn đưa lên sân
khấu vở kịch Những ả kiểu cách rởm. Với ý nghĩa phê phán rõ nét của nó thì
ông đã vấp phải sự căm ghét của bọn quý tộc phong kiến, cho dù đối tượng
mà ông nói tới chỉ là những bọn quý tộc giả mà thôi. Từ đây cuộc đời Moliere
chuyển sang một trang mới, một giai đoạn mới – giai đoạn đấu tranh xây dựng
một nền sân khấu dân tộc hiện thực tiến bộ. Những tác phẩm của ông bắt đầu
hướng vào bọn quý tộc nhà thờ, chế độ chuyên chế. Có lẽ vậy mà ông đã phải
đấu tranh không ngừng để chống lại sự phản ứng quyết liệt điên cuồng của
chúng. Đồng thời cũng phải với những tác gia, những diễn viên kình địch
không ngớt lên án ông là không tôn trọng qui tắc cổ điển, báng bổ tôn giáo, vi
phạm những qui tắc hợp thức và làm hại sân khấu thẩm mĩ. Chính những gian
nan thử thách này đã tô luyện tài năng và khả năng sáng tạo của Moliere, ông
đã trở thành nhà sáng tác vĩ đại, nhà nghệ sĩ lão luyện, nhà tổ chức và giáo
dục có tài.
Năm 1662, cho diễn vở Trường học làm vợ lên án quan điểm phong kiến vô
nhân đạo, trái tự nhiên nhưng vô hiệu quả trong việc giáo dục phụ nữ. Vấp
phải sự phản ứng quyết liệt từ bọn phản động và cả những thành viên của rạp

Oten de Buocgeaunhe. Duy nhất Boileau là vẫn nhiệt tình bênh vực Moliere.
Không dừng lại ở đó Moliere tiếp tục công kích bằng viết thêm hai vở kịch
ngắn : Phê bình trường học làm vợ và Kịch ứng tác ở Verseil (1663) vẽ nên
bức tranh châm biếm về các nhà phê bình và giễu cợt một số điển hình xã hội.
Trong giai đoạn 1664–1666, ông viết ba vở hài kịch lớn với những tư tưởng
triết học và xã hội phong phú : Tartuffe (1664), Don Juan (1665) và Anh ghét
đời (1666). Đây là những đòn trí mạng công kích vào nhà thờ, giai cấp quí tộc
và xã hội Pháp cuối thế kỉ XVII. Những thế lực phản động núp dưới bóng của
triều đình và được cái ô này che chở đã lập tức la ó và hùa nhau tìm mọi cách
đe dọa, hành hung Moliere. Đây là giai đoạn đấu tranh căng thẳng của
Moliere.
Sau đó, đời hoạt động của Moliere bớt sôi động hơn với những vở hài kịch
như: Lão hà tiện (1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Những bà thông
thái(1672), Người bệnh tưởng (1673)…
Ngày 17.2.1673, trong đêm diễn thứ tư vở Người bệnh tưởng, đóng vai nhân
vật chính Molire đã kiệt sức trên sân khấu, được đưa ngay về nhà và chỉ hơn
một giờ sau thì ông đã ra đi. Vốn thù ghét Moliere nên nhà thờ đã ngăn cản
việc mai táng ông theo nghi thức tôn giáo. Vợ ông phải phục xuống chân vua,
hết lời cầu khẩn mới được phép chôn ông vào lúc đêm khuya ở nghĩa trang
của nhà thờ.
Đời hoạt động nghệ thuật của Moliere là cuộc đời, một mặt thì kiên trì rèn
luyện trong thực tế vĩ đại của nhân dân, một mặt thì đấu tranh không khoan
nhượng với lực lượng xã hội đen tối, cống hiến trọn ven cho nghệ thuật chân
chính. Chỉ riêng cuộc đời ấy cũng khiến Moliere trở nên bất hủ.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Sự nghiệp sáng tác của Moliere có thể chia ra làm bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1645–1658 bao gồm những sáng tác thời kì nhà văn cùng đoàn kịch
của ông đi diễn lang thang khắp các tỉnh. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho tài
năng với các vở kịch như Thằng ngốc (1655), Ghen (1656)…và nhiều vở kịch
nay đã thất lạc.

Giai đoạn 1659–1663 là giai đoạn nhà văn bắt đầu nổi tiếng. Vở Những bà
kiểu cách rởm (1659) làm náo động kịch trường, chế giễu những ả con cái gia
đình thị dân nhưng lại thích ăn nói, sinh hoạt, yêu đương theo kiểu quí tộc.
Sau vở Trường học làm chồng (1661) nêu lên cuộc đấu tranh giữa hai quan
điểm về hôn nhân và gia đình, giáo dục con cái, là vở Trường học làm
vợ (1662) phê phán thói ngu dân, áp chế sặc mùi phong kiến trong việc giáo
dục phụ nữ. Bị công kích mạnh mẽ, Moliere đáp lại bằng hai vở kịch Phê bình
trường học làm vợ (1663) và kịch ứng tác ở Vecxay (1663).
Giai đoạn 1664 – 1666 là giai đoạn xuất hiện nhiều vở kicỵ kiệt tác chĩa mũi
nhọn về phía các thế lực đang thống trị. Tartuffe (Tartuffe,1664) vừa ra mắt
đã bị cấm đoán, bị lên án là chế giễu những người sùng đạo, báng bổ tôn
giáo. Don Juan, 1665 lấy tên nhân vật chính, một nhân vật vừa có tư tưởng tự
do vô thần, vừa là hiện thân của bọn quí tộc hết thời tham tàn, phóng đãng và
hết sức trơ trẽn. Đến Anh ghét đời (1666) nhà văn phê phán toàn bộ xã hội
thượng lưu bằng cách lựa chọn nhân vật trung tâm Aleeste là một anh ghét
đời, dưới mắt anh tất cả đều giả dối, ích kỉ và phản trắc.
Giai đoạn 1667–1673, nhà văn chuyển hướng, chĩa mũi nhọn vào giai cấp tư
sản qua các vở Lão hà tiện (1668) với nhân vật H’Arpagon cho vay nặng lãi
và keo kiệt, vở Trưởng giả học làm sang (1670) với nhân vật Juocdan muốn
học đòi quí tộc và vở Người bệnh tưởng (1673) với nhân vật lão Argan mắc
chứng bệnh tưởng tượng làm cho khán giả cười nôn ruột.
Vở kịch “Lão hà tiện”
Moliere đã để lại cho đời sau nhiều nhân vật bất hủ, những nhân vật quen
thuộc trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ hàng ngày của dân chúng
“H’Arpagon” là trong những nhân vật ấy. Một Hacpgon có nghĩa là một người
hà tiện, keo bẩn và tàn ác đến mức mất cả tính người. H’Arpagon là nhân vật
chính của vở hài kịch Lão hà tiện (1668).
H’Arpagon là một người làm giàu bằng nghề cho vay nặng lãi, lão góa
vợ có một con trai và một con gái, lão rất giàu có nên có cả gia nhân đày tớ và
xe ngựa. Song lão không muốn chi tiêu cho ai, cho bất cứ việc gì. Con trai lão,

