LỜI NÓI ĐẦU
Sự ra đời và phát triển của các tổ chức tín dụng đặc biệt là hệ thống Ngân
hàng đã làm cho nền kinh tế phát triển một cách hoàn hảo hơn. Nó như một chiếc
“bánh răng” kết nối các chủ thể làm cho nền kinh tế hoạt động một cách ăn khớp và
nhịp nhàng. Trong đó cơ sở để phát triển và phát huy tác dụng của các tổ chức tín
dụng, hệ thống Ngân hàng đó là lãi suất tín dụng. Lãi suất là một yếu tố vô cùng
quan trọng quyết định đến sự sống còn của các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân
hàng và vì vậy nó có tác động vô cùng to lớn đối với mỗi nền kinh tế
Lãi suất đóng vai trò là một công cụ gián tiếp điều tiết vĩ mô được Ngân
hàng Trung Ương sử dụng để thực hiện những mục tiêu chính sách tiền tệ của mình
đó là ổn định giá cả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo công ăn việc làm. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cũng như các nước khác đã vận dụng nó để phục vụ yêu
cầu của mình và khả năng vận dụng chính sách lãi suất đến đâu được phản ánh
thông quả của những lần điều chỉnh lãi suất. Trong phạm vi học tập về lãi suất và
sự chỉ bảo của thầy cô giáo em xin được trình bày đề tài : “Lãi suất tín dụng ngân
hàng và sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam”
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LÃI
SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường do đặc
điểm của chu kỳ sản xuất kinh doanh luôn xảy ra tình trạng tại cùng một thời điểm
có chủ thể kinh tế có nhu cầu về vốn, bổ sung vốn đồng thời lại có chủ thể tạm thời
dư thừa vốn mà họ lại muốn những đồng tiền dư thừa của họ không phải là những
“đồng tiền chết” , nó phải là những đồng tiền biết “sinh sôi”, họ muốn cho vay để
có lãi. Như vậy để đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả của đồng vốn thì các tổ chức tín
dụng và hệ thống Ngân hàng dần dần phát triển, hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu tất
yếu này và cơ sở để cho đồng vốn có thể luân chuyển một cách kịp thời, chính xác
từ người “thừa” vốn sang người “cần vốn” là lãi suất.
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào người vay cũng phải trả thêm một
phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Về cơ bản lãi suất là tỷ lệ phần trăm
tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu.
Một cách ngắn gọn ta có thể hiểu lãi suất chính là giá cả của quyền được sử
dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu
nó. Lãi suất phải được trả bởi lẽ: người đi vay đã sử dụng vốn vay để phục vụ nhu
cầu sinh lợi trong sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng của mình. Việc
người cho vay chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác có nghĩa là anh ta đã hy
sinh quyền sử dụng tiền ngày hôm nay của mình. Đánh đổi cho sự chuyển quyền đó
là quyền mà người cho vay được hưởng thêm 1 khoản trên, được trả lãi suất
2. Phân loại lãi suất
2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất chia làm 3 loại
2
+ Lãi suất ngắn hạn: được áp dụng với các khoản tín dụng ngắn hạn có thời
hạn dưới 1 năm.
+ Lãi suất trung hạn: áp dụng với các khoản tín dụng trung hạn. Thời gian
phụ thuộc vào từng nước có thể từ 1-3 hoặc 5 năm.
+ Lãi suất dài hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn, có thời gian
trên 5 năm trở lên.
2.2.Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất
Lãi suất được chia làm 2 loại:
+ Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất được tính theo giá trị của đồng tiền
tại thời điểm nghiên cứu.
+ Lãi suất thực: là lãi suất được tính theo khối lượng hàng hoá mà
người cho vay nhận được sau một thời hạn cho vay. Mối quan hệ giữa lãi suất danh
nghĩa và lãi suất thực tế đã được Fisher phát biểu qua biểu thức sau:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
hoặc có thể viết:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
2.3.Căn cứ vào mức ổn định lãi suất
Lãi suất được chia làm 2 loại:
- Lãi suất cố định: là người gửi tiền và người vay tiền biết trước số tiền lãi
được trả và phải trả. Nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định
trong một thời gian nào đó dù các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào. Với mức
lãi suất cố định được ấn định vay trò của Ngân hàng không được phát huy hết, các
Ngân hàng phải chủ động tìm kiếm khách hàng – những người chấp nhận với mức
lãi suất đã được ấn định.
- Lãi suất thả nổi: là lãi suất có thể thay đổi nền móng có thể báo trước hoặc
không báo trước. Lãi suất thả nổi có lợi cho cả 2 bên, nếu khi nhận và trả tiền đều
tính theo cùng mức lãi suất chung là lãi suất hiện tại.
2.4.Căn cứ vào phương pháp tính
3
Lãi suất được chia làm các loại sau:
- Lãi suất đơn: là lãi suất được tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn
vay.
Công thức tổng quá để tính lãi đơn:
I = C
0
.i. n
I: số tiền lãi
C
0
: vốn gốc
i: lãi suất
n: số thời kỳ gửi vốn.
Trong đó thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất. Loại lãi
suất này thường được áo dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn và việc trả nợ được
thực hiện một lần khi đến hạn.
