Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
Nguyễn Thị Hồng thắm
Hình
Hình
thành
thành
kỹ
kỹ
năng
năng
dạy
dạy
học
học
môn
môn
toán
toán
cho
cho
sinh
sinh
viên
viên
ngành
ngành
giáo
giáo
dục
dục
tiểu
tiểu
học
học
Luận văn thạc sĩ giáo dục học
2
Vinh - 2007
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
Nguyễn Thị Hồng thắm
Hình
Hình
thành
thành
kỹ
kỹ
năng
năng
dạy
dạy
học
học
môn
môn
toán
toán
cho
cho
sinh
sinh
viên
viên
ngành
ngành
giáo
giáo
dục
dục
tiểu
tiểu
học
học
Chuyên ngành: Giáo dục học (Cấp tiểu học)
Mã số: 60 14 01
Luận văn thạc sĩ giáo dục học
Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn bá minh
Vinh - 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của
bản thân, chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
hướng dẫn TS. Nguyễn Bá Minh và sự góp ý tận tình của các thầy giáo,
cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học trường Đại học Vinh, các thầy, cô
giáo phản biện, sự khích lệ động viên của học viên lớp CH13 chuyên
ngành Giáo dục học (cấp tiểu học), sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn SV
khoá 44 ngành GDTH và của tập thể GV các trường tiểu học trên địa
bàn huyện Can Lộc - Hà Tĩnh.
Chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
thầy giáo hướng dẫn cùng các thầy, cô giáo trong khoa, các thầy cô
giáo phản biện và các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy khoá CH13 -
chuyên ngành Giáo dục học (cấp tiểu học).
Mặc dù đã hết sức cố gắng, song luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô giáo và
các bạn.
Vinh, tháng 12 năm 2007.
Tác giả
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN
CBQL : Cán bộ quản lí
DH : Dạy học
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
GDTH : Giáo dục tiểu học
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
KN : Kĩ năng
KNDH : Kĩ năng dạy học
PPDH : Phương pháp dạy học
TH : Tiểu học
SGK : Sách giáo khoa
SV : Sinh viên
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu 4
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 4
1.2. Một số khái niệm cơ bản 6
1.2.1. Kĩ năng 6
1.2.1.1. Khái niệm về KN 6
1.2.1.2. Phân biệt kĩ năng và kĩ xảo 8
1.2.2. Quá trình dạy học 9
1.2.3. KN dạy học 10
1.2.3.1. Khái niệm về KNDH 10
1.2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành KNDH
cho SV 10
1.2.3.3. Hệ thống KNDH 11
1.2.3.4. Cấu trúc của KNDH 15
1.2.3.5. Hình thành KNDH 15
1.2.4. KN dạy học môn Toán 16
12.4.1. Khái niệm 16
1.2.4.2. Cấu trúc KNDH môn Toán ở TH 16
1.2.4.3. Quá trình hình thành KNDH môn Toán của SV
ngành GDTH 17
1.3. Khái quát về môn Toán ở TH 22
1.3.1. Mục tiêu 22
1.3.2. Đặc điểm môn Toán ở TH 23
1.3.3. PPDH môn Toán ở TH 28
1.4. Ý nghĩa của việc hình thành KNDH môn Toán cho SV ngành GDTH
36
1.5. Tiểu kết chương 1 37
7
Chương 2: Thực trạng KNDH môn Toán của GVTH 39
2.1. Khảo sát thực trạng 39
2.1.1. Mục đích khảo sát 39
2.1.2. Đối tượng khảo sát 39
2.1.3. Nội dung khảo sát 39
2.1.4. Phương pháp điều tra khảo sát 40
2.2. Phân tích kết quả 40
2.2.1. Thực trạng nhận thức của GVTH về KNDH 40
2.2.2. Thực trạng nhận thức của GVTH về KNDH môn Toán 43
2.2.3. Thực trạng KNDH môn Toán của GVTH 45
2.2.4. Thực trạng rèn luyện KNDH môn Toán của SV ngành GDTH
54
2.3. Kết luận chương 2 58
Chương 3: Quy trình hình thành KNDH môn Toán cho SV ngành GDTH
60
3.1. Nguyên tắc xây dựng quy trình 60
3.1.1. Nguyên tắc mục tiêu 60
3.1.2. Nguyên tắc hệ thống 60
3.1.3. Nguyên tắc hiệu quả 60
3.1.4. Nguyên tắc khả thi 61
3.2. Những KNDH cơ bản của môn Toán cần hình thành cho SV ngành GDTH
61
3.2.1. KN tổ chức, giám sát hoạt động học tập cho HS 62
3.2.2. KN dự đoán và xử lí các tình huống sư phạm xảy ra trong giờ