ngược lại là một tay phá gia chi tử. Đối với kẻ ăn người ở lão quỵt tiền công,
lão luôn luôn nghi hoặc cho họ ăn cắp, lão khám xét rất khả ố. Đối với ngựa
kéo xe thì lão cắt giảm phần ăn. Các con đã đến tuổi dựng vợ gả chồng thì lão
định lấy cho con trai một bá góa vợ lắm của, ép duyên con gái với một ông già
chỉ vì một lí do duy nhất ông ta không đòi của hồi môn. Lão hết sức gia
trưởng, nếu con trai không nghe lời lão dọa sẽ truất quyền thừa kế và từ bỏ
nếu con gái không chịu lấy người mà lão đã quyết định, lão sẽ cho vào nhà tu
kín.
Để làm giàu, H’Arpagon cho vay lãi nặng chưa từng thấy, lão gán
những đồ đạc vứt đi, gãy hỏng vào số tiền cho vay. Con trai vốn là tay ăn
chơi, một hôm liều đi vay lãi để chi tiêu, lãi bao nhiêu cũng chịu. Người cho
vay thì đưa ra những điều kiện hết sức khắc nghiệt. Gặp nhau, với vỡ lẽ là hai
cha con, người cho vay và kẻ đi vay. Thế là diễn ra một trận sỉ vả nhau vô
cùng bi đát. Đồng tiền đã làm mờ mắt H’Arpagon.
Con trai yêu một cô gái tên là Marianee, nhà nghèo, nết na. Tình cờ
thế nào H’Arpagon cũng tha thiết yêu cô này. H’Arpagon dùng mánh khóe rất
bỉ ổi để con trai phải thú nhận và nhường Marianee cho mình. Thế là lại xảy
ra một trạn đụng độ giữa hai cha con, đầy bi kịch.
Kết cục, nhờ cậu đầy tớ ranh mãnh La Fleser ăn trộm và giấu cái tráp
vàng của lão H’Arpagon chôn ở ngoài vườn giữ làm “con tin”, H’Arpagon
đành chịu cho con trai lấy Marianee và con gái lấy Valère. Còn lão, lão lấy lại
cái tráp vàng yêu quí của lão.
1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của H.Balzac
1.2.1. Cuộc đời
Honoré de Balzac là nhà văn hiện thực lớn nhất của Pháp và Tây Âu thế kỉ
XIX, là “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” (Engels), người “đã mang cả xã
hội trong đầu”, bậc “tiến sĩ khoa học xuất sắc” vì những hiểu biết sâu xa của
ông với “những quan hệ thực tại” (Marx).
Ông sinh ngày 20.5.1799 tại Tours. Cha là nông dân, mẹ là người buôn dạ.
Học trường dòng nhưng Balzac rất mê đọc sách, đọc những tác phẩm của

những nhà văn Ánh sáng như Diderot, Rousseau…vào trường luật, ông vẫn
theo các giáo trình văn–sử-triết ở đại học Sorbonne. Ra trường, ông không đi
làm luật sư mà theo đuổi con đường văn chương. Chính vì vậy, cha ông đã bắt
buộc ông trong hai năm phải chứng tỏ tài năng văn chương của mình. Và ông
lao vào sáng tác trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn và thiếu thốn trên một
gác xép lụp sụp nhưng đó lại là dịp để ông tiếp xúc với cuộc sống của những
người nghèo khổ. Ông đã từng nói: “Tôi cảm thấy như mình đang mặc chiếc
áo rách rưới của họ, mang những đôi giày thủng đế của họ”, “chỉ có những
tâm hồn bị người đời không hiểu và những người nghèo là biết quan sát vì tất
thảy đều làm họ mếch lòng và vì sự quan sát là do một nỗi đau khổ. Trí nhớ
chỉ ghi kĩ những gì là đau thương”.
Vở kịch đầu tay bị thất bại nhưng ông không thất vọng. Ông chuyển sang viết
tiểu thuyết đen, tiểu thuyết phiêu lưu để kiếm sống. Rồi thấy không thể sống
bằng ngòi bút ông chuyển sang kinh doanh xuất bản, mở nhà in, đúc chữ…
Cuối cùng thua lỗ, ông phải bán cả nhà in.
Có thể nói, trong mười năm đầu bước vào đời ông gặp phải đầy những thất bại
chua cay nhưng đó lại là mười năm tích lũy vốn sống, rèn luyện tay nghề “tôi
có được một khả năng quan sát mạnh mẽ là vì tôi đã bị quăng vào đủ loại
nghề nghiệp”, “tôi sống một cuộc đời lao động say mê. Lao động là tất cả đối
với tôi”. Balzac có một khả năng làm việc phi thường. Hàng ngày ông thường
làm việc từ 12 giờ khuya đến 8 giờ tối ngày hôm sau chỉ nghỉ 4-5 tiếng đồng
hồ mỗi ngày. Hàng chục tác phẩm ra đời trong một năm là thành quả của sự
lao động miệt mài và không mệt mỏi của ông.
Ông bắt đầu nổi tiếng năm 30 tuổi với tác phẩm: Những người Chouans(1829)
miêu tả cuộc nổi loạn của giai cấp quí tộc và sự thắng lợi của lực lượng dân
chủ. Rồi hàng loạt tác phẩm xuất sắc khác lần lượt ra đời:Gobseck (1830)
khắc họa hình ảnh người cho vay nặng lãi, Miếng da lừa(1831) nói về những
con người có mơ ước về một cuộc sống giàu sang nhưng bị tan vỡ, tiểu thuyết
hiện thực Eugenie Grandet (1832) phơi bày tấn bi kịch về sự băng hoại của
đồng tiền đối với con người…

Balzac mắc bệnh tim lại uống rất nhiều cafè do vậy nghỉ ngơi là rất cần thiết
nhưng ngược lại thời gian nghỉ ngơi đối với ông lại quá ít ỏi. Năm 1847 cảm
thấy sức khỏe đã suy giảm và ông đã cố gắng hoàn thành ước vọng cuối
cùng kết hôn với bà Hanska.
Đầu năm 1850, dù bệnh nặng nhưng ông vẫn đến Ukraine để cử hành hôn lễ.
Sau khi trở về Paris chân tay ông đã bị sưng phù, đùi bị hoại tử và ông từ trần
vào ngày 18.8.1850 khi mới 51 tuổi, ra đi trong sự cô đơn giống như nhiều
như nhân vật của ông.
Ông được chôn ở nghĩa địa Piteur Lasezer giữa những ngày Paris mưa gió.
Ông ra đi nhưng tên tuổi và sự nghiệp của ông đã trở thành một kho tư liệu vô
vùng quí giá cho nhiều ngành khoa học xã hội và người đời vẫn luôn nhắc tới
ông “Bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực”.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Balzac không phải là một thần đồng văn học ngay từ lúc nhỏ mà với
ông “thiên tài là một dự cố gắng liên tục”. Có lẽ vì vậy đến năm 30 tuổi trải
qua hơn 10 năm sáng tác vẫn chưa thành công.
Năm 1820, ông cho ra mắt vở kịch Cromwell nhưng nó không để lại
ấn tượng gì như một số nhận xét vừa khô khan lại vô vị “tác giả làm việc gì
cũng được trừ đeo đuổi văn chương”.
Giai đoạn 1818–1828 viết gần mười tiểu thuyết nhưng chưa thành
công, chưa đánh dấu được tên tuổi của mình. Đây là giai đoạn Balzac đang dò
đường.
Tác phẩm Những người Chouans được hoàn thành năm 1829 là tác
phẩm mở đầu cho cả bộ Tấn trò đời vĩ đại.
Giai đoạn 1829–1835 giai đoạn đầu trong việc sáng tác tấn trò đời. lúc
đầu ông dự định viết 143 tác phẩm nhưng cuối cùng chỉ mới hoàn thành được
97 tác phẩm. Tấn trò đời “cung cấp một bộ lịch sử hiện thực tuyệt vời của xã
hội Pháp, đặc biệt là xã hội thượng lưu Paris” (Engels). Balzac tự nhận mình
là người thư kí trung thành của thời đại là vậy.
Sau đây là những tác phẩm cơ bản trong “Tấn trò đời”:

Phần I : Khảo luận phong tục
1. Những cảnh đời tư
Gobseck, Nhà con mèo chơi bóng (1830), Người đàn bà ở tuổi ba mươi
(1831), Đại tá Sabert (1832), Lão Griot I, II (1934,1935), Lễ cầu hôn của kẻ
vô thần (1836)…
2. Những mảnh đời tỉnh lẻ
Cha xứ ở Tours (1832), Eugenie Grandet (1833), Bông huệ nơi thung lũng
(1835), Căn phòng chứa đồ cổ I (1836), Ảo mộng tiêu tan (1837), Cô gái già
(1838)…
3. Những cảnh đời Paris
Xazazin (1831), Nữ công tước De Langie (1834), Cô gái mắt vàng (1835),
Faxino Can (1836), Những viên chức (1837), Nhà ngân hàng Nucingen
(1838), Vinh và nhục của người kĩ nữ I (1839), Mặt trái của lịch sử hiện đại
(1842), Một tay buôn bán (1845), Ông anh họ Pon (1847)…
4. Những cảnh đời chính trị
Một giai đoạn của thời kì khủng bố (1830), Maccar (1841), Đại biểu ở Acxi
(1847)…
5. Những cảnh đời nhà binh
Những người Chouans (1829), Mối đam mê nơi sa mạc…
6. Những cảnh đời nông thôn
Người thầy thuốc ở nông thôn (1833), Người cha xứ nông thôn I (1838),
Người cha xứ ở nông thôn II (1839)…
Phần II : Khảo luận triết học
Thuốc trường sinh (1830), Kiệt tác chưa ai biết tới (1831), Miếng da lừa
(1831), Quán đỏ (1831), Gia đình Manara (1832), Louis Lambe (1833), Đi tìm
cái tuyệt đối (1834), Menmot quy thiện (1835), Đứa con bị nguyền rủa (1836),
Maximilia Đoni (1839)…
Phần III : Khảo luận phân tích
Sinh lí học hôn nhân (1829), Những nỗi phiền hà của cuộc sống vợ
chồng (1845).

Tấn trò đời là bức tranh về xã hội Pháp thế kỉ XIX. Bức tranh trung
tâm Tấn trò đời đã diễn tả “đúng như là sự thật, như là cuộc sống” qua động
lực chủ yếu chi phối xã hội tư sản là đồng tiền. Quá trình tích lũy đẫm máu
của giai cấp tư sản, con đường tư sản hóa của giai cấp quí tộc Pháp, sự tha hóa
của con người trước sức mạnh đồng tiền, số phận bi thảm của những “con
người bé nhỏ” trong xã hội tư sản Pháp.
Với bộ Tấn trò đời, Balzac đã đặt nền tảng cho văn học hiện thực, đề
ra những nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa hiện thực, xây dựng nhân vật theo
nguyên tắc điển hình trong hoàn cảnh điển hình… khiến cho cuộc sống hiện ra
phong phú và sinh động “thực hơn cuộc sống thực” dưới con mắt của nhiều
người. Tấn trò đời đó là một pho biên niên gần như từng năm một của lịch sử
xã hội Pháp thời đó, một bộ bách khoa toàn thư, một hệ thống “huyền thoại”.
Tiểu thuyết Eugenie Grandet :
Tiểu thuyết xoay quanh bộ ba nhân vật Eugenie–Lão Grandet–
Charles, là một tiểu thuyết hiện thực nhưng còn vương vấn chút lãng mạn của
Balzac. Ở đây ta bắt gặp hình ảnh lão Grandet lúc đầu chỉ là một người thợ
đóng thùng ở một thị trấn nhỏ của nước Pháp – thị trấn Saumur, nhờ gặp được
vận vay mà phất lên sau cách mạng 1789. Với số vốn có được cũng kha khá,
lão dần dần biết cách làm cho đồng tiền của lão sinh sôi nảy nở. Lão mua “giá
rẻ như cho” những cánh đồng nho tài sản đấu giá được. Lão buôn vàng, đầu
cơ tích trữ rượu vang và kết quả là đã trở thành một tay tư sản giàu sụ nhưng
lại là một người hết sức keo kiệt. Vợ, Eugenie con gái duy nhất của lão, mụ
Nanon người quản gia tâm đắc và ngay bản thân lão là nơi để thực hành chính
sách tiết kiệm đến keo kiệt của lão. Lão nắm giữ tay hòm chìa khóa trong
nhà, hàng ngày đích thân phát từng mẩu bánh mì, từng viên đường cho vợ và
con.
Cruchot và Des Grassins là hai gia đình có thế lực ở Saumur thường
tới lui bợ đỡ lão, hòng giành nhau cô con gái để kế thừa gia tài kếch xù mà
lão Grandet đã dày công vun đắp. Nhưng lão thì không bao giờ nghĩ đến hạnh
phúc của con gái.

Em trai Grandet ở Paris bị phá sản, trước khi tự tử đã gửi con trai là
Charles về Saumur nhờ lão cưu mang nhưng lão đã vội tống khứ Charles đi
Ấn Độ để rảnh nợ và giữ nợ cho y để sau này y tự trả. Trong thời gian ngắn ở
lại nhà bác, tình cảm giữa Charles và Eugenie đã nảy nở thành tình yêu. Biết
là Charles phải sang Ấn Độ nơi mảnh đất xa xôi, Eugenie đã giấu cha đem số
vàng mình dành dụm được trao cho Charles làm vốn kinh doanh. Khi Grandet
biết chuyện thì đã nhảy lồng lên và giam ngay con gái vào buồng kín chỉ cho
uống nước lã và bánh mì lạt. Bà Grandet vì đau buồn mà mất. Sợ vợ chết con
đòi gia tài lão liền giảng hòa với con. Sau khi lão mất thì chỉ còn Eugenie
sống bơ vơ với hy vọng là sẽ đón nhận được tình yêu của Charles khi anh ta từ
Ấn Độ trở về.
Sau bảy năm sống ở Ấn Độ, Charles đã kiếm được một số tiền
lớn nhưng đã thay đổi bản tính. Trên đường về Paris hắn đã đính hôn với một
cô gái quí tộc nhưng xấu xí nhằm kiếm chân trong xã hội thượng lưu đang là
mốt thời đó và quên hẳn mối tình đầu với Eugenie. Tuy bị phụ bạc nhưng
Eugenie vẫn đem tiền lên Paris trả nợ cho hắn, rồi sau đó kết hôn với một
người mà cô không hề yêu. Năm 33 tuổi thì Eugenie đã phải sống cuộc đời
góa bụa
Tiểu thuyết Eugenie Grandet là một trong những tiểu thuyết thành
công của Balzac, tác phẩm đã tạo nên một điển hình keo kiệt, bủn xỉn – lão
Grandet. Tác giả đã phơi bày thói tham lam, keo bẩn lại hám tiền, xem tiền
như là mạng sống của giai cấp tư sản. Grandet tạo nên một hình tượng rất thật
và hết sức sinh động về giai cấp tư sản với sự sùng bái tiền bạc như một thứ
tôn giáo. Tác phẩm phơi bày sức mạnh nghiệt ngã của đồng tiền, chính nó đã
hủy hoại tâm hồn con người, giết chết những tình cảm thiêng liêng nhất và có
thể biến chất con người. Quá trình Grandet làm giàu cũng là quá trình phất lên
của giai cấp tư sản sau đại cách mạng Pháp 1789, đó cũng là quá trình tích lũy
tiền tư bản trong điều kiện lịch sử mới.
2. So sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học cổ điển Pháp thế
kỉ XVII và trong văn học phương Tây thế kỉ XIX