VD: Khoản vay 100.000đ, lãi 12%/năm, thời hạn vay 3 năm
Khoản tiền lãi thu được: I= 100.000 x 12% = 12.000đ
- Lãi suất gộp: Lãi suất gộp là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư của lợi
tức thu được trong thời hạn sử dụng tiền vay. Nó được áp dụng cho các khoản đầu
tư có nhiều kỳ hạn thanh toán trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào vốn gốc để
tính lãi cho kỳ sau.
C= C
0
. (1 + i)
n
C: số tiền thu được theo lãi góp sau n kỳ.
C
0
: vốn gốc ban đầu
i: Lãi suất
n: thời kỳ gửi vốn
- Lãi suất hoàn vốn: là lãi mà các nhà kinh tế muốn ám chỉ khi họ dùng thuật
ngữ lãi suất, nó là một số đo chính xác nhất của lãi suất.
Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu nhập
nhận được trong tương lai theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó.
4
Lãi suất hoàn vốn được xây dựng trên cơ sở khái niệm giá trị hiện tại, khái
niệm về giá trị hiện tại được dựa trên quan điểm cũng có nghĩa chung là: một đô la
thanh toán cho bạn sau đây 1 năm có ít giá trị đối với bạn so với 1 đô la hôm nay vì
bạn có thể gửi đồng đô la hôm nay vào một tài khoản tiết kiệm và sẽ có hơn 1 đô la
sau 1 năm.
Chẳng hạn nếu lãi suất là i, số tiền bạn nhận được sau 1 năm là
(1+i) (C
0
= 1$)
Giá trị hiện tại của 1 đồng bạn nhận được sau 1 năm là x:
1= x (1+i)
x= 1/1+i
Một cách tổng quát: giá trị hiện tại của 1 đồng bạn nhận được dây n năm
với lãi suất i là: 1
(1+i)
n
Khái niệm giá trị hiện tại cho phép xây dựng được giá trị hiện tại của các
khoản đầu tư khác tại mức lãi suất đơn cho trước trên cơ sở đó có thể so sánh giá trị
giữa chúng.
Ngược lại nếu biết trước giá trị tương lai và giá trị hiện tại của một khoản
đầu tư, chúng ta có thể xác định được mức lãi suất i tương ứng phản sánh mức sinh
bình quân (lãi suất hoàn vốn) của một khoản đầu tư và là cơ sở để so sánh mức sinh
lợi của các khoản đầu tư khác.
2.5.Căn cứ vào các loại hình tín dụng
- Lãi suất được chia là 4 loại: tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín
dụng tiêu dùng, tín dụng Ngân hàng.
+ Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho vay
dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá, nó được tính như sau:
LSTDTM= giá cả hàng hoá bán chịu - giá cả hàng hoá bán trả tiền
ngay x 100%
giá cả hàng hoá bán chịu
5
Lãi suất này được tính bao hàm trong một giá cả hàng hoá bán chịu.
+ Lãi suất tín dụng Nhà nước: được áp dụng khi Nhà nước đi vay của các
chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu,
loại lãi suất này có thể do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm
của Ngân hàng, vào các yếu tố khác như sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp
thiết về vốn của Nhà nước. Hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín
phiếu, trái phiếu Nhà nước. ở Việt Nam hiện nay Ngân hàng Nhà nước được giao
nhiệm vụ tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước.
+ Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động
vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng thường cao
hơn lãi suất tín dụng Ngân hàng và lãi suất tín dụng Ngân hàng Nhà nước.
* Lãi suất tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế Ngân hàng
đóng vai trò là một tổ chức trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà
doanh nghiệp, cá nhân, Ngân hàng vừa đi vay và đồng thời là người cho vay. Tín
dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ và chỉ đáp ứng nhu cầu vốn
ngắn hạn. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh
nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu. Với tư cách là
người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng, lãi suất tín dụng được áp dụng nhằm thu
hút tiền gửi và cho vay. Lãi suất tín dụng Ngân hàng được áp dụng trong hoạt động
tái cấp vốn của Ngân hàng TW cho các Ngân hàng và trong quan hệ giữa các Ngân
hàng với nhau trong quan hệ giữa các Ngân hàng với nhau, với công chúng và
doanh nghiệp để hiểu rõ lãi suất tín dụng Ngân hàng ta hãy xem khái niệm lãi suất
trong các quan hệ này.
6
+Lãi suất tiền gửi: là lãi suất cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để
tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau
tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi.
+ Lãi suất tiền vay: là lãi suất mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà
khách hàng phải trả Ngân hàng. Về nguyên tắc lãi suất tiền vay bình quân phải lớn
hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân. Để đảm bảo lợi ích của Ngân hàng và có sự
phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác cũng như mức rủi ro khác.
+ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh
toán của các khách hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ
có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
Như vậy nếu xét trong quan hệ giữa Ngân hàng với người vay chiết khấu lãi suất
chiết khấu được trả trước cho Ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất thường.
+ Lãi suất tái chiết khấu:
áp dụng khi Ngân hàng TW tái cấp vốn cho các Ngân hàng dưới hình thức
chiết khấu lại nhiều thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn của
các Ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và
cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng TW cấp tiền vay cho Ngân hàng. Lãi suất
chiết khấu do Ngân hàng TW ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường liên
Ngân hàng vì hành vi tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các Ngân hàng nên
thông thường lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên
trong trường hợp phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống Ngân hàng
nhằm kiềm chế, đẩy lùi lạm phát hoà phát các Ngân hàng trong các trường hợp vi
phạm về khả năng thanh toán.