học Toán 67
3.2.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi hình thành KNDH môn Toán cho
SV ngành GDTH 68
3.3. Quy trình hình thành KNDH môn Toán của SV ngành GDTH 69
3.3.1. Quy trình chung 69
3.3.2. Quy trình cụ thể 70
3.3.3. Các mức độ hình thành KNDH môn Toán cho SV ngành GDTH
80
9
3.4. Đánh giá tính khả thi của quy trình 85
3.4.1. Quá trình hình thành một số KNDH môn Toán 85
3.4.2. Kết quả bảng đánh giá tính khả thi của quy trình 88
3.5. Kết luận chương 3 88
Kết luận và kiến nghị 90
Tài liệu tham khảo 92
Phụ lục
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việc hình thành KN sư phạm nói chung và KNDH nói riêng là một
trong những mục tiêu cơ bản của quá trình đào tạo GVTH có trình độ đại học
theo chương trình mới. Đào tạo GVTH cần kiên trì với mục tiêu lấy việc hình
thành KN của nghề dạy học làm đặc trưng nổi bật cho quá trình đào tạo ở
trường sư phạm. Tuy nhiên, mặt đào tạo này cho đến nay vẫn chưa đạt kết quả
như mong muốn, chưa tương ứng với vốn tri thức mà sinh viên được trang bị
và chưa thể hiện được sự khác biệt về chất so với các hệ đào tạo khác thấp
hơn. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do nội dung, cấu trúc, và quá
trình hình thành các KNDH ở trường sư phạm vẫn có những vấn đề chưa
tường minh. Bậc tiểu học có những đặc thù riêng, mỗi GV sẽ phải dạy tất cả
các môn học. Do vậy, trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm, việc hình
thành KN đòi hỏi phải chi tiết, đi vào từng môn học cụ thể và có quy trình rèn
luyện riêng cho mỗi môn. Có như vậy mới cung cấp cho SV một vốn KN
nghề nghiệp cơ bản, tối thiểu cần thiết một cách chắc chắn, đạt được một
trong những chuẩn nghề nghiệp của GVTH và tương ứng với trình độ đào tạo
để họ có thể hoàn thành tốt ngay từ đầu nhiệm vụ dạy học ở trường tiểu học.
Việc hình thành KNDH môn toán cho SV ngành GDTH hiện nay cũng
không nằm ngoài quỹ đạo đó. Hầu hết các trường sư phạm vẫn chưa xây dựng
được quy trình rèn luyện KNDH môn Toán cho SV, hoạt động rèn luyện KN
của SV đang còn mang tính chất tự mò mẫm là chủ yếu. Do vậy trong quá
trình thực hiện họ còn gặp nhiều lúng túng và kết quả thu được từ hoạt động
này nói chung là chưa cao. Chính vì vậy việc xây dựng một quy trình rèn
luyện KNDH môn Toán cho SV ngành GDTH đang là một vệc làm cấp bách
để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho SV, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
11
phương pháp cũng như nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở cấp Tiểu
học hiện nay.
Từ những lí do trên chúng tôi quyết định đi đến chọn đề tài nghiên cứu
là: “Hình thành kỹ năng dạy học môn Toán cho sinh viên ngành Giáo dục
tiểu học”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho
SV ngành GDTH.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động rèn luyện KNDH của SV ngành GDTH.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung và quy trình hình thành KNDH môn Toán cho SV ngành GDTH
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Nghiên cứu lí luận: Làm rõ một số vấn đề về KN, KNDH và
KNDH môn Toán.
4.2. Nghiên cứu thực trạng: Tìm hiểu thực trạng nhận thức của GVTH
về KNDH nói chung và KNDH môn Toán nói riêng, thực trạng KNDH môn Toán
của GVTH và thực trạng rèn luyện KNDH môn Toán của SV ngành GDTH.
4.3. Xây dựng quy trình hình thành KNDH môn Toán cho SV ngành
GDTH và kiểm tra tính khả thi, tính hiệu quả của quy trình.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nội dung và quy trình hình thành KNDH môn Toán được xây dựng có
thể góp phần nâng cao chất lượng của quá trình hình thành KNDH môn Toán
nói riêng cũng như KNDH nói chung cho SV ngành GDTH.