2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học cổ điển Pháp thế kỉ
XVII
Văn học cổ điển Pháp ra đời vào đầu thế kỉ XVII và phát triển rực rỡ
vào nửa sau thế kỉ, là một đóng góp quan trọng vào kho tàng lịch sử văn học
thế giới.
Một mặt văn học cổ điển tiếp tục truyền thống văn học thời Phục
Hưng, ca ngợi tự nhiên, lí trí và nghệ thuật cổ đại Hy Lạp, La Mã, phê phán
quyết liệt thế giới quan phong kiến, trước hết là triết học kinh viện – một triết
học kìm hãm con người trong ngu dốt và nô lệ. mặt khác, do sự phát triển của
giai cấp tư sản đóng vai trò tích cực lúc bấy giờ, nhờ sự phát triển của khoa
học và triết học duy vật, Văn học cổ điển có những nét độc đáo mà từ mấy thế
kỉ nay nhiều nhà lý luận đã tìm cách xác định nhưng chưa đi đến thống nhất.
Văn học cổ điển phản ánh tương đối trung thực xã hội, đầy mâu thuẫn
và tàn ác của nước Pháp dưới triều đại Louis 13. Nó biểu hiện những tình cảm
và khát vọng tự do, dân chủ của nhân dân. Nó là tiếng nói khỏe mạnh, trong
sáng của một dân tộc mới thống nhất và đang lớn mạnh. Những đặc trưng dân
tộc tự do dân chủ này mang lai cho văn học cổ điển sức sống vui tươi, niềm
tin vững vàng và những nét hiện thực sâu sắc.
Quan niệm về cái đẹp của chủ nghĩa cổ điển bắt nguồn từ hoàn cảnh
đặc biệt của nước Pháp mới dược thống nhất và đầy hứa hẹn tự do dân chủ,
ánh sáng. Từ đó nó cũng nảy sinh một lí trí trong sáng, khỏe mạnh: cách bố trí
cân đối hợp lí, cân đối, sáng sủa, khúc triết, văn phong trong sáng, mạch lạc
âm điệu nhịp nhàng. Lí trí con người được ca ngợi như là thước đo giá trị của
mọi tư tưởng tình cảm và tư tưởng. Văn học cổ điển ca ngợi tự nhiên và phản
đối tất cả những gì giả tạo, cực đoan, đầy dục vọng mờ ám. Đặc biệt trong hài
kịch của Moliere và La Fontaine còn chịu ảnh hưởng của triết học duy vật
Gassendy, người tiêu biểu cho luồng tư tưởng tự do hồi thế kỉ XVII. Họ sống
gần gũi với nhân dân, có lương tri khỏe mạnh và trong sáng. Chủ nghĩa cổ
điển đã gắn bó chặt chẽ với truyền thống dân tộc, đưa văn học dân tộc Pháp
lên một bước đường mới, nó góp phần tích cực vào việc xây dựng quốc gia

thống nhất, chống lại cường quyền và áp bức. Vừa chống lại cung đình vừa
chịu ảnh hưởng của cung đình đó là những mâu thuẫn cơ bản của văn học cổ
điển Pháp thế kỉ XVII. Chịu ảnh hưởng tiêu cực của triết học duy lí
Descartes, các nhà văn cổ điển trong khi xây dựng tính cách nhân vật không
nhận thức được rõ ệt hoàn cảnh lịch sử quy định một phần tính cách hân vật,
họ tưởng rằng lí trí con người có khả năng khôi phục tự nhiên xã hội đưa loài
người đến tự do, hạnh phúc.
Hài kịch là một trong những thể loại thành công nhất và phát triển nhất
của văn học cổ điển Pháp. Để phục vụ cho việc nghiên cứu tìm hiểu đề tài,
luận văn này xin đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong hài
kịch cổ điển Pháp.
Hài kịch là kịch dùng hình thức gây cười để chế giễu hoặc đả kích
những thói xấu, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Ở Châu Âu, trước chủ
nghĩa cổ điển hài kịch chỉ những tác phẩm ngược với bi kịch và nhất thiết phải
có một kết cục vui vẻ (có hậu), các nhân vật hài kịch thường thuộc về tầng lớp
thấp kém. Trong nhiều hệ thi pháp hài kịch được xác định như một thể loại
bậc thấp (đối lập với thể loại bậc cao là bi kịch). Ở Văn học thế kỉ Ánh sáng,
tương quan đó bị phá vỡ bởi việc thừa nhận kịch bậc giữa, tức là kịch thị dân.
Ở thế kỉ XIX và nhất là thế kỉ XX, hài kịch là thể loại rất tự do và đa dạng.
Ở các nhân vật hài kịch, phẩm chất bên trong không tương xứng với vị
trí thân phận của nó và do vậy nó đáng là nạn nhân của tiếng cười. Tiếng cười
hạ uy tín của nhân vật ấy và bằng cách này tiếng cười thể hiện sứ mệnh lí
tưởng của mình. Phạm vi của hài kịch rất rộng, từ châm biếm chính trị đến hài
hước vui nhộn nhẹ nhàng. Tuy nhiên ở loại hài kịch có nội dung xã hội sâu
sắc thì sự đồng cảm sẽ lấn át tiếng cười và hài kịch sẽ biến thành chính kịch.
Các tính cách trong hài kịch thường được miêu tả một cách đậm nét, cận cảnh,
trạng thái tĩnh của tính cách và những nét gây cười của nó sẽ được nhấn mạnh.
Có rất nhiều thể loại hài kịch như hài kịch tính cách, hài kịch phong tục, …
Những hài kịch Cổ điển thường kết hợp với chất hài của tính cách (ví dụ như
hài kịch của Moliere).

Aristophan được người ta gọi là cha đẻ của hài kịch bởi lẽ ông là
người đầu tiên sáng tạo ra hài kịch châm biếm xã hội chính trị. Ở Văn học Hy
Lạp và La Mã cổ đại, trung tâm của hài kịch thường là những thăng trầm
trong cuộc sống riêng tư. Ở thời trung đại Châu Âu yếu tố tiếng cười mang
màu sắc hội cải trang dân gian và thâm nhập vào các thể loại tôn giáo. Ở
Châu Âu có sự phân biệt những kiểu hài kịch khá bền vững; hài kịch bác học
thế kỉ XVI và hài kịch mặt nạ ở Italia đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát
triển của sân khấu Châu Âu. Hài kịch tình yêu của Shakespeare nổi bật ở sự
phong phú về tâm trạng đã thể hiện tư tưởng chủ đạo thời Phục Hưng về
quyền lực tự nhiên đối với tình cảm con người, đan dệt chất hài với chất xúc
động làm cho cái hài tiếp cận cái bi. Trong tác phẩm của mình Shakespeare đã
kết hợp đồng thời cái kì quái đáng cười với niềm vui sướng với vẻ đẹp của
nhiều tính cách. Còn Moliere đã tổng hợp các trò hài hước dân gian với “hài
hước bác học” thời Phục Hưng. Hài kịch thế kỉ Ánh sáng kết hợp sự chế giễu
cay độc với sự vui nhộn và nhạy cảm của các nhân vật chính diện.
Những khả năng nghệ thuật mới của hài kịch như nâng cao việc thể
hiện tâm lí, xây dựng tính cách phức tạp hơn, được bộc lộ ở cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX trong loại hài kịch tư tưởng của Bernard Shaw và hài kịch tâm
trạng của Shekhov. Ở thế kỉ XX, nét nổi bật ở hài kịch là sự đa dạng của
những biến thức thể loại : hài kịch tố cáo xã hội của Brest, Ecexi…thủ pháp
thể hiện cũng rất đa dạng.
Kế tục và phát huy mạnh mẽ kịch hề dân gian Pháp. Trước Moliere
cho đến 30 năm đầu thế kỉ XVII, trên sân khấu Pháp chưa có hài kịch, kịch hề
dân gian vẫn là phổ biến. Nhưng kịch hề không phát triển được một phần do
sự thô sơ, ấu trĩ về tư tưởng và nghệ thuật, một phần do không được dư luận
xã hội tôn trọng, khuyến khích. Sau đó gần giữa thế kỉ, nhiều nhà soạn kịch kể
cả Corneil và Racine đều có viết hài kịch nhưng những hài kịch này vừa ít ỏi
vừa chưa được chú ý xây dựng nên chưa làm ảnh hưởng gì đến vị trí của kịch
hề. Chỉ từ Moliere trở đi, hài kịch Pháp mới chính thức ra đời và trở thành vũ
khí đấu tranh. Vì nó đã kết hợp được ý nghĩa xã hội rộng lớn với cái cười