Ngân hàng TW có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng, thậm chí cao hơn
lãi suất chiết khấu của hệ thống Ngân hàng.
7
+Lãi suất liên Ngân hàng: là lãi suất mà các Ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên Ngân hàng.
Lãi suất liên Ngân hàng thường được ấn dịnh vào mỗi buổi sáng (còn gọi là
lãi suất hàng ngày) nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu trên TW của các tổ
chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng TW. Mức
độ chi phối phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử
dụng vốn vay Ngân hàng TW của các tổ chức tín dụng.
+Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn
định mức lãi suất kinh doanh của mình lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau
tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng TW ấn định (Nhật: là mức lãi suất cho vay
thấp nhất) hoặc có thể do bản thân các Ngân hàng tự xây dựng căn cứ vào tình hình
hoạt động cụ thể của Ngân hàng mình (Mỹ, Anh, úc) và đó là mức lãi suất được áp
dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ
bản của một số Ngân hàng đứng đầu, của các Ngân hàng khác cộng trừ biên độ dao
động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình. Một số
nước lại sử dụng lãi suất liên Ngân hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp) mặc
dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị
trường và đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp được lãi suất cho vay và có một
mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các đối tượng có mức rủi
ro khác nhau, mức lãi suất cho vay sẽ khác nhau vì biến động của mức bù rủi ro.
(Ở Việt nam Luật Ngân hàng Nhà nước hiện nay quy định “ lãi suất cơ bản
là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn
định lãi suất kinh doanh” )
3. Vai trò của lãi suất (trong nền kinh tế thị trường)
Lãi suất là một biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế và được
theo dõi rất chặt chẽ. Sở dĩ lãi suất được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế
là vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp, tổng thể nền kinh tế, tác động lên mặt ở tầm vi mô và cả vĩ mô.
8
3.1. Vai trò của lãi suất đối với quyết định chủ thể trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường người đi vay cũng như người cho vay có thể là
các cá nhân, hộ gia đình; các doanh nghiệp, Chính phủ, các nhân tố nước ngoài.
Đối với người đi vay, lãi suất tạo nên cá khoản chi phí, làm giảm lợi nhuận. Đối với
người cho vay lãi suất là một nguồn tạo ra thu nhập. Vì vậy lãi suất có một tác động
to lớn tới các quyết định của các chủ thể kinh tế.
+Đối với cá nhân, hộ gia đình: Lãi suất ảnh hưởng tới nhiều quyết định như
chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi vốn vào một tài khoản
tiết kiệm.
+ Đối với Doanh nghiệp: Lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh
nghiệp. Lãi suất có thể được coi là chi phí của doanh nghiệp. Do vậy lãi suất thấp
sẽ khuyến khích doanh nghiệp cho vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Bớt một đồng chi phí là tàng một đồng lợi nhuận, doanh nghiệp luôn tìm cách tối
đa hoá lợi nhuận trên 1 đồng chi phí.
Vì vậy, lãi suất lại đóng vai trò là một công cụ buộc doanh nghiệp phải sử
dụng vốn một cách triệt để, có hiệu quả.
+ Đối với Nhà nước: lãi suất không chỉ là công cụ nhằm huy động hay cho
vay vốn mà còn là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhằm điều tiết sản xuất kinh
doanh theo đúng định hướng, xử lý hài hoà giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, điều
hành gián tiếp chính sách tiền tệ quốc gia để thực hiện các mục tiêu của mình: ổn
định giá cả đồng nội tệ; tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao (trên 7%) và đảm bảo
công ăn việc làm đầy đủ.
3.2. Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đang trong
giai đoạn xây dựng những cơ sở vật chất để nước ta đi lên CNXH. Chiến lược,
nhiệm vụ trong toàn thời kỳ này của nước ta là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vậy
để có thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng sản xuất thì vấn đề không thể
9
thiếu được đó là vốn. Trong Đại hội VIII của Đảng đã đề ra rằng: Vấn đề tích luỹ
và sử dụng vốn để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá có tầm quan trọng đặc
biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy, cơ sở lãi suất có vai
trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, tập trung các
nguồn vốn manh mún, tản mạn tạo thành một nguồn vốn lớn đáp ứng nhu cầu về
vốn cho các doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc tái sản xuất, mở rộng sản xuất một
cách liên tục, phát triển nền kinh tế.
* Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định (máy móc, công
trường, nguyên vật liệu) được thực hiện khi mà họ chỉ tính lợi nhuận thu được từ
vốn đầu tư vào các tài sản cố định này hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để
đầu tư. (Do đó, lãi suất xuống thấp, các hàng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở
rộng đầu tư vào vốn các tài sản cố định phục vụ sản xuất. Vì thế, chi tiêu đầu tư có
kế hoạch sẽ cao hơn và ngược lại)
Quan hệ lãi suất và chi tiêu đầu tư có kế hoạch
i
3
Đường đầu tư
i
2
i
1
Sự dốc xuống của đường đầu tư biểu diễn phản ánh tỷ lệ nghịch giữa chi tiêu
đầu tư có kế hoạch với lãi suất
Đường đầu tư càng thoải thì càng nhạy cảm với lãi suất
10
Lãi suất thấp khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng
tăng tổng cầu sản lượng tăng, giá cả tăng, thất nghiệp
giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ.
Lãi suất cao hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng Giảm tổng cầu
sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng phát triển giá
so với ngoại tệ.
Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế. Người ta
thấy rằng: trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế, lãi suất có xu hướng phát
triển do cung – cầu quỹ cho vay đều phát triển trong đó tốc độ phát triển quỹ cho
vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại trong nền kinh tế bị đình
trệ hàng hoá bị ứ đọng và xuỗng giá, áp lực lạm phát thấp (thiểu phát) Lạm
phát sẽ giảm xuỗng bởi theo nguyên tắc cơ bản lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận đầu
tư và khi nền kinh tế trì trệ thì cơ hội đầu tư kiếm lời cũng giảm
lãi suất giảm.
*Lãi suất với Xuất nhập khẩu:
Khi lãi suất trong nước thực tế phát triển lên thì các khoản tiêu quỹ dùng
bằng nội tệ sẽ trở nên thấp dần hơn so với tiêu quỹ bằng ngoại tệ. Do đó làm cho
giá trị đồng nội tệ tăng lên so với các đồng khác nghĩa là tỷ giá hối đoái tăng lên.
Lúc này hàng hoá của nước ta tại nước ngoài đắt hơn và hàng hoá nước ngoài có ở
nước ta sẽ rẻ hơn dẫn đến giảm xuất khẩu ròng, khuyến khích nhập khẩu.
11
i
3
i
2
i
1
NX3 NX2 NX1
quan hệ lãi suất trong nước với xuất khẩu rộng
Với một mức lãi suất thực tế thấp i1 tỉ giá là thấp và xuất khẩu rộng, NX1 là
cao. Với mức lãi suất i3 cao, tỷ giá cao Xuất khẩu rộng NX3 thấp
Thay đổi trong lãi suất nước ngoài:
Nếu lãi tiền gửi nước ngoài tăng lên (trong trượng hợp mọi cái khác không
đổi) thì lợi tức về những tiền gửi đó cũng tăng lên đường trên diện lợi tức
dự tính về ngoại tệ dịch sang phải sự sụt giá của đồng nội tệ diện này
được thể hiện ở đồ thị sau:
Tỷ giá Ret (đ) Ret ($1)
(USD/VND)
Ret ($2)
E1
E2
Lợi tức dự tính (đ)
12
Lãi suất nước ngoài tăng, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch sang
phải.
Sự sụt giá của đồng nội tệ dẫn đến hàng hoá của nước ta ở nước ngoài rẻ hơn
và hàng hoá nước ngoài ở nước ta đắt hơn. Vì vậy tăng xuất khẩu ròng.
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu vai trò của lãi suất trong nền kinh tế. Lãi
suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính 2 mặt, nó sẽ là đòn bẩy quan trọng
thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế hoặc là nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Điều này phụ thuộc vào cơ sở lãi suất của Chính phủ có hợp lý hay không.
Trước vai trò to lớn của lãi suất trên đây ta vừa nghiên cứu là được lý thuyết
và thực tiễn chứng minh thì lãi suất thực sự là một công cụ điều tiết vĩ mô vô cùng
quan trọng mà Ngân hàng TW sử dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, mục tiêu
của mình. Lãi suất Ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính 2 mặt, nó sẽ là công
cụ, đòn bảy mà Ngân hàng TW sử dụng để thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế hay
nhân tố kìm hãm sự phát triển nền kinh tế ? Điều này phụ thuộc vào sự điều hành
lãi suất, cơ sở lãi suất của Ngân hàng TW và tính hiệu quả của nó được kiểm
nghiệm trong thực tế.
II. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG – SỰ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1. Các mô hình Ngân hàng TW và mô hình Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
1.1. Mô hình Ngân hàng TW trực thuộc Bộ tài chính.
Đây là mô hình kính tế đang lần lượt được loại bỏ, coi đây như một kinh
nghiệm không thành công trong chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ đối với
nền kinh tế thị trường.
1.2.Mô hình Ngân hàng TW độc lập với Chính phủ trực thuộc Quốc hội.
13
Theo mô hình này Ngân hàng TW không nằm trong nội các của Chính phủ.
Quan hệ giữa Ngân hàng TW và Chính phủ là quan hệ hợp tác được thể hiện trong
mô hình sau:
Quốc hội
Ngân hàng TW Chính phủ
Chính sách tiền tệ Pháp luật, biện pháp hành chính
Sử dụng công cụ: Ngân sách
+ Tái chiết khấu Khu vực kinh tế công cộng
+ Thị trường mở Trợ cấp bảo hiểm
+ Dự trữ bắt buộc
+ Giá cả ổn định + Tạo công ăn việc làm
+ Tăng trưởng kinh tế
Theo mô hình này Ngân hàng TW có quyền quyết định đến việc xây dựng và
thực hiện chính sách tiền tệ không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của Ngân
sách hoặc các áp lực chính trị khác. Tuy nhiên không phải tất cả các Ngân hàng
TW được tổ chức theo mô hình này đều đảm bảo được sự độc lập hoàn toàn khỏi
áp lực của Chính phủ khi điều hành chính sách tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi
Ngân hàng TW phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu Nhà nước vào cơ
chế lập pháp và nhân sự của Ngân hàng TW.
Điển hình cho trường phái này là Ngân hàng dự trữ Liên Bang Mỹ. Ngân
hàng TW Thuỵ Sỹ, Ngân hàng TW Pháp, Ngân hàng Nhật Bản và gần đây là Ngân
hàng TW Châu Âu. Xu hướng tổ chức Ngân hàng TW theo mô hình này đang ngày
càng tăng lên ở các nước thị trường phát triển.