12
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận, bao gồm những phương pháp:
Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết; khái quát hoá các quan điểm…vv
6.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm các phương pháp:
Điều tra; lấy ý kiến chuyên gia; tổng kết kinh nghiệm giáo dục vv
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hoá một số vấn đề về: KN, KNDH và KNDH môn Toán ở
tiểu học.
- Làm rõ thực trạng KNDH môn Toán của GVTH và việc hình thành
KNDH môn Toán cho SV ngành GDTH.
- Đề xuất, xây dựng quy trình rèn luyện KNDH môn Toán cho SV
ngành GDTH.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận văn
gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương 3: Quy trình hình thành KNDH môn Toán cho sinh viên ngành
GDTH.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cần nhấn mạnh rằng vấn đề KNDH không phải là mới. Ngay từ những
năm 20 ở Liên Xô và các nước Đông âu đã có nhiều công trình nghiên cứu
KNDH cho SV sư phạm và đến những năm 1960 vấn đề nghiên cứu trên đã
trở thành hệ thống lí luận và kinh nghiệm vững chắc với những công trình của
N.V.Kuzmina, O.A.Abdoullina, N.V.Bondyrev vv.
Vào những năm 1970 nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức lao động
khoa học và tối ưu hoá quá trình dạy học đã được tiến hành, như công trình
của M.Ia.Côvaliôv, Iu.Kbabanxki, N.I.Bondurev. Đáng chú ý hơn cả là công
trình nghiên cứu của X.I.Kixêgôv: “Hình thành KN, kĩ xảo sư phạm trong
điều kiện giáo dục đại học”. Tác giả nêu ra hơn 100 KN nghiệp vụ giảng dạy
và giáo dục, trong đó tập trung 50 KN cần thiết được phân chia luyện tập theo
từng thời kì thực hành, thực tập sư phạm cụ thể.
O.A.Abdoullina cũng đã luận chứng và đưa ra một hệ thống các KN
giảng dạy và KN giáo dục riêng biệt và được mô tả cụ thể theo thứ bậc.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu nói trên đã đưa ra một hệ
thống lí luận tương đối cơ bản về quá trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Tuy
nhiên, thời đại ngày nay đã có nhiều thay đổi lớn, đặc biệt sự phát triển của
khoa học công nghệ đã làm thay đổi chức năng và nhiệm vụ của người GV,
đòi hỏi người GV phải có những KN và năng lực mới, đồng thời một số KN
và năng lực cũ không còn phù hợp nữa cần phải có sự cải tiến, bổ sung, thay
đổi sao cho phù hợp với điều kiện hiện tại. Do đó cần có sự nghiên cứu
nghiêm túc hơn về vấn đề này.
Ở một số nước phương Tây, các công trình nghiên cứu của J.Watshon
(1926), A.Pojoux (1926), F.Skinner (1963) đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức
14
huấn luyện các KN thực hành giảng dạy cho giáo sinh, dựa trên những thành
tựu của tâm lí học hành vi và tâm lí học chức năng.
Tại trường đại học quốc gia Ohio của Mỹ từ những thập niên 1970 đã có
những nghiên cứu triển khai trong việc xây dựng các môdun đào tạo GV kĩ thuật
- nghề nghiệp. Kết quả đưa ra được 600 KN đào tạo GV kĩ thuật- nghề nghiệp.
Trong các báo cáo ở: “Hội thảo về canh tân việc đào tạo bồi dưỡng GV
của các nước châu Á và Thái Bình Dương” do APEID thuộc UNESCO tổ
chức tại Seoul Hàn Quốc cũng đã xác định rõ tầm quan trọng của việc hình
thành tri thức và các KN sư phạm cho SV trong quá trình đào tạo.
Tuy nhiên, việc hình thành KNDH các môn học nói chung và môn
Toán nói riêng (ở tiểu học) cho SV sư phạm thì hầu như chưa thấy tác giả
nào đề cập tới.
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực sư phạm đã có nhiều công trình nghiên cứu
với nhiều góc độ khác nhau.
Vấn đề KN giảng dạy, nhiều tác giả xem đó như là những biện pháp thủ
thuật để thực hiện PPDH đạt kết quả cao (Lê Khánh Bằng, Đặng Vũ Hoạt,
Nguyễn Viết Sự ). Ở một số giáo trình tài liệu, các tác giả đã đi sâu vào việc
hướng dẫn các KN giảng dạy, các PPDH mới, KN thực tập sư phạm. Có
nhiều tác giả đã trình bày một cách hệ thống, toàn diện các KN sư phạm.
