Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên cnxh ở việt nam sự vận dụng của đảng trong phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.16 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGOẠI NGỮ KINH TẾ
Chuyên ngành: Tiếng anh thương mại
~~~~o0o~~~~

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm
hiểu và phân tích quan
điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong
thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?

Họ và tên sinh
viên Mã sinh viên
Lớp tín chỉ
Giảng viên

: NGUYỄN HÀ ANH
: 11216404
: LLTT1101(222)_05
: TS. NGUYỄN CHÍ THIỆN

Hà nội, 2023
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH


TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.............4
1


1.1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................................................4

2


1.2. Khái niệm cơ cấu thành phần kinh tế......................................................................5
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.............................................................................................5
1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................................................................................7
1.4.1. Sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
7
1.4.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............................................................................8
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. .12
2.1. Thực tiễn vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế của
Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
hiện nay..........................................................................................................................12
2.2. Thành tựu vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế. 16
2.3. Hạn chế khi vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế
....................................................................................................................................... 18
2.4. Giải pháp.................................................................................................................19
KẾT LUẬN.......................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................22


--- MỞ ĐẦU --Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, là nhà tư tưởng lỗi lạc
của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Bằng sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Người đã đề ra những
đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trên
3


cương vị lãnh đạo

4


quốc gia, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo rất đúng đắn và
sâu sắc về xây dựng và phát triển kinh tế xuất phát từ thực tiễn Việt Nam lúc bấy giờ là
một nước nghèo với nền nông nghiệp lạc hậu thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một khoảng thời gian lâu dài và
gian khổ vì một chế độ này biến thành một chế độ khác triệt để và toàn diện trên tất các các
lĩnh vực vốn là một cuộc đấu tranh gay go và kịch liệt, giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái
mới. Để thực hiện thành công thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội phải giải quyết
những nhiệm vụ về kinh tế, chính trị. Trong đó trọng tâm là những nhiệm vụ về kinh tế.
Chính nhờ quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sau hơn 35 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI, đất nước ta đã thu được những thành tựu vượt trội về kinh tế. Qua
đó, Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế của đất nước cũng như ngày
càng hồn thiện thể chế kinh tế, chính trị, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh
tranh.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận
đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước
ta trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ thêm quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ
cấu thành phần kinh tế và đánh giá quá trình vận dụng quan điểm này trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam hiện, nay, em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu và phân tích quan
điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam? Sự vận dụng của Đảng trong phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay?” Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm
của chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở nước ta đồng thời đánh giá và đưa ra một số
giải pháp trong quá trình vận dụng quan điểm này của Bác.

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU THÀNH PHẦN
KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
5


Trên cơ sở học thuyết của C.Mác về phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa,
V.I.Lênin đã đưa ra học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đó bộ phận quan trọng
của nó là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã xác định rõ: “Thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã
hội cũ thành xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vơ sản
giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng
thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản
xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ
nghĩa”.