14
Mô hình này ta thấy được áp dụng ở các nước phát triển. Tính hiệu quả ở mô
hình này được thể hiện ở nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, Nhật… Vậy đây có
phải là một mô hình tối ưu cho tất cả các nước? Câu trả lời là không. Không có một
mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc gia. Việc lựa chọn mối
quan hệ giữa Ngân hàng TW với Chính phủ phải tuỳ thuộc vào chế độ chính trị,
yêu cầu phát triển kinh tế, đặc điểm lịch sử và sự phát triển của hệ thống Ngân
hàng từng nước.
1.3. Mô hình Ngân hàng TW trực thuộc Chính phủ
Theo mô hình này Ngân hàng TW nằm trong nội các Chính phủ và chịu sự
chi phối trực tiếp của Chính phủ về nhân sự, về tổ chức đặc biệt là các quyết định
liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ.
* Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô hình phụ thuộc vào
Chính phủ và đó là mô hình phù hợp với thể chế chính trị cũng như yêu cầu quản
lý và phát triển kinh tế hiện nay.
- Ưu điểm của mô hình này:
+ Nó phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng
xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển. Chính phủ có thể dễ dàng sử dụng
NHTW như là công cụ phục vụ cho các mục tiêu cấp bách trước mắt của quốc gia.
Đồng thời chính sách tiền tệ cũng được kiểm soát nhằm sử dụng phối hợp đồng bộ
với các cơ sở kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu
quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong thời kỳ.
Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình này là Ngân hàng TW sẽ mất đi sự chủ
động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào Chính phủ có thể
làm cho Ngân hàng TW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ
góp phần tăng trưởng kinh tế
15
Chính phủ
Hội đồng chính sách tiền t ệ
Chủ tịch Hội đồng chính sách tiền tệ
Ngân hàng TW
Hình vẽ: Mô hình Ngân hàng TW trực thuộc Chính phủ
Mô hình nước được phần lớn các nước á Đông hoặc các nước khối XHCN
trước đây. Sự thành công của mô hình này được kiểm nghiệm qua sự thành công
của các nước nhóm NIC như Singapore, Nam Triều Tiên, Đài Loan.
Sự ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và mục tiêu, nhiệm vụ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngày 6 tháng 5 năm 1951 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập với
tư cách là Ngân hàng phát hành Trung ương đồng thời kiêm nhiệm chức năng của
Ngân hàng Thương mại.
Tháng 1 năm 1960 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cho phù hợp với Hiến pháp mới của nước ta.
- Sau khi thống nhất đất nước và hoàn thành việc quốc hữu hoá hệ thống
Ngân hàng dưới chế độ cũ ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 136/CP
ngày 16/6/1977 về cơ cấu tổ chức và bộ máy của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Từ đó trên cả nước hình thành một hệ thống Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và bộ máy của các tổ chức của các Ngân hàng chuyên doanh như: Ngân hàng
16
Các thành viên; Thống đốc Ngân hàng TW
Công nghiệp, Ngân hàng Thương nghiệp, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng
Ngoại thương, Hệ thống quỹ tiết kiệm. Đặc điểm cơ bản của mô hình tổ chức và
hoạt động của hệ thống Ngân hàng lúc này vẫn mang đầy đủ các đặc điểm của hệ
thống Ngân hàng một cấp.
- Sau Đại hội toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đất nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện. Ngày 3/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng (Nay là
Hội đồng Chính phủ) ban hành Quyết định 218/HĐBT, cho phép Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam tiến hành thí điểm chuyển hoạt động Ngân hàng sang hạch toán
kinh doanh. Sau khi thí điểm thấy Quyết định này là đúng đắn , ngày 26/3/1988,
HĐBT ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
Theo đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước các hoạt động tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng và các Ngân hàng kinh doanh thực
hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
Sau 2 năm thí điểm đổi mới hoạt động Ngân hàng và thực hiện Nghị định
53/HĐBT, ngày 24 tháng 5 năm 1990 Nhà nước ta ban hành 2 pháp luật về Ngân
hàng. Đó là “Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” và “ Pháp lệnh Ngân
hàng, HTX tín dụng và Công ty tài chính”. Đó là bước tiến quan trọng về mặt pháp
lý trong hoạt động Ngân hàng, nhằm tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện công tác
Ngân hàng ở nước ta. Thực hiện 2 pháp lệnh đó khẳng định lại về tổ chức hệ thống
Ngân hàng nước ta theo mô hình 2 cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.
Để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường hơn nữa quản lý Nhà
nước về tiền tệ và hoạt động Nhà nước, góp phần phát triển hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Ngày 26/12/1997 Nhà
nước ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam `1(có hiệu lực từ ngày
1/10/1998). Từ đây mô hình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam được chi phối bởi luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo Luật Ngân hàng
17
Nhà nước Việt Nam thì chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thể
hiện như sau:
Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NH Trung ương ( NHTW ) hoạt động theo luật NHNN VN và thực hiện hai chức
năng cơ bản:
* Là ngân hàng của Quốc gia
+ NHTW là ngân hàng độc quyền phát hành tiền.
+ Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW cung cấp đầy đủ các dịch vụ của
một ngân hàng cho các ngân hàng thương mại.