Năm 1995, một công trình nghiên cứu có giá trị về vấn đề rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm cho SV là đề tài: “Hình thành KN sư phạm cho giáo sinh
sư phạm” của Nguyễn Hữu Dũng. Trong đề tài này tác giả đã làm sáng tỏ cơ
sở lí luận về KN sư phạm, vị trí của KN sư phạm trong việc hình thành năng
lực sư phạm cho SV.
Sau này có nhiều đề tài cấp bộ, nhiều luận án tiếp tục tìm hiểu KN sư
phạm và con đường hình thành những KN đó cho SV. Đáng chú ý là luận án
của tác giả Nguyễn Như An: “Hệ thống KN dạy học trên lớp về môn giáo dục
học và quy trình rèn luyện KN đó cho SV khoa Tâm lí - Giáo dục”. Đây là
15
công trình nghiên cứu tương đối cơ bản, có hệ thống về vấn đề luyện tập các
KN giảng dạy cho SV. Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Anh Tuấn (1996):
“Xây dựng quy trình luyện tập các KN giảng dạy cơ bản trong các hình thức
thực hành thực tập sư phạm”, cùng với việc chỉ ra các nhóm KNDH cần thiết
tác giả cũng đã hình thành quy trình rèn luyện các KN đó cho SV trong các
đợt thực hành, thực tập sư phạm.
Tác giả Nguyễn Đình Chỉnh cũng quan tâm đến việc hình thành KN
nghề nghiệp cho SV ngành GDTH. Tác giả đã xây dựng quy trình luyện tập KN
nghề nghiệp cho SV gồm hai giai đoạn: Giai đoạn luyện tập cơ bản và giai đoạn
luyện tập cũng cố hoàn thiện. Mỗi giai đoạn lại có các bước tiến hành cụ thể.
Gần đây nhất trên các số báo của Tạp chí giáo dục đã đăng một số bài
về việc hình thành KNDH ở một số môn cho SV ngành GDTH. Cụ thể, môn
Đạo đức của tác giả Phạm Minh Hùng (số 136), môn Tập đọc của tác giả Lê
Thanh Bình (số145). Các tác giả đã đưa ra quy trình hình thành KNDH cho
SV ngành GDTH ở từng môn học cụ thể. Đó là một hệ thống thao tác liên tục
với các bước cụ thể.
Việc hình thành KNDH cho SV nói chung và SV ngành GDTH nói
riêng bước đầu đã được quan tâm và đề cập tới ở một số môn học (môn Tiếng
Việt, Đạo đức, Tự nhiên xã hội). Tuy nhiên, việc hình thành KNDH môn
Toán cho SV ngành GDTH thì chưa có tác giả và tài liệu nào đề cập tới.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Kĩ năng
1.2.1.1. Khái niệm
Xem xét các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, thông qua các
khái niệm chúng tôi thấy vẫn tồn tại hai quan niệm khác nhau đôi chút về KN.
Quan niệm 1: Coi KN là mặt kĩ thuật của một thao tác, hành động hay
một hoạt động nào đó. Muốn thực hiện được một hành động, cá nhân phải
16
hiểu được mục đích, phương thức và điều kiện để thực hiện nó. Vì vậy nếu ta
nắm được các tri thức về hành động, thực hiện nó trong thực tiễn theo các yêu
cầu khác nhau tức ta đã có KN về hành động. Theo V.A.Kruchexki thì: “KN là
các phương thức thực hiện hoạt động, những cái mà con người đã nắm vững”.
Ông cho rằng: Chỉ cần nắm vững phương thức của hành động là con người có
KN, không cần đến kết quả hoạt động của cá nhân [5, 78]. Trong cuốn “Tâm lí
học cá nhân”. Côvaliôp.A.G cũng xem: “KN là phương thức thực hiện hành
động phù hợp với mục đích và điều kiện của hành động” [4, 11].
Khi bàn về KN, Trần Trọng Thuỷ cũng cho rằng: “KN là mặt kĩ thuật
của hành động. Con người nắm được cách thức hành động - tức kĩ thuật của
hành động là có KN” [22, 2].
Quan niệm 2: Coi KN không đơn thuần là mặt kĩ thuật của hành động
mà còn là một biểu hiện năng lực của con người. KN theo quan niệm này vừa
có tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt sáng tạo lại vừa có tính
mục đích. Chẳng hạn, theo N.D.Lêvitôp: KN là sự thực hiện có kết quả một
động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp
dụng những cách thức đúng đắn có tính đến những điều kiện nhất định [18, 3].