Theo quan điểm của Mác – Ăng ghen khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản trong
giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh, Mác và Ăng ghen hy vọng chủ yếu vào hình thức quá độ
trực tiếp từ những nước tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Còn theo quan điểm của Lê
nin, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, căn cứ vào lý luận của chủ nghĩa Mác, Lê nin đã

đưa ra hình thức quá độ thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước tư
bản phát triển cịn thấp, hoặc những nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chưa trải
qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, khi có những điều kiện cụ thể, nhất là trong điều
kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo và được các lực lượng tiến bộ
quốc tế giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tình tình thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Con đường
cách mạng Việt Nam trải qua hai tiến trình, tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ là thời kỳ nối tiếp tất yếu
của hai tiến trình trên. Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam thuộc
hình thái quá độ gián tiếp từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sau khi giành được độc lập
dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã làm phong
phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, đặc điểm lớn nhất khi bước vào thời kỳ quá độ ở nước ta là:
"Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Đặc điểm này sẽ chi phối, quy định tồn bộ nội dung,
hình thức, bước đi, cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đặc điểm này, Hồ Chí Minh
cho rằng: "Tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể một sớm, một chiều. Đó là cả một cơng tác
tổ chức và giáo dục. Việt Nam ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi xã hội
cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn đánh giặc. Chủ nghĩa xã hội không thể làm
6


mau chóng được, phải làm dần dần". Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
vừa có hịa bình, vừa có chiến tranh;

7


đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, phản ánh đúng thực chất và quy luật phát

triển của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến
nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo
và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong
điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ. Điều
này đòi hỏi phải áp dụng tồn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
1.2. Khái niệm cơ cấu thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là những khu vực kinh tế, những hình thức kinh tế dựa trên
những hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và thích ứng với trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất. Như vậy, khi định nghĩa thành phần kinh tế sẽ cần phải căn cứ vào quan
hệ kinh tế mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, do đó thành phần kinh tế
cũng có nghĩa là chế độ kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta không sử
dụng thuật ngữ thành phần kinh tế mà dùng thuật ngữ khu vực kinh tế, nhưng cũng căn cứ
vào vốn, tài sản thuộc về ai. Do đó, thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ
kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh
tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ
cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế được hiểu là cơ cấu kinh tế trong đó mỗi bộ phận hợp
thành là một thành phần kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế có thể được xem xét trên phạm
vi toàn bộ nền kinh tế, hay theo từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ. Cơ sở để hình
thành cơ cấu thành phần kinh tế là chế độ sở hữu.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, là phát triển nhiều thành phần kinh tế, quan điểm này được Lênin đưa ra
trong Chính sách kinh tế mới, để thay thế cho Chính sách cộng sản thời chiến đã lạc hậu và
kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời, Lênin coi việc phát triển các thành phần kinh tế,
trong đó trọng tâm là chủ nghĩa tư bản nhà nước là nhịp cầu tiến lên chủ nghĩa xã hội từ
một nền kinh tế tiểu nơng. Đó là "một bước lùi" về mặt "lịch sử", nhưng lại là một bước

tiến lớn hợp quy luật lịch sử - tự nhiên trong hiện thực. Và trong tác phẩm "Bàn về thuế
lương thực", Lênin đã nêu ra các thực thể kinh tế trong xã hội lúc bấy giờ. Ông viết: "Chúng
ta hãy kể ra những thành phần kinh tế ấy:
8


1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên.
2. Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lúa mì).
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5. Chủ nghĩa xã hội".
Như vậy Lênin nêu ra 5 thành phần kinh tế và thứ tự các thành phần kinh tế được
Lênin sắp xếp một cách có chủ đích và hàm chứa ý nghĩa phương pháp luận. Thứ tự đó
phản ánh trình độ sản xuất, các hình thức vận động của chế độ sở hữu trong tiến trình lịch
sử từ thấp đến cao đồng thời còn thể hiện cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa
của mỗi thành phần kinh tế. Trong một nước tiểu nông, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
phải trải qua một quá trình lâu dài, trải qua nhiều nấc thang trung gian, trong đó, thành
phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước có vị trí, vai trị rất cao, được xem là “chiếc cầu
nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ
nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ đặc biệt” mà còn là khâu “trung
gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội. Về thành phần kinh tế sản
xuất hàng hóa nhỏ, phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nơng dân, mà trước hết là từ
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông để
khôi phục và phát triển đại công nghiệp. Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế
mới được áp dụng trong thực tiễn nước Nga, Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sống
lại, nhưng ơng cho rằng khơng sợ nó, mà kiêu gọi Chính quyền Xơ viết cần sử dụng tư
nhân nơng dân, thợ thủ công, thương nhân…để phát triển kinh tế đất nước, bởi vì tư bản tư
nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính trị. Lênin đánh giá
rất cao vị trí, vai trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội, đây là xương sống của nền
kinh tế - những mạch máu kinh tế cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng

ln thuộc sở hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới được thực hiện, Lênin chủ
trương các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ tự hồn vốn, chế độ hạch tốn kinh
tế, các xí nghiệp này được giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm vật chất với kết quả
hoạt động của mình. Tóm lại, Lênin cũng cho rằng, sự tồn tại và phát triển các thành phần
kinh tế khác nhau, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh dựa trên chế độ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, dẫn đến có sự đối lập nhau về lợi ích là điều hiển nhiên, khơng thể
dùng ý chí chủ quan hay sức mạnh hành chính mà phủ nhận sự đối lập đó dẫn đến xóa bỏ
các thành phần kinh tế.