* NHTW là ngân hàng của nhà nước và thực hiện chức năng quản lý vĩ mô
các hoạt động tiền tệ tín dụng nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ
thống ngân hàng, qua đó thực hiện các mục đích kinh tế vĩ mô của nền kinh tế .
Để thực hiện mục tiêu của mình NHNN VN cũng như các NHTW khác
không thể bằng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động trực
tiếp và ngay lập tức bởi vì hầu hết những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ chỉ xuất
hiện sau một thời gian nhất định từ 6 tháng đến 2 năm và điều này sẽ là quá muộn
và không hiệu quả. Vì vậy, NHTW của các nước thường xác định các chỉ tiêu cần
đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Các mục tiêu này được chia làm
hai loại:
Mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động và mục tiêu về lãi suất được lựa
chọn với mục tiêu lượng trên cung ứng làm mục tiêu trung gian và làm căn cứ để
lựa chọn mục tiêu cuối cùng. Sau đây ta hãy xem NHTW điều hành lãi suất như thế
nào:
3. Nguyên tắc hoạt động của NHTW trong thực hiện chính sách lãi suất
Thứ nhất, NHTW không trả lãi tiền gửi cho bất cứ NHTM, tổ chức tín dụng
nào.
Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW luôn là chủ nợ của toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Vị trí chủ nợ đó cần thiết để NHTW có thể điều tiết việc mở rộng
18
hay thu hẹp khối lượng cung ứng tiền tệ. Nếu NHTW trả lãi tiền gửi, nghĩa là người
nợ của hệ thống NHTM, thì NHTW không có khả năng tác động trực tiếp vào sự
gia tăng khối tiền tệ, vì bất cứ lúc nào các NHTM cũng có thể rút tiền gửi của họ.
Mối quan hệ hữu cơ giữa thị trường tiền tệ với thị trường tín dụng bị phá vỡ và
NHTW mất đi khả năng điều tiết của mình. Chính vì lý do đó các NHTM, Kho bạc
Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng khác, không bao giờ được phép gửi tiền
có lãi tại NHTW, vì điều đó sẽ chôn vùi vị trí chủ nợ của NHTW. Các NHTM gửi
tiền tại NHTW thì đó chỉ thuần tuý là việc dự trữ không có lãi. Nếu muốn hưởng
lãi, NHTM có thể mua tín phiếu NHNN hoặc tín phiếu Kho bạc Nhà nước.
Thứ hai, NHTW chỉ được phép cho các NHTM vay ngắn hạn.
Đây là vấn đề cốt lõi đối với khả năng điều tiết của NHTW vì chỉ như vậy
NHTW mới có thể phản ứng nhanh với những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống
tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí tái cấp vốn. điều đó có nghĩa là chỉ NHTM mới
được cấp tín dụng dài hạn. Nếu một khi NHTW có những khoản nợ phải đòi dài
hạn, thì khác nào họ tự chôn vùi khả năng điều tiết của mình và thúc đẩy sự bất ổn
trong thị trường tiền tệ.
4. Các công cụ điều tiết lãi suất thị trường của NHTW
Thứ nhất, gọi cho vay theo hình thức đấu thầu
Đây là hình thức quan trọng để NHTW cung ứng tiền trung ương cho các
NHTM. Thời hạn cho vay thường ngắn (khoảng 10 - 15 ngày) và được tổ chức
thường xuyên 1-2 lần/tuần. Giả sử sau khi NHTW thông báo gọi thầu (chỉ công bố
thời hạn cho vay, chứng phiếu thế chấp, không bao giờ công bố lãi suất) và nhận
được đơn xin vay của các NHTM như sau:
NHTM 1 xin vay 20 tỷ với lãi suất 10%/năm
NHTM 2 xin vay 35 tỷ với lãi suất 9.75%/năm
NHTM 3 xin vay 5 tỷ với lãi suất 9.5%/năm
NHTM 4 xin vay 10 tỷ với lãi suất 9.4%/năm
NHTM 5 xin vay 20 tỷ với lãi suất 9.3%/năm
19
Căn cứ số tiền cần phát hành, NHTW quyết định cho vay 30 tỷ với lãi suất
9.5%/năm. Có 3 ngân hàng trúng thầu với lãi suất 9.5% nhưng số tiền xin vay là 60
tỷ. Như vậy mỗi ngân hàng sẽ được vay 1/2 lượng tiền yêu cầu (=30tỷ/60tỷ) với
cùng lãi suất 9.5%/năm. Lãi suất 9.5% này cực kỳ quan trọng, qua đó đánh tín hiệu
với thị trường rằng NHTW không muốn lãi suất giảm xuống dưới 9.5%/năm. Căn
cứ vào đó, các NHTM tự định liệu lãi suất thị trường.
Thứ hai, lãi suất tái chiết khấu hay tạm ứng trên chứng từ.
Hình thức gọi thầu cho vay được thực hiện định kỳ hoặc theo quyết định của
NHTW với thời hạn cố định, vì vậy không đáp ứng nhu cầu xin vay bất thường với
thời gian không quy định trước của các NHTM. Hình thức cho vay tạm ứng trên cơ
sở thế chấp chứng từ cho phép khắc phục điều đó. Loại hình cho vay này được thực
hiện bất cứ lúc nào với thời hạn thoả thuận giữa NHTW và NHTM (thường từ 5-10
ngày), lãi suất cao hơn cho vay đấu thầu 0.5-0.6%. Đây là cánh cửa thường xuyên
mở rộng cho các NHTM với điều kiện có chứng từ thế chấp tốt. Đó là lãi suất chỉ
đạo thứ hai của NHTW.