K.K.Platơnôp, nhà tâm lí học Liên Xô khẳng định: “Cơ sở tâm lí của KN là sự
thông hiểu mối liên hệ giữa mục đích hành động, các điều kiện và phương
thức hành động” [21, 77]. Pêtrôpxki cũng định nghĩa: “KN là sự vận dụng tri
thức, kĩ xảo đã có để lựa chọn và thực hiện những phương thức hành động
tương ứng với mục đích đặt ra” [19, 175].
Trong từ điển Tâm lí học do Vũ Dũng chủ biên đã định nghĩa: “KN là
năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đã được chủ
thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [7, 132].
Có thể thấy, các nhà tâm lí học theo khuynh hướng thứ hai này khi bàn
về KN lại rất chú ý tới mặt kết quả của hành động.
17
Xét về mặt bản chất hai quan niệm trên không phủ định lẫn nhau. Sự
khác biệt là ở chổ mở rộng hay thu hẹp thành phần cấu trúc của KN mà thôi.
Có thể hiểu: KN là khả năng thực hiện có kết quả một hành động hay
một hoạt động nào đó trong những điều kiện nhất định, bằng cách vận dụng
và lựa chọn những tri thức, kinh nghiệm đã có.
Khi bàn về KN cần lưu ý một số điểm sau đây.
- KN trước hết là mặt kĩ thuật của một thao tác hay một hành động nhất
định, không có KN chung chung, trừu tượng tách rời hành động cá nhân của
con người. Khi nói tới KN là nói tới một hành động cụ thể đạt tới mức đúng
đắn và thuần thục nhất định.
- Thành phần của KN bao gồm tri thức, kinh nghiệm đã có, quá trình
thực hiện hành động, sự kiểm soát thường xuyên trực tiếp của ý thức và kết
quả của hành động.
- Tiêu chuẩn để xác định sự hình thành và mức độ phát triển của KN là:
tính chính xác, tính thành thạo, tính linh hoạt và sự phối hợp nhịp nhàng các
động tác trong hành động. Hành động chưa thể trở thành KN nếu hành động
đó còn vụng về, còn tiêu tốn nhiều công sức và thời gian để triển khai.
1.2.1.2. Phân biệt KN và kĩ xảo
Tuy có sự khác nhau đôi chút về định nghĩa, song hầu hết các nhà
nghiên cứu đều thống nhất: “Kĩ xảo là loại hành động được tự động hoá nhờ
luyện tập. Nó có đặc điểm: Không có sự kiểm soát thường xuyên của ý thức,
động tác mang tính khái quát, không có động tác thừa, kết quả cao mà ít tốn
năng lượng thần kinh và bắp thịt” [9, 225].
Kĩ năng và kĩ xảo về bản chất đều là các thuộc tính kĩ thuật của hành
động cá nhân. Chúng đều được hình thành trên cơ sở các tri thức về hành
động đã được lĩnh hội và triển khai trong thực tiễn. Tuy nhiên giữa KN và kĩ
xảo có nhiều điểm khác nhau. Sự khác nhau giữa chúng được đặc trưng bởi
mức độ thuần thục, tự động hoá. So với KN, kĩ xảo thuần thục hơn, tự động
18
hoá hơn và được giải phóng khỏi sự kiểm soát của ý thức. Nói chung, để có
kết quả cao trong hành động mà cá nhân không bị “cộm” trong ý thức thì thao
tác (với tư cách là phương tiện) không chỉ dừng lại ở mức độ KN, nó phải
vươn tới trình độ kĩ xảo. Với tư cách đó, kĩ xảo có tính hoàn thiện cao hơn
KN, được hình thành trên cơ sở KN có trước.
1.2.2. Quá trình dạy học
Quá trình theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt là tổng thể nói
chung những hiện tượng nối tiếp nhau trong thời gian, theo trình tự nhất
định của một sự việc nào đó [27, 787].
Theo đó, quá trình dạy học có thể hiểu là tổng thể các hoạt động
của GV, được sắp xếp theo một trình tự nhất định nhằm tổ chức các hoạt
động giúp HS lĩnh hội các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng.
Quá trình DH (một bài dạy cụ thể) có thể được phân chia thành ba giai
đoạn, trong mỗi giai đoạn lại có những bước tiến hành cụ thể như sau:
* Giai đoạn 1: Thiết kế các hoạt động học tập cho HS
Bước1: Xác định mục tiêu, phân tích nội dung của bài học
Bước 2: Lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức DH sao cho
phù hợp nội dung, đối tượng HS.
Bước 3: Xây dựng cấu trúc các hoạt động DH theo mẫu giáo án hợp lí.