thâm thúy, những truyền thống của kịch hề dân gian với những sáng tạo gắn
liền với thời đại.
Moliere đã sáng tạo ra hài kịch cổ điển Pháp. Với Moliere hài kịch đã
đạt được tới một trình độ rất cao đủ tư cách đứng ngang hàng với bất cứ một
thể loại sáng tạo nào khác. Chịu những ảnh hưởng của những tư tưởng triết
học lớn, tham gia tích cực vào việc dựng lên bộ mặt văn hóa, văn nghệ có tính
dân tộc Pháp dưới sự lãnh đạo tập trung của Nhà nước dân chủ chuyên chế
Pháp, sáng tạo theo đường lối phương châm chung của những nhà cổ điển chủ
nghĩa mà ông thường tiếp xúc, đáp ứng được nhu cầu thẩm mĩ của thời đại.
Moliere đã cống hiến cho chủ nghĩa cổ điển bằng những sản phẩm riêng của
mình–những hài kịch cổ điển ưu tú được đông đảo công chúng Pháp thế kỉ
XVII và ngày nay hâm mộ. Moliere từng xác định “nhiệm vụ của hài kịch là
miêu tả, nói chung những thói xấu của con người và chủ yếu là của con người
thế kỉ chúng ta” (Kịch ứng diễn ở Verseille), “thể hiện trong lòng chủ nghĩa
cổ điển một cuộc cải cách về hài kịch trên cơ sở chủ nghĩa hiện thực”
(Mokouski). Nếu các cổ điển chủ nghĩa chạy theo “cái như thực” mà bỏ rơi
“cái thực” thì “Moliere là nhà hiện thực có ý thức” (P.Daix).
Như vậy đến Moliere thì hài kịch cổ điển Pháp mới thực sự phát triển
với những tác phẩm nổi tiếng: Tartuffe, Lão hà tiện, Trưởng giả học làm sang,
Người bệnh tưởng…
Moliere là người có đóng góp quan trọng trong phát triển văn học
Pháp thế kỉ XVII.
Một bộ phận quan trong trong gia tài hài kịch của Moliere là những hài
kịch tính cách. Những hài kịch này phản ánh xu hướng đi vào lòng người, mô
tả tâm lí, nghiên cứu tự nhiên của chủ nghĩa cổ điển nói chung. Để làm rõ các
tính cách khiến chúng điển hình trong khuôn khổ của sân khấu cổ điển,
Moliere đã chọn con đường riêng. Ông tập trung cao độ vào tính cách nhân
vật, thậm chí vào nét cơ bản trong tính cách nhân vật. Ông tước bỏ những chi
tiết phụ, rắc rối, đối lập không lợi cho sự chú ý theo dõi và xây dựng tính
cách. Trong hài kịch tính cách của Moliere chỉ còn thấy hiện lên một tính cách

cụ thể, dễ nhận, dễ phân biệt. mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách nhất
định, hoặc đạo đức giả hoặc hà tiện hoặc thông thái rởm…Những tính cách
khác, nếu có đều phải lùi xuống hàng dưới nhằm phục vụ cho tính cách chủ
yếu. Đặc điểm của những tính cách này là tính hài kịch bộc lộ ở óc chủ quan
ngộ nhận và cố chấp. Nhân vật hài kịch có những sai lầm những tật xấu hiển
nhiên, không nguy hiểm chết người nhưng không sao tránh khỏi thất bại
nhưng nhân vật ấy lại tin rằng mình nghĩ và làm đúng, mình nắm lẽ phải,
mình sẽ thắng và khăng khăng không chịu thừa nhận thực tế khách quan. Đầu
óc đầy ảo tưởng, nhân vật trở nên hài hước lố bịch, đáng bị chê cười.
Để khắc rõ tính cách và cũng để tăng cường tính hài kịch, Moliere
thường hay dùng một biện pháp khá quen thuộc: cường điệu tính cách, đẩy
tính cách lên sát ranh giới của sự phi lí, khó tin, không giống như thật. Nhưng
nghệ thuật cường điệu của Moliere hoàn toàn không phải là sự phóng đại tùy
hứng, chủ quan mà vẫn gắn bó chặt chẽ với hiện thực, có cơ sở hiện thực chắc
chắn nên có sức mạnh và được thừa nhận.
Tính cách nhân vật mà ông xây dựng là mô tả những con người cụ thể
của thời đại mình. Nhân danh lí trí và tự nhiên, tiếng cười Moliere chĩa mũi
nhọn vào cái phi lí và cái trái tự nhiên trong đời sống hiện thực, trong hài kịch
của ông ta thấy có hai loại nhân vật : nhân vật mang nội dung lí trí và nhân vật
đánh mất lí trí. Loại thứ nhất thì sáng suốt, loại thứ hai thì lầm lạc. Hégel đưa
ra nhận xét “Nhân vật hài kịch của Moliere thành đối tượng để cho người
ngoài cười…Gã Tartuffe của Moliere khi bị vạch mặt là tên gian ác thật sự,
chẳng có gì là vui hết” (Mỹ học- Hégel). Những nhân vật hài kịch này là
những nhân vật mà người ta cười về họ (khác với nhân vật hài kịch của
Shakespeare là ta cười với họ).
Tiếng cười của Moliere hướng vào rất nhiều đối tượng khác nhau
trong xã hội đang dần tư sản hóa lúc đó, sau khi ném hàng loạt tác phẩm đánh
vào phong kiến và nhà thờ, Moliere đã hướng tiếng cười của mình sang đối
tượng mới : giai cấp tư sản, ông ghét nhất ở giai cấp tư sản hai điều : học đòi
quí tộc và keo kiệt, hám tiền. “Trong tất cả hài kịch ngày xưa bao giờ người ta