Với hai hình thức trên, NHTW có thể tác động hướng lãi suất thị trường dao
động trong khung tạo bởi hai mức lãi suất đó. Lãi suất cho vay đấu thầu(ví dụ trên
là 9.5%) là lãi suất thấp nhất của thị trường, đóng vai trò như lãi suất sàn, còn lãi
suất tạm ứng chứng từ (ví dụ trên là 10%) là lãi suất chặn đứng thị trường, đóng vai
trò là lãi suất trần. Lãi suất thị trường dao động trong khung mong muốn của
NHTW (từ 9.5% - 10%), còn khung lãi suất này dao động tuỳ theo mục tiêu
NHTW theo đuổi lượng cung tiền, tỷ giá hối đoái.
Một số nước, thường có thị trường tài chính chưa phát triển, NHTW có thể
quy định trực tiếp lãi suất trần và lãi suất sàn bằng cách ra các sắc lệnh bắt buộc các
NHTM phải tuân thủ.
Thứ ba, lãi suất can thiệp cụ thể của NHTW.
Nếu lãi suất trên thị trường, vì lý do không dự kiến được, tăng quá cao đột
xuất (ví dụ lãi suất vay nóng 1 ngày tăng đột ngột 10.25%), NHTW sẽ can thiệp
20
bằng cách thông báo lãi suất cho vay 1 ngày là 9.75% chẳng hạn, la thị trường sẽ
xuống theo. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường xuống thấp quá mức lãi suất chặn
dưới, NHTW sẽ công bố lãi suất cho vay bằng hoặc cao hơn lãi suất chặn trên một
chút. Đó là các lãi suất can thiệp.
Trong 3 hình thức trên, lãi suất cho vay đấu thầu và lãi suất cho
vay tạm ứng là quan trọng nhất, đóng vai trò lãi suất chỉ đạo của
NHTW. Còn lãi suất can thiệp chỉ là phụ và tuỳ thuộc diễn biến thị
trường. Ngoài ra NHTW còn can thiệp vào lãi suất thị trường thông
qua kỹ thuật thị trường mở, nghĩa là NHTW mua bán các chứng khoán
trên thị trường để điều tiết việc bơm hoặc rút tiền khỏi lưu thông.
21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Cũng như các nước khác trên thế giới, tại Việt nam lãi suất cũng là một trong
những công cụ vô cùng quan trọng mà NHNN VN sử dụng để thực hiện những
mục tiêu của chính sách tiền tệ của mình. Cùng với những bước biến chuyển tích
cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam thì chính sách lãi suất (
CSLS ) cũng có những bước điều chỉnh thay đổi để hoàn thiện và tiến đến một lãi
suất tiền tệ theo hướng tự do lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn theo đúng bản chất
của lãi suất.
Từ khi thành lập cho đến nay NHNN VN đã nhiều lần điều chỉnh chế độ lãi
suất của mình. những sự thay đổi CSLS này được mang tính tích cực về mặt lí
thuyết. Tuy nhiên , chính sách đó khi đi vào thực tế đem lại hiệu quả đến đâu là
một chuyện hoàn toàn khác. Sau đây ta hãy xem xét sự điều hành CSLS qua các
thời kỳ cụ thế sau.
I. GIAI ĐOẠN TỪ 1992 TRỞ VỀ TRƯỚC
Đây là thời kỳ NHNN VN thực hiện CSLS cố định, NHNN VN đẫ qui định
quá chi tiết các mức lãi suất khác nhau. Tại lãi suất ban hành theo quyết định số
125/NH-QĐ ngày 04/9/1986 ta thấy có ngót 30 mức lãi suất khác nhau. Chúng
được phân biệt rõ rệt bởi hình thức sở hữu ( Quốc doanh và tập thể ), bởi nghành
nghề ( Nông, công , thương nghiệp ), bởi sự thực hiện cái gọi là hạn mức kế
hoạch ( trong hạn mức kế hoạch, trên hạn mức kế hoạch) Và một điều ta không
thể không nhận thâysự bất hợp lý trong CSLS này là mức lãi suất tiền gửi và cho
vay được quy định ở biểu quá nhỏ bé so với mức lãi suất huy động tiết kiệm, cho
vay tư nhân, cá thể và nó càng nhỏ bé khi so sánh với tỉ lệ lạm phát tháng của năm
1986 ( Khoảng 14% / tháng ) ( Để biết thêm về biểu lãi suất tiền gửi cho vay của
NHNN xem phụ lục 1. )
22
Đây là thời kỳ lãi suất thực âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và
trongđiều luật mục lạm phát cao.
Lãi suất danh nghĩa, Lạm phát và Lãi suất thực giai đoạn 1985-1991:
* Một số những lý do biện giải cho việc áp dụng chế độ lãi suất cố định, lãi
suất thực âm này là do:
+ Nền kinh tế nước ta đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập chung
bao cấp, chịu ảnh hưởng năng nề dập khuôn mô hình kinh tế của Liên Xô. CSLS
này là việc áp dung gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô cũ, nhiều loại cho
vay, mức lãi suất của ta và Liên Xô là giống hệt nhau và vì vậy CSLS không chú ý
đến lạm phát.
+ Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang rơi vào lạm phát phi mã, nền
kinh tế phát triển kém, trì trệ. Nhà nước muốn vực nền kinh tế phát triển , muốn
huy động thu hút vốn cho đầu tư môt cách khác quy định mức lãi xuất cho vay thấp
để khuyến khích các đơn vị đầu tư vào sản xuất kinh doanh, lỗ lãi của nghành ngân
hàng là bao nhiêu được nhà nước cấp bù.
Trong thời kỳ này, việc ấn định các mức lãi suất là không có cơ sở khoa học.
Lãi suất không phát huy được vai trò đòn bẩy phát triển nền kinh tế của mình mà
với chế độ lãi suất này đã kìm hãm hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngân hàng
không phát huy được vai trò to lớn của mình. Nhà nước lại luôn bị thâm hụt ngân
sách do phải bù lỗ cho các ngân hàng vì CSLS này và lạm phát vẫn tiếp tục tăng.
Với chế độ lãi suất thực âm không đảm bảo lợi ích cho các bên, điều này
được nhiều tác giả ví dụ bằng nhiều hình tượng sinh động như : Đem gửi một
khoản tiền ví như “ con bò” thì sau ngày đáo hạn lại chỉ nhận được một khoả tiền
chỉ bằng cái “Đuôi bò”. Vì vậy, chính sách này không thể thực hiện mục tiêu của
mình là huy động vốn.
Trong tình trạng nề kinh tế phát triển trì trệ, tỉ lệ lạm phát cao, cơ hội đầu tư
có lợi là rất hiếm có, trong khi đó lãi suất tiền cho vay < tỉ suất lợi nhuận bình quân
< lãi suất huy động vốn. Điều này lại dẫn đến tình trạng “ Ăn không ngồi rồi” của
23
các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng này với lãi
suất rất thấp rồi cho ngân hàng khác vay với lãi suất rất cao để lấy khoản chênh
lệch và sản xuất vẫn không phát triển.
II. GIAI ĐOẠN CUỐI NĂM 1992 ĐẾN NĂM 1995
Sau đại hội đảng VII tháng 6/99 bước sang giai đoạn 1992-1995. Một loạt
cải cách mới được thực hiện và đạt kết quả nhất định. Nền kinh tế đã có nhiều biến
chuyển tích cực: Lạm phát tiếp tục được đẩy lùi và được kiểm soát đáng kể, tăng
trưởng và duy trì ở mức độ tương đối, nền kinh tế và xã hội ổn định góp phần vào
sự thành công đó có mặt của CSLS thực dương. Lãi suất thực dương bắt đầu được
duy trì từ cuối năm 1992 với biến động phù hợp với tỉ lệ lạm phát. Cụ thể , tháng
10/1992 NHNN VN bắt đầu thực hiện CSLS thực dương, đến hết quý I năm 1993
thì lãi suất thực dương được thực hiện đầy đủ
1986-1990 1991 1992 1993 1994 1995
Lãi suất tiền gửi bình
quân %/tháng
6 2,9 1,9 1,4 1,3 1,4
Lãi suất tiền cho vay bình
quân %/tháng
4,3 3,5 2,5 1,8 1,6 1,7
Lạm phát bình quân
%/tháng
ở mức hai
chữ số
5,6 1,93 0,43 1,2 1,06
Tuy nhiên giai đoạn này NHNN VN vẫn quy định các mức lãi suất tiền gửi
và cho vay, cụ thể có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, cụ thể :
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước cho vay với lãi suất thấp hơn so với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay với lãi suất
trung và dài hạn.
+ Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức
kinh tế.
24
Bắt đầu từ 1/10/1993 theo quyết định 184/QD – NH1, CSLS được thực hiện
trên cơ sở vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay
theo lãi suất thoả thuận.
+ Quy định về lãi suất trần cụ thể có hai loại :
Lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng.
Lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh 2% / tháng.
+ Quy định về lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy
động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định, phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất
cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2% / tháng và cho vay hơn mức trần là
2,1% / tháng.
Trên thực tế, khoảng 30 – 60% tổng dư nợ lúc này từ các khoản cho vay
bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và hộ nông dân với mức lãi suất phổ biến là2,3 – 3,5% / tháng. Với cơ chế
lãi suất thoả thuận dường như chúng ta đã thực hiện tư do hoá một phần lãi suất
trên cơ sở quy định cơ chế cho vay. Mọi lãi suất cũng đi đôi với một biên độ dao
động nhất định.
Trong thời kỳ này , NHNN VN mở rộng các hình thức cho vay cũ , tiến hành
thức cho vay mới là cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tư doanh.
Bước vào giai đoạn này lãi suất cho vay bổ xung nguồn vốn tư doanh ngắn
hạn trở nên rất phân biệt đối với từng ngân hàng thương mại quốc doanh, ví dụ :
Lãi suất đối với NHNN là 1,6% / tháng nhưng đối với ngân hàng ngoại thương là
2,8% / tháng. Tuy nhiên sự phân biệt này có xu hướng giảm dần và từ tháng
10/1993 lãi suất này được áp dụng thống nhất đối với ngân hàng thương mại quốc
doanh. Tháng 11/1994 NHNN chấm dứt hình thức cho vay bổ xung nguồn vốn tư
doanh ngắn hạn, thay vào đó trong nhiều trường hợp cần thiết NHNN tiến hành cho
vay theo đối tượng chỉ định với mức lãi suất do thống đốc NHNN quyết định từng
lần.
25