* Giai đoạn 2: Tổ chức các hoạt động học tập của HS.
Bước 1: Giới thiệu bài.
Bước 2: Tổ chức các hoạt động học tập cho HS (thiết lập mối quan hệ
giữa GV với HS, HS với tài liệu học, giữa HS với nhau), giúp HS lĩnh hội tri
thức mới và cách thức hành động mới.
* Giai đoạn 3: Tổng kết, kiểm tra đánh giá.
- Chốt lại kiến thức trọng tâm của bài.
- Kiểm tra lại mức độ kiến thức hiện có của HS.
19
Trên đây là các bước cơ bản đòi hỏi GV phải trải qua trong khi tiến
hành một bài dạy cụ thể. Tương ứng với mỗi bước trong cấu trúc của quy
trình DH sẽ có một hệ thống KNDH tương ứng. Chính vì vậy, đây cũng là
một trong những cơ sở để chúng tôi xây dựng hệ thống KNDH.
1.2.3. Kĩ năng dạy học
1.2.3.1. Khái niệm
Trong luận án tiến sĩ của Nguyễn Như An có đưa ra định nghĩa: “Kĩ
năng dạy học là sự thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt thao tác
phức tạp của một hành động giảng dạy, bằng cách lựa chọn và vận dụng
những tri thức, những cách thức và quy trình đúng đắn”. Tương tự như vậy
trong luận án tiến sĩ của mình tác giả Trần Anh Tuấn cũng đưa ra định nghĩa:
“Kĩ năng dạy học là sự thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt thao
tác phức hợp của một hành động giảng dạy bằng cách lựa chọn và vận dụng
những tri thức chuyên môn và nghiệp vụ cần thiết cho các tình huống dạy học
xác định” [23, 71].
Khi bàn về khái niệm KNDH tác giả Phạm Minh Hùng cho rằng:
KNDH là sự thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt thao tác phức
tạp của một hay nhiều hành động DH bằng cách lựa chọn và vận dụng những
tri thức, những cách thức, những quy trình đúng đắn, đảm bảo cho hoạt động
DH của người GV đạt kết quả cao [14, 10].
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn của chúng tôi sử dụng khái niệm
KNDH theo định nghĩa của tác giả Phạm Minh Hùng.
1.2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành KNDH cho SV
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành KNDH cho SV. Sau
đây chúng tôi sẽ trình bày một số yếu tố cơ bản nhất.
- Hệ thống tri thức là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành KN.
Để hình thành KNDH cho SV cần trang bị cho họ các loại tri thức như: Tri
20
thức chuyên môn; tri thức nghiệp vụ; tri thức về bản thân các KN như quy
trình tập luyện, các yêu cầu thao tác hành động.
- Hệ thống kĩ thuật, thao tác của các hoạt động và các kĩ xảo tương ứng,
hay nói cách khác đây chính là quy trình tập luyện. Nếu SV nào có hệ thống
các thao tác kĩ thuật, các kĩ xảo gần gủi với KNDH thì việc rèn luyện các
KNDH cho SV thuận lợi hơn.
- Biện pháp và phương tiện tập luyện là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ và
trực tiếp đến việc hình thành KNDH của SV. Mỗi biện pháp tập luyện khác
nhau sẽ đưa đến một hiệu quả khác nhau về trình độ KN.
- Quy trình kiểm tra đánh giá cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết quả tập
luyện của SV. Nếu quá trình tập luyện được phân thành những giai đoạn cụ
thể, mỗi giai đoạn đều có sự kiểm tra cụ thể thì kết quả tập luyện của SV chắc
chắn sẽ cao hơn.
- Bản thân mỗi SV là yếu tố quyết định trực tiếp kết quả rèn luyện
KNDH của họ. Các điều kiện bên trong như năng khiếu, tính kiên trì, tính
nghiêm túc, sự sáng tạo… là những yếu tố thuận lợi để rèn luyện KNDH.
Những yếu tố ảnh hưởng này nó sẽ quy định con đường hình thành
KNDH mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.
1.2.3.3. Hệ thống KNDH
Hệ thống KNDH là tổ hợp các KN giúp GV dạy học hiệu quả. Khó có
thể liệt kê đầy đủ được tất cả các KNDH cần có của người GV. Dựa vào cấu
trúc của quá trình dạy học, chúng tôi phân chia thành bốn nhóm KNDH cơ
bản: Nhóm KN hiểu HS; nhóm KN thiết kế kế hoạch dạy học; nhóm KN tổ
chức thực hiện kế hoạch; nhóm KN kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy
học. Trong đó nhóm KN hiểu học sinh và thiết kế kế hoạch dạy học thuộc giai
đoạn thứ nhất của quá trình dạy học, nhóm kĩ năng tổ chức thực hiện kế hoạch
thuộc vào giai đoạn thứ hai và nhóm kĩ năng kiểm tra đánh giá kết quả hoạt
động dạy học thuộc vào giai đoạn thứ ba của quá trình dạy học.