cũng thấy một đầy tớ làm hề để cù khán giả, trong tất cả vở kịch ngày nay của
chúng ta, bao giờ cũng phải có một hầu tước lố bịch để mua vui thiên hạ”
(Kịch ứng tác ở Verseille). Thay đổi về chất trong hài kịch, Moliere đã hướng
ngòi bút tới ba đối tượng chính là: quí tộc, tăng lữ, tư sản.
Bên cạnh bi kịch, thơ ngụ ngôn…, hài kịch là một trong những thể
loại phát triển nhất của nền văn học Pháp thế kỉ XVII. Moliere đã khẳng định
vai trò của mình trong nền văn học Pháp nói riêng và văn học thế giới nói
chung.
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học hiện thực Phương Tây
thế kỉ
XIX
Trong văn học Phương Tây và trong văn học thế giới nói chung, chủ
nghĩa hiện thực với tư cách là một phương pháp sáng tác vừa là một trào lưu
văn học có vai trò và vị trí trất quan trọng. Một mặt, trên dòng văn học hiện
thực phát triển qua các thời đại, văn học hiện thực phê phán đã xuất hiện như
đỉnh cao nhất của thời đại Tư bản chủ nghĩa, trước khi chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa ra đời kể từ những năm ba mươi của thế kỉ XIX. Và khi nó sinh
ra ở Phương Tây vào lúc giai cấp tư sản bước lên vị trí thống trị, rồi trải qua
ba giai đoạn phát triển từ hình thái hiện đại, chủ nghĩa hiện thực phê phán
ngày càng trở nên phổ biến khi chủ nghĩa tư bản trở thành hệ thống toàn thế
giới và cho tới nay nó đã cung cấp cho kho tàng văn học loài người hàng loạt
những tác gia và tác phẩm xuất sắc, hết sức đa dạng. Đặc biệt thể loại tiểu
thuyết.
Văn học hiện thực phê phán xuất hiện sau năm 1820 dưới thời Trung
Hưng phát triển mạnh mẽ đến những năm 60 và có thể chia làm hai thời kì
trước và sau năm 1848. Sau cuộc cách mạng tháng 7 năm 1830, chính quyền
thuộc về giai cấp đại tư sản mà Marx gọi là “quí tộc tài chính”. Đồng tiền
thống trị trong mọi lĩnh vực xã hội với quyền lực và sức mạnh tha hóa của nó.
Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra và giai cấp công nhân dần trưởng thành
đã dẫn đến cuộc cách mạng tháng 6 năm 1846. Giai đoạn trước năm 1848 là

giai đoạn phát triển rực rỡ của văn học hiện thực với những nhà văn ưu tú :
Stendhal, Balzac, Meerimer.
Theo qui luật phát triển chung của nghệ thuật, một nền nghệ thuật mới,
tiến bộ bao hàm cả yếu tố kế thừa (với di sản tốt đẹp) cả yếu tố phủ định với
những hiện tượng lỗi thời trong cuộc sống nghệ thuật. Là bước đường phát
triển chính của văn học, chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX kế thừa những truyền
thống ưu tú của quá khứ. Chủ nghĩa cổ điển thiên về cái chung, cái phổ biến
khi xây dựng nhân vật. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao cái cá thể được nâng tới
mức phi thường, ngoại lệ điển hình hiện thực chủ nghĩa, tính khái quát cao với
tính cá thể sâu sắc. Tính cách nhân vật tiêu biểu cho những lực lượng xã hội
nhất định, tính cách hình thành, hoạt động và phát triển trong những hoàn
cảnh xã hội nhất định. Khác và hơn hẳn chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng
mạn, chủ nghĩa hiện thực đặt nhân vật trong hoàn cảnh của mâu thuẫn và đấu
tranh giai cấp, hoàn cảnh này quyết định sự vận động, diễn biến của tính cách,
một sự vận động không cơ giới mà theo logic nội tại của bản thân tính cách.
Các nghệ sĩ hiện thực lớn, sự phân tích sâu sắc, rộng rãi về mặt xã hội
kết hợp với sự phân tích tinh vi về mặt tâm lí. Nhân vật được thể hiện với tất
cả tính đa dạng, phong phú của đời sống nội tâm vừa là sản phẩm của hoàn
cảnh, chịu sự chi phối của hoàn cảnh vừa có tính độc lập bên trong. Cảm xúc,
suy nghĩ, cách xử sự của nhân vật phù hợp với các đặc điểm trong tính cách
xã hội của họ với qui luật nội tại của họ, những điều này được cấu thành bởi
các quan hệ xã hội của xứ sở và thời đại họ.
Một đặc điểm nổi bật hơn cả so với nền văn học trước chủ nghĩa hiện
thực phê phán đã xây dựng được điển hình “Ngoài sự chính xác của các chi
tiết ra còn phải nói đến sự thể hiện chính xác những tính cách điển hình trong
những hoàn cảnh điển hình”. Nhà văn lãng mạn trong khi miêu tả hình tượng,
không chú ý đầy đủ đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong khi dùng những
biện pháp nghệ thuật để nhấn mạnh sự đối lập của các mâu thuẫn, họ không
chú trọng nghiên cứu quan hệ hiện thực và quan hệ biện chứng phức tạp của
thế giới khách quan. Nhân vật lãng mạn thường được nhà văn đưa vào những

hoàn cảnh hoang đường, hư ảo.
Về phương diện miêu tả những tính cách điển hình, các nhà hiện thực
cố gắng bảo vệ tỷ lệ của hoàn cảnh sống thực, miêu tả nhân vật trong sự liên
hệ phức tạp và trong mối quan hệ cụ thể lịch sử, trong sự phát triển của nó.
Tính cách của các nhân vật đều hình thành và phát triển trong những hoàn
cảnh điển hình.
Các nhà văn đã dần dần từ bỏ tính chất ước lệ lãng mạn mà thừa nhận
tính chất bất khả chiến thắng của những qui luật khách quan quyết định số
phận và tính cách của các nhân vật.
Trong khi miêu tả một cách chân thực cuộc sống, các nhà hiện thực thế
kỉ XIX đã lên tiếng phê phán, tố cáo xã hội tư sản. Balzac lên án đồng tiền
trong xã hội đó , lên án giai cấp tư sản đã biến tất cả những quan hệ tình cảm,
gia đình…thành ra “những quan hệ tiền nong đơn thuần”. Đíckenx đập mạnh
vào tính chất giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản Anh và tố cáo tội ác của
bọn giàu có.
Các nhà văn hiện thực phê phán bằng những hình tượng nghệ thuật, ở
mức độ này hay mức độ khác đều có nói đến thực chất của xã hội tư sản.
Các nhà văn hiện thực đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật dựa vào
nghiên cứu thực tại khách quan, lựa chọn chi tiết chân thực, đồng thời tôn
trọng những điều kiện lịch sử cụ thể và quan tâm đến sự phát triển lịch sử mới
đạt được những nhân vật hết sức sinh động, có chiều sâu, những nhân vật
hiện thực rất điển hình mà cũng có cá tính sắc nét, tính cách được hình thành
và biến chuyển của hoàn cảnh thực tại khách quan. Đó là những Julien Sorel,
Mathindez de la Maule De Renant trong Đỏ và đen của Standhal, hay những
Grandet, Gobsecs, Nucingen, Goriot, De Rastignac, Vaut’rin… trong bộ Tấn
trò đời của H.Balzac.
Hơn bất kì thể loại văn học nào, tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa với
khả năng, tham vọng và cũng là nhiệm vụ của nó là mô tả toàn bộ cuộc đời,
phản ánh tổng số đời sống xã hội, không thể không đạt tới khách quan hóa,
điển hình hóa, tới nhân vật điển hình. Mà thực sự trong văn học hiện thực, chủ