Tóm lại, tuy tư tưởng trên của Lênin chưa được hoàn thiện trong chính sách kinh tế
mới
NEP, song việc thực hiện "chính sách kinh tế mới” đã tạo điều kiện phát triển lực lượng
9


sản xuất, vì nó đáp ứng được u cầu của các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là phát triển nhiều thành phần kinh tế.

10


1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.4.1. Sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Sở hữu là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ giữa người với người trong việc
chiếm hữu của cải. Quan hệ sở hữu là hình thức xã hội của hành vi chiếm hữu, là quan hệ
kinh tế, là cơ sở của những quan hệ xã hội. Trong quan hệ sở hữu của cải vật chất thì quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong lịch sử phát triển của nền sản
xuất xã hội, chủ sở hữu có thể thống nhất ở một người, có thể tách bạch ở nhiều người; có
thể là sở hữu riêng của tư nhân (sở hữu tư nhân) hay sở hữu chung của cộng đồng, của xã
hội (sở hữu công cộng). Bên cạnh hai loại hình đó là hình thức sở hữu hỗn hợp. Sự xuất

hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động, biến đổi làm cho quan
hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất cũng không ngừng vận động,
biến đổi.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến và nền kinh tế đan
xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Điều đó có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất
ở nước ta cịn rất thấp kém và do đó sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn phù hợp
với trình độ của lực lượng sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Bởi vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất chẳng những khơng cần phải xố bỏ mà còn cần được tạo mọi điều kiện để
phát triển. Hồ Chí Minh khẳng định: Đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với
nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi cơng (có mầm mống xã hội
chủ nghĩa) tiến lên hợp tác xã cấp thấp (nửa xã hội chủ nghĩa) rồi tiến lên hợp tác xã bậc
cao (xã hội chủ nghĩa). Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cịn thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất
yếu của các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa. Người nhận định: Trong nước ta
hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như:
1. Sở hữu nhà nước tức là sở hữu toàn dân
2. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân đã lao động
3. Sở hữu của người lao động riêng lẻ
4. Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản
Từ việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu, Hồ Chí Minh cho rằng việc tồn tại nhiều
thành phần kinh tế là yếu tố khách quan của nền kinh tế Việt Nam. Trên thực tế, ngay sau
khi miền Bắc giành được độc lập. Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện nhất quán một cơ
11


cấu các thành

12



phần kinh tế và ít nhiều thu được thành tựu khi đã tập chung tối đa các nguồn lực đất nước
thực hiện thành công mọi mục tiêu cách mạng.
1.4.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin về những nguyên lý kinh tế, Hồ Chí Minh
đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam để xác định chiến lược xây dựng
phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người chủ
trương xóa bỏ dần sự bóc lột của tư bản chủ nghĩa: “Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta
nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa
ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện’’.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế nói chung, từng thành phần
kinh tế nói riêng được thể hiện khá rõ trong “Hồ Chí Minh tồn tập”, nhưng rõ nhất trong
hai tác phẩm là “Thường thức chính trị” (năm 1953) và “Báo cáo Dự thảo Hiến pháp (năm
1959)”. Theo đó, về cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Hồ Chủ tịch cho rằng, “có nước thì đi lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như
Liên Xơ, có nước phải kinh qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội” như các
nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Có thể hiểu “chế độ dân chủ mới” theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó
là giai đoạn lịch sử tương ứng với khái niệm “thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” của
nước ta hiện nay. Người lý giải, nước ta phải trải qua một giai đoạn dân chủ mới vì "đặc
điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Bác đã phân tích: “Trong
sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là
trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm,
vừa học và có thể vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức
tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời”.
Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập đến cơ cấu các thành phần kinh tế và cơ

cấu ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Trước cuộc kháng chiến năm 1953, theo quan
điểm của Hồ Chí Minh cơ cấu gồm 6 thành phần là: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột
địa tơ; kinh tế quốc doanh; kinh tế hợp tác xã; kinh tế cá thể của nông dân và của thủ công
nghệ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia.
Tuy nhiên, khi chế độ dân chủ mới ở nước ta ngày càng phát triển, kinh tế địa chủ
phong kiến bị loại bỏ. Vì vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ còn 5 thành
13


phần

14


kinh tế cịn lại. Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh cũng
đã nêu rõ bản chất của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hoá các thành phần
kinh tế. Trước hết, Hồ Chí Minh nêu rõ “Hiện nay nước ta (vùng tự do) có 5 thành phần
kinh tế sau:
1. Kinh tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội. Vì tài sản các xí nghiệp ấy là
của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí nghiệp quốc
doanh thì xưởng trưởng, cơng trình sư và cơng nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là
chủ nhân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân.
2. Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã
hội. Nhân dân góp nhau để mua những thứ minh cần dùng, hoặc để bán những thứ mình
sản xuất khơng phải kinh qua các người con bn, khơng bị họ bóc lột. Các công hội đổi
công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã.
3. Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghiệp, họ thường tự túc ít có gì
bản và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu.
4. Kinh tế tư nhân tư bản. Họ bóc lột cơng nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần
vào xây dựng kinh tế.

5. Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do
Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà
nước là chủ nghĩa xã hội.” (Hồ Chí Minh tồn tập, Nhà XBCTQG, 2000, T.7, Tr.221).
Với 5 thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã phân tích
rất rõ vai trị của từng thành phần kinh tế.
Thành phần kinh tế quốc doanh theo Hồ Chí Minh thì đây là thành phần kinh tế
cơ bản, quan trọng nhất vì nó “có tính chất chủ nghĩa xã hội, vì tài sản của các xí nghiệp ấy
là của chung của nhân dân, của Nhà nước chứ không phải của riêng. Trong xí nghiệp quốc
doanh thì xưởng trưởng, cơng trình sư và cơng nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều
là chủ nhân, việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của chính phủ nhân dân” (T.7,
Tr221). Hồ Chí Minh cịn chỉ ra vị trí quan trọng của kinh tế quốc doanh “... công tư đều
lợi. Kinh tế quốc doanh là cơng, nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới,
cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những
người phá hoại nó, trộm cắp của cơng, khai gian lận thuế thì phải trừng trị” (T.7, Tr 221).
Đối với hợp tác xã đây là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và đề cập từ
rất sớm. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”. Người cho rằng “hợp tác xã là “góp gạo
thổi cơm chung” cho khỏi hao của tốn cơng, lại có nhiều phần vui vẻ” (T2, Tr.313). Trong
“Thưởng thức chính trị” Hồ Chí Minh đã coi “hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có
15


tính chất nửa chủ nghĩa xã hội, nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng hoặc
bán những thứ mình

16


sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, khơng bị bóc lột. Các hộ đổi cơng ở
nơng thơn cũng là một loại hợp tác xã” (T.7, Tr.221).
Để thành lập các hợp tác xã phải trên nguyên tắc tổ chức và nhận thức rõ: tổ đổi

công, hợp tác xã là phải tự nguyện nghĩa là tuyên truyền giải thích ai muốn vào thì vào
khơng phải nắm cổ kéo người ta vào. Tuy nhiên, những quan niệm ban đầu của Hồ Chí
Minh về hợp tác xã vẫn cịn đơn giản, phiến diện. Nhưng dù sao trong bối cảnh xây dựng
chủ nghĩa xã hội chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp thì những quan niệm của Hồ Chí Minh về
hợp tác xã vẫn mang tính độc lập và sáng tạo cao.
Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, Người đã phân tích thành
phần kinh tế này “Họ thường tự túc, ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một kinh tế
lạc hậu”. Song thành phần kinh tế này “đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng
kinh tế nước nhà” (T.7, Tr.222) mặc dù thành phần kinh tế này bé nhỏ, lạc hậu và năng suất
thấp.
Về kinh tế tư bản tư nhân, Hồ Chí Minh chỉ rõ “Họ bóc lột cơng nhân nhưng
đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho xây
dựng nước nhà. Vì vậy chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của cơng nhân. Đồng thời vì vậy
lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức”
(T.2, Tr.222).
“Kinh tế tư bản quốc gia là nhà nước là nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh
doanh và do nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản, tư
bản của nhà nước là chủ nghĩa xã hội”. Đến năm 1959, trong báo cáo về Dự thảo Hiến pháp
sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khố I, Hồ Chí Minh viết “Đối với những nhà tư bản
công thương, nhà nước khơng xố bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của
họ mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế
hoạch kinh tế nhà nước. Đồng thời, nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác” (T.9,
Tr.589).
Trên cơ sở phân tích các thành phần kinh tế ở vùng tự do như trên, Hồ Chí Minh
cho rằng: Để đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. cần phải cỏ chính sách
phù hợp đối với các thành phần kinh tế. Các chính sách của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần đó có thể khái quát xác định trên 4 mặt chính:
1. Cơng tư đều có lợi, kinh tế quốc doanh là cơng. Phải ra sức ủng hộ nó phát triển,
trừng trị kẻ phá hoại, trộm cắp, trốn thuế... Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá

nhân của nông dân và thủ công nghệ, cần phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia,
17


phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.

18


3. Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thử cần dùng
khác, để cung cấp cho nơng dân. Nơng dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương
thực và các thứ ngun liệu cho cơng nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa cơng
nơng.
4. Lưu thơng trong ngồi. Ta ra sức khai làm thổ sản để bản cho các nước bạn và
để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta
những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có
lợi cho kinh tế ta.
Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta".
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng cơ cấu thành phần
kinh tế với định hướng rõ ràng. Đó là phát triển các thành phần kinh tế định hướng xã hội
chủ nghĩa và đặt nền kinh tế quốc doanh làm nền tảng, là nền kinh tế lãnh đạo bởi vì đây
“làm địn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường,
hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để
Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới".
Hồ Chí Minh cũng có quan điểm khách quan với kinh tế tư bản tư nhân trong nước

vì nhìn thấy đặc điểm riêng của giai cấp tư sản Việt Nam. Đó là "giai cấp tư sản ở ta thì họ
có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước", cho nên, "nếu mình thuyết phục khéo,
lãnh đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội". Bên cạnh đó, Người cũng rất quan
tâm đến việc làm ăn, phát triển kinh tế, đầu tư của người nước ngồi tại Việt Nam: "Các
bạn, người bn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, cơng nhân và trí thức, đã chung
sống với nhân dân Việt Nam. Các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở Việt Nam. Những hoạt
động chính đáng về kinh tế và văn hóa của các bạn cũng có lợi cho Việt Nam. Vì vậy tơi
khun các bạn: Các bạn cứ yên lòng làm ăn như thường. Nhân dân và Chính phủ Việt
Nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn".
Thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu dài của các thành phần kinh tế không xã hội
chủ nghĩa là sự vận dụng sáng suốt những quan điểm Mác-xít của Hồ Chí Minh trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ. Mặt khác với đường lối xây dựng, phát triển cơ
cấu các thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh đã huy động được sức mạnh của tồn dân tộc có
liên minh cơng nơng trí thức làm gốc cùng tiến vào thời kỳ mới của dân tộc – xây dựng
19


thành cơng chủ nghĩa xã hội, hồn thành khát vọng của dân tộc: Độc lập dân tộc và tự do
hạnh phúc cho toàn dân. Đây cũng là giải pháp quan trọng nhằm giải phóng sức sản xuất,
khơi dậy tiềm năng của đất nước.

20



×