21
a. Nhóm KN hiểu HS
Là khả năng thâm nhập vào thế giới tâm lí của HS. Thể hiện ở việc
người GV xác định được mức độ khối lượng kiến thức đã có ở HS và mức độ
khối lượng kiến thức mới cần tổ chức cho trẻ lĩnh hội. Đồng thời, thông qua
quan sát và kiểm tra có thể xây dựng được những biểu tượng đúng đắn về
nhận thức của mỗi HS, dự đoán được những thuận lợi và khó khăn cũng như
sự căng thẳng cần thiết của các em trong quá trình học tập.
Việc hình thành KN này cho SV trong quá trình đào tạo là rất khó.
Trong trường sư phạm, chỉ bước đầu định hình KN này cho SV mà thôi. Để
có KN hiểu học sinh, người GV phải trải qua rất nhiều kinh nghiệm trong
hoạt động nghề nghiệp.
b. Nhóm KN thiết kế kế hoạch dạy học
Một đặc điểm quan trọng của giáo dục nhà trường là tiến hành có mục
đích, có nội dung, có chương trình, có kế hoạch, có phương pháp dưới sự chỉ đạo
của người GV. Do đó, người GV cần phải có KN xây dựng kế hoạch dạy học.
Nhóm KN thiết kế kế hoạch dạy học bao gồm hệ thống nhóm nhỏ KN sau:
- Nhóm KN phân tích chương trình: Phân tích mục đích yêu cầu của
chương trình bao gồm các yêu cầu tổng quát về tri thức, về KN, về thái độ.
- Nhóm KN lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học.
- Nhóm KN thiết kế bài soạn: Xây dựng được cấu trúc các hoạt động
dạy học, dự kiến được nội dung các hoạt động của thầy và trò, dự kiến phân
phối thời gian, trình bày hoạt động học tập của HS theo mẫu giáo án hợp lí.
- Nhóm KN chuẩn bị bài lên lớp: Đòi hỏi GV nắm vững nội dung tri
thức của bài giảng. Có óc tưởng tượng sư phạm và dự kiến được các tình
huống, cách xử lí tình huống có thể xảy ra trong tiết học.
Có thể hình thành nhóm KN này cho SV ngay từ năm thứ hai, thông
qua việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. Chuẩn bị cho bước rèn
22
luyện cao hơn là kiến tập và thực tập sư phạm. Trong quá trình đào tạo trường
sư phạm có thể rèn luyện cho SV nhóm KN này ở mức thành thạo cơ bản.
c. Nhóm KN tổ chức thực hiện kế hoạch
Việc tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học và giáo dục về cơ bản là hoạt
động chủ yếu của người GV, có tác dụng quyết định đối với chất lượng hiệu
quả của giáo dục và dạy học. Vì vậy, đây là nhóm KN cơ bản nhất cần rèn
luyện cho SV trong quá trình đào tạo. Các KN cụ thể của nhóm này bao gồm:
- KN ổn định tổ chức lớp: Là bước chuẩn bị những điều kiện khách
quan, chủ quan cho việc dạy học.
- Nhóm KN tổ chức các hoạt động học tập của HS: Nhóm KN này bao
gồm một số KN sau.
+ KN giới thiệu bài: Lôi cuốn sự chú ý của HS bằng cách đưa các em
vào những tình huống có vấn đề.
+ KN trình bày bảng: Trình bày bảng đẹp, khoa học và hợp lí.
+ KN trình bày lời giảng: Diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu, tốc độ nói vừa
phải, giọng nói phải chuẩn, phát âm theo tiếng phổ thông. Nên có những
khoảnh khắc dừng lời, nhìn thẳng vào HS để các em tập trung hơn. Nên có
những cách diễn đạt khác nhau để dễ hiểu rõ một vấn đề vv. KN này lại có ý
nghĩa quan cực kì trọng đối với GV tiểu học vì học sinh tiểu học vừa học tri
thức nhưng đồng thời vừa học tiếng.