nghĩa hiện thực chỉ xuất hiện khi nghệ thuật văn học đạt tới một trình độ điển
hình hóa nhất định, đi từ những điển hình tâm lí tiến dần lên những điển hình
xã hội ngày càng hoàn chỉnh. Bước đầu ở thời Phục Hưng với những nhân vật
kịch hay tiểu thuyết nổi tiếng của Shakespeare, Cesvantes, Rabelais…mới đạt
điển hình tâm lí tức là những nhân vật tiêu biểu cho một hạng người có chung
một đặc điểm nhất định về tâm lí, về tính cách, không kể đến nguồn gốc xã
hội của họ. Chẳng hạn như tâm lí của một tên phản bội, của một con người cả
tin, một kẻ mơ mộng, một gã tham lam keo kiệt hay tâm lí của một tên bạo
chúa, của một đứa con bội bạc, một thanh niên si tình, một con người dũng
cảm hào hiệp…Rồi qua thời kì cổ điển, thời kì Ánh sáng với ý thức về đấu
tranh xã hội, về giai cấp và đấu tranh giai cấp dần dần nảy nở, sự điển hình
hóa ngày càng được nâng cao, vượt qua trình độ điển hình tâm lí đơn thuần để
tiến lên ở thế kỉ XIX những điển hình xã hộ tương đối hoàn chỉnh, tức là
những nhân vật tiêu biểu cho lực lượng xã hội, những tầng lớp giai cấp xã hội
nhất định quan hệ với nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, ngày càng rõ nét và
có ý thức.
Cố nhiên không phải ở thời đại Phục Hưng Shakespaere,
Cesvantes không đạt tới điển hình xã hội ở một mức độ nhất định và ở một
nhân vật nào đó, nhưng điều đó có thể là tự phát, chưa phải do ý thức về giai
cấp xã hội mà có.

Chương 2 : “HÀ TIỆN”- NHÂN VẬT QUEN THUỘC TRONG VĂN
HỌC
TÂY ÂU
1. Nhân vật Euclion trong vở “Cái nồi” của Plaute (nhà viết kịch La Mã
cổ đại)
Cái nồi là vở hài kịch bằng thơ của nhà thơ Plaute, được trình diễn vào
khoảng năm 195 trước công nguyên.
Nội dung vở nói về một nhân vật hết sức là keo kiệt, có thể nói tính
keo kiệt của hắn ta là sự kế thừa của truyền thống gia đình qua mấy đời.

Mở đầu bằng một cảnh tự ngôn giáo đầu: Vị thần La (thần thổ địa,
thần giữ của) ở nhà Euclion kể cho khán giả nghe, ông nội của Euclion có
chôn một kho vàng trong nhà và giao cho thần gìn giữ bảo quản, trông coi.
Tính lão keo kiệt quá mức cho nên đến khi chết cũng chẳng muốn cho con trai
kho vàng đó. Con trai của lão, bố của Euclion lại còn keo kiệt hơn ông nội
nữa, nên đối xử với thần La rất tồi tệ, chẳng thèm để ý tới và dâng lễ vật cũng
không ra gì nữa. Thần La tức giận nên đã trả thù không nói cho hắn biết kho
vàng ở đâu. Đến Euclion cũng vậy, thần La chẳng được đối xử tốt hơn. Tuy
nhiên con gái của hắn là Phedrie đối xử với thần La rất thành kính. Vì thế để
trả ơn người con gái nghèo đó, thần La đã cho Euclion kho vàng để Phedrie
nhờ đó sẽ dễ dàng lấy chồng vì có của hồi môn lớn. Nhưng Phedrie lại gặp
chuyện không may. Trong đêm hội Sorex, một thanh niên quí tộc tên là
Lyconide đã say sưa quá trớn đến nỗi cưỡng hiếp Phedrie, khiến cô này có
mang. Trong khi Phedrie lại hoàn toàn không biết kẻ đã xúc phạm mình là ai,
tông tích thế nào và Euclion cũng không hề biết tới những chuyện lôi thôi mà
con gái mình mắc phải. Lúc này thần La hứa sẽ giúp đỡ Phedrie bằng cách sẽ
sai khiến Mégadore – cậu của Lyconide một thương nhân góa vợ, chán ghét
thói xa hoa, đua đòi đến xin cưới Phedrie, để từ đó Lyconide có thể biết
chuyện, thay đổi được tình hình và cứu Phedrie dễ dàng.
Sau cảnh tự ngôn giáo đầu là 5 hồi kịch liên tiếp thể hiện tính cách hà
tiện của Euclion và câu chuyện nhân duyên từ Megdore–Phedrie đến
Lyconide–Phedrie. Từ khi có cái nồi vàng trong tay, lão Euclion ngày đêm lo
ngại, sợ sệt lũ đầy tớ của mình, lão lúc nào cũng có thể nghi ngờ hết đứa nọ
đến đứa kia sợ chúng dòm ngó và biết chỗ lão chôn vàng. Khi Megadore đến
gặp Euclion để “ăn hỏi” thì lão ta lại nghĩ là đến để tìm cách ăn cắp cái nồi
vàng, được biết Megadore xin cưới con gái, không đòi của hồi môn thì lão
mừng rỡ ra mặt và ưng thuận liền. Thậm chí bữa tiệc cưới cũng do Megadore
gánh chịu hết mọi khoản kinh phí từ việc mua sắm đến cử cả đầu bếp sang nấu
nướng. Lão quyết trong bữa tiệc chỉ uống nước lã đề phòng Megadore dùng
kế chuốc cho hắn say để cướp đoạt nồi vàng.

Euclion không chỉ keo kiệt mà còn rất đa nghi nữa. Trong khi mọi
người lo chuẩn bị cho bữa tiệc cưới thì Euclion đem nồi vàng từ nhà ra giấu ở
đền thờ thần thiện tâm và khấn thần che chở, giữ gìn cho nồi vàng. Không ngờ
Strobile, đầy tớ của Mégadore–Lyconide được Megadore sai bám sát ông bố
vợ để tìm hiểu tính khí liệu bề đối xử, nghe được lời cầu khấn bí mật ấy. Ra
khỏi đền, Euclion bắt gặp Strobile, lão tra hỏi vặn vẹo đủ đường rồi cẩn thận
hơn nữa lão lại đem nồi vàng đi giấu chỗ khác. Strobile theo dõi sát và lấy
được nồi vàng. Euclion mất nồi vàng, mất trí, kêu gào, la hét…Lyconide sau
vụ xúc phạm Phedrie hối hận nói thật với mẹ-chị của megadore và xin cưới
Phedrie. Sau khi thu xếp xong với ông cậu, Lýconide đến gặp Euclion thú tội
và xin cưới. Câu chuyện giữa hai người được tác giả viết rất khéo, tạo
ra một kiểu “ông nói gà bà nói vịt”.
Suốt câu chuyện Euclion cứ tưởng là Lyconide thú tội đã ăn cắp vàng.
Cho đến cuối lão với vỡ lẽ ra cái chuyện lôi thôi rắc rối ấy là chuyện xin
cưới. Hồi V của vở kịch, bí mật một số đoạn cuối chỉ biết Strobile kể lại với
cậu chủ Lyconide việc hắn vớ được một nồi vàng với ý định dùng số vàng
dâng cậu chủ để chuộc lại quyền tự do, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Kết thúc
vở kịch Euclion cho con gái nồi vàng và đôi Lyconide–Phedrie lấy nhau. Còn
Euclion nhận ra mình đã tự làm khổ mình quá nhiều, quyết từ nay từ bỏ lối
sống keo kiệt để sống một cuộc đời nhẹ nhõm thư thái hơn.
Theo một cách phân chia ước lệ, Cái nồi là hài kịch tính cách. Vở
kịch phản ánh tình trạng suy đồi, phong hóa trong đời sống ở La Mã, tâm lý
sùng bái của cải tích lũy, keo kiệt đã làm cho con người méo mó, nghèo nàn
đi và trở thành nô lệ một cách kỳ cục cho của cải.
Nghệ thuật cười tập trung vào việc cường điệu tính cách của nhân vật
chính, tạo ra sự đối lập, mâu thuẫn hài kịch in đậm trong vở hài kịch.
Euclion không những keo kiệt mà còn có rất nhiều thói xấu, có lẽ
chính bệnh keo kiệt đã đẻ ra bao nhiêu thói xấu của lão. Lão nghi ngờ tất cả
mọi người mặc dù những người bên cạnh ông không hề xấu như ông nghĩ. Vì
nồi vàng mà lão không hề để ý đến con gái mình phải trải qua những rắc rối