+ KN đặt câu hỏi: Câu hỏi đặt ra phải tường minh, vừa sức với học
sinh. Câu hỏi phát vấn chủ yếu để chuyển tải tri thức cho học sinh chứ không
phải kiểm tra xem HS có nắm được bài không.
+ KN sử dụng đồ dùng dạy học: Bao gồm KN trình bày thí nghiệm, KN
trình bày biểu bảng, biểu đồ, sơ đồ vv. Đặc biệt ngày nay, có rất nhiều phương
tiện dạy học hiện đại giúp cho việc dạy học thuận lợi hơn, đòi hỏi người GV
phải biết sử dụng chúng như máy tính, máy chiếu kĩ thuật số
23
+ KN làm chủ giáo án, làm chủ thời gian của tiết học. Đảm bảo tốc độ
nhịp độ dạy học vừa phải.
+ KN tổ chức các hình thức học tập khác nhau cho HS ở trong lớp:
Làm việc cá nhân, thảo luận nhóm, cả lớp giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức
và cách thức hành động mới.
- Nhóm KN cũng cố, tóm tắt lại bài giảng, khắc sâu những vấn đề quan
trọng, những kiến thức trọng tâm, có thể thực hiện bằng các phương pháp
như: Phát vấn; cho HS làm bài tập; sử dụng mô hình hệ thống hoá bài học; đặt
những bài tập kiểu gài bẫy cho HS.
Nhóm KN tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học chủ yếu được rèn luyện
trong quá trình SV học phương pháp giảng dạy bộ môn, rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm thường xuyên và trong quá trình kiến tập thực tập sư phạm.
Trường sư phạm có thể hình thành nhóm KN này cho hầu hết SV ở mức
độ làm được trở lên.
d. Nhóm KN kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy học
GV phải có biện pháp kiểm tra đánh giá một cách khách quan, trung
thực, phản ánh đúng thực lực học tập và tu dưỡng của từng HS. Kiểm tra đánh
giá phải toàn diện, tức phải xem xét cả ba mặt của tri thức, KN và thái độ của HS.
Trong dạy học nhóm KN này bao gồm một số KN cụ thể sau:
- KN ra đề thi, kiểm tra.
- KN lập biểu điểm, đáp án rõ ràng, chính xác.
- KN tổ chức thi, kiểm tra. Vừa phải đảm bảo tính nghiêm túc vừa đảm
bảo không khí tự nhiên thoải mái cho HS làm bài.
- KN cho điểm và đánh giá.
- KN trả và chữa bài.
Đây là một trong những KN quan trọng trong quá trình dạy học. Tuy
nhiên việc rèn luyện KN này cho SV ở các trường sư phạm còn hạn chế, chủ
24
yếu sau khi ra trường trong quá trình công tác giảng dạy GV tự mò mẫm và
học hỏi ở các đồng nghiệp có kinh nghiệm.
1.2.3.4. Cấu trúc của KN dạy học
Cấu trúc là toàn bộ nói chung những quan hệ bên trong giữa các thành
phần tạo nên một chỉnh thể [28, 128].
Khi nói đến một cấu trúc bất kì là chúng ta nghĩ ngay đến các thành
phần tạo nên một chỉnh thể cũng như mối liên hệ giữa chúng.
Theo tác giả Phạm Minh Hùng, cấu trúc của KNDH là tập hợp các
hành động nhất định mà nguời GV cần thực hiện thành thạo trong quá trình
dạy học. Các hành động này được sắp xếp theo một hệ thống phù hợp với nội
dung cũng như tiến trình dạy học [14, 11]. Đó là các hành động:
- Xác định mục đích yêu cầu (kiến thức, kĩ năng, giáo dục) và xây dựng
cấu trúc của một bài lên lớp.
- Lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với nội dung bài học.
- Thiết kế và tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp HS chiếm lĩnh
tri thức mới, cách thức hành động mới.
- Tổ chức các mối quan hệ giữa GV và HS, giữa HS và tài liệu học tập,
giữa HS với nhau trong quá trình dạy học.
- Tổ chức quá trình kiểm tra, đánh giá để xác định mức độ tri thức, KN
hiện có của HS.
Các hành động trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi tổ chức
tiến hành rèn luyện KNDH ở bất kì một môn học nào cũng cần tiến hành tuần
tự từng KN một theo trình tự các bước như trên. Khi một GV thực hiện thành
thạo tất cả các hành động này, chúng ta nói ở GV đó đã hình thành được KNDH.
1.2.3.5. Hình thành KNDH
Trong tâm lí học, KN là khả năng của con người thực hiện có kết quả
một hành động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, kinh
25