trong chuyện tình cảm, phải khổ đau như thế nào. Nhưng người đọc cũng vui
mừng khi tới cuối tác phẩm Euclion đã nhận ra keo kiệt có ảnh hưởng như thế
nào tới cuộc sống của mình và người thân.
Đây thực sự là một vở kịch hết sức có ý nghĩa, nó giúp người đọc hiểu
hơn về con người và những tính cách của con người trong cuộc sống, tự rút ra
cho mình những bài học đạo đức để hoàn thiện tính cách mỗi người.
2. Nhân vật Sailock trong “Người thương nhân thành Venise” của
Shakespeare
Chiếm một vị trí đặc biệt trong hài kịch của Shekespeare. Tác giả kết
thúc vở kịch bằng tiếng cười chào mừng thắng lợi. Mặc dầu vậy, hình ảnh của
Sailock với tâm địa độc ác, tàn nhẫn của hắn vẫn ám ảnh tâm hồn người xem,
đè nặng lên họ không phải chỉ như một ác mộng thoáng qua mà như một mối
đe dọa khủng khiếp.
Câu chuyện kể lại như sau: Antonio là một thương gia giàu có và nổi
tiếng hào hiệp ở Venise. Để giúp bạn là Baxanio đến xứ Benmont và cầu hôn
nàng Porcia, Antonio vì không sẵn tiền mặt đành phải đến vay Sailock, một gã
Do Thái chuyên cho vay nặng lãi nổi tiếng là keo kiệt và tàn nhẫn.
Sailock xưa nay vẫn căm ghét Antonio đã làm hắn thua thiệt rất nhiều
(chàng sẵn sàng cho vay không lấy lãi hoặc giúp đỡ tiền nong một cách hào
phóng), hơn nữa chàng từng làm nhục hắn, nhổ nước bọt vào hắn, xúc phạm
đến cả dòng giống hắn. Hắn thuận cho Antonio vay với điều kiện, nếu đến kì
hạn mà chàng không trả đủ tiền thì chàng phải cho hắn xẻo ½ livrơ thịt trên
người chàng, xẻo ở chỗ nào mà hắn thích.
Chuyện xảy ra theo y như dự kiến của hắn, Antonio không có tiền trả
nợ. Hắn bèn kiện ra tòa. Ở phiên tòa, mọi người đều khuyên hắn nên có lòng
thương người nhưng hắn khăng khăng đòi phải thi hành cam kết, nghĩa là phải
để hắn xẻo thịt Antonio. Phiên tòa bế tắc trong im lặng ngột ngạt. Giữa lúc đó
Baxanio về. Chàng nghe tin Antonio lâm nạn nên vội vàng từ giã Porcia, giờ
đây đã là vợ mới cưới của chàng – để về Venizo cứu bạn. Chàng ném trả tiền
cho Sailock– hắn từ chối. Chàng bèn cho hắn gấp đôi và có thể trả hắn gấp

mười lần để không còn dính dấp gì với hắn. Nhưng Sailock vẫn khăng khăng
từ chối tiền. Phiên tòa lại bế tắc.
Bỗng xuất hiện một luật sư khôi ngô tuấn tú, theo sau một viên thư kí
cũng tuấn tú, khôi ngô. Sau khi khuyên bảo Sailock nên có lòng khoan dung
và bị hắn bác bỏ, luật sư đề nghị tòa cho Sailock thi hành bản cam kết của đôi
bên, nghĩa là hắn được quyền xẻo ½ livrơ thịt của Antonio nhưng tuyệt đối
không được làm đổ dù chỉ là một giọt máu của chàng. Sailock ngớ ra trước
điều kiện đó, hắn không tính hết mọi nhẽ nên đành chịu từ bỏ ý muốn trả thù,
chỉ xin được trả đủ món nợ mà Antonio đã vay hắn. Luật sư viện dẫn pháp
luật của Venise và đề nghị tòa chiểu theo luật trừng phạt đích đáng kẻ đã bằng
lời nói và bằng hành động đe dọa đến tính mạng và tài sản của một công dân,
hơn nữa lại là một công dân cao quí, là Antonio. Tòa tuyên án tống giam
Sailock, tịch thu toàn bộ tài sản của hắn.
Baxanio mời luật sư và các bạn đến Benmont để mừng thắng lợi và dự
tiệc cưới dở dang (vì có phiên tòa này) của chàng. Giữa tiệc vui mọi người
mới vỡ lẽ rằng luật sư khôi ngô và tài giỏi nọ chẳng phải ai khác mà chính là
nàng Porcia xinh đẹp cải trang.
Khi viết vở hài kịch này Shakespeare muốn hướng sự chú ý vào nhân
vật “chàng thương gia thành Venise”, nhân vật mà ông nhằm đề cao và ca
ngợi. Đó là Antonio, con người trọng nghĩa khinh tài. Chính vì lẽ đó mà chàng
trở nên nổi tiếng và được nhiều người kính trọng. Chàng sẵn sàng đem tài sản
và cả tính mạng của mình ra giúp bạn. Chàng quí trọng tình yêu, tình bạn, tình
người nói chung hơn là đồng tiền.
Tuy nhiên quá trình sáng tạo đã dẫn dắt nhà văn còn phải tập trung vào
làm nổi bật hai nhân vật nữa : Porcia và Sailock. Đây là hai nhân vật đối lập
nhau kịch liệt. Họ đại diện cho hai quan niệm sống trái ngược nhau hoàn toàn.
Nếu như Porcia là một người đại diện cho chủ nghĩa nhân văn thì Sailock đại
diện cho thế giới phản nhân văn.
Một con người keo kiệt đến hết cả tình người, tình thương đối với hắn
là một khái niệm hoàn toàn mơ hồ và xa lạ. Hắn không một có một chút tình

người, có lẽ vậy thế giới loài người không thuộc về hắn mà ngược lại với lịch
sử tiến hóa hắn thuộc thế giới loài quỉ dữ. Shakespeare đã hơn một lần gọi
đích danh hắn là quỉ ác.
Một số nhà phê bình cho rằng với việc xây dựng nhân vật Sailock như
vậy, Shakespeare đã bộc lộ tư tưởng bài Do Thái của ông. Đây chưa hẳn là
một nhận định đúng, không ở đâu trong vở hài kịch này quyền làm người của
người Do Thái lại được khẳng định rõ ràng đến thế, hùng hồn đến thế : “ta là
một người Do Thái. Vậy người Do Thái không có mắt à ? Người Do Thái
không có mặt mũi, tay chân như một giáo dân Cơ đốc à ? Về mùa hè nó không

×