Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phục vụ cho công tác tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.56 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với
quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, trước hết nó đáp
ứng các nhu cầu về vốn của các cá nhân và tập thể, muốn phát triển sản
xuất kinh doanh nhưng lại thiếu vốn, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, các Ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn vào
mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan
trọng bậc nhất của mọi nền kinh tế.
Trong các hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng đóng vai trò quan
trọng. Tín dụng là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất, tạo thu nhập từ lãi lớn
nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất. Vì thế, đảm bảo và nâng cao
chất lượng hoạt động tín dụng vừa là mục tiêu vừa là nhân tố quan trọng để
cạnh tranh và phát triển của mỗi Ngân hàng thương mại. Trước mỗi quyết
định tài trợ, Ngân hàng luôn phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng
rủi ro và sinh lời dựa trên phân tích các khía cạnh tài chính, phi tài chính
theo một quy trình nghiệp vụ nghiêm ngặt, mang tính khoa học cao, phân
tích tài chính khách hàng là một trong những nội dung đó.
Như vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là
các Doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Khách hàng
không trả được nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm, ảnh hưởng đến
việc cho khách hàng vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để
tránh được những rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay,
Ngân hàng cần nâng cao chất lượng khâu phân tích đánh giá tình hình tài
chính đối với khách hàng-khâu quyết định xem khách hàng có đủ điều
khiện để vay vốn của Ngân hàng không.
Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt động cho vay luôn
chiếm tỷ trọng từ 85%-95% doanh thu, tuy nhiên công tác phân tích tín
dụng, trong đó có phân tích tình hình tài chính của khách hàng vẫn còn
1
nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả cho vay chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn
cao…


Đặc biệt như Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, mặc dù đi
vào hoạt động được hơn 10 năm song cán bộ tín dụng là các cán bộ trẻ
chưa có nhiều kinh nghiệm, lại hoạt động trong một nền kinh tế khá phức
tạp đang trong quá trình hội nhập. Do vậy, qua thời gian thực tập tại Ngân
hàng thương mại Cổ phần Quân Đội, cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo
Nguyễn Xuân Quang tôi đã chọn đề tài “Phân tích tình hình tài chính
Doanh nghiệp phục vụ cho công tác Tín Dụng tại Ngân hàng thương
mại Cổ phần Quân Đội ”.
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, vai trò của tín dụng Ngân hàng
* Khái niệm
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định quay về với một
lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng
là sản phẩm hàng hoá. Nhưng chính nó lại là động lực quan trọng thúc đẩy
nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển
qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau
nhưng đều thể hiện hai nội dung sau:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho
người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó
cho người sở hữu với giá trị lớn hơn, phần chênh lệch lớn hơn đó gọi là lợi
tức hay tiền lãi.
Quá trình vận động đó được biểu diễn trên sơ đồ sau đây:

Người sử hữu
Người sử dụng
Người cho vay
Người đi vay
3
Những hành vi tín dụng có thể được diễn ra trực tiếp giữa người thừa
vốn cần đầu tư với người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này
khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời
gian sử dụng vốn, hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí
tìm kiếm. Nên để thoả mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần thiết
phải có một người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những
người tạm thời thừa cần đầu tư lấy lãi, trên cơ sở số vốn tập trung được
phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay.
Người đó không là ai khác chính là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu
là các Ngân hàng thương mại, người môi giới tài chính trên thị trường tài
chính. Việc các Ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy
động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay được gọi là tín dụng ngân
hàng.
* Đặc trưng của tín dụng
Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin. ở đây
người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một
thời gian nhất định và do đó có khả năng hoàn trả được cả gốc và lãi đúng
thời hạn.
Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm
bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho
vay. Việc xác định thời hạn đó dựa vào:
+ Quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là thời hạn
cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc
đó người vay mới có điều kiện để trả nợ.
Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì

khi đến hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ, sẽ gây khó khăn cho khách
4
hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ
tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích và không có
nguồn để trả nợ, nhưng nếu có nguồn thu nhập khác ngoài nguồn thu chính
thì có thể trả nợ từ nguồn đó. Vì vậy, thời hạn cho vay không chỉ dựa vào chu
kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay mà còn phải dựa vào tính chất vốn của
người cho vay: Nếu vốn của người cho vay ổn định thì thời hạn cho vay có
thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả
năng thanh toán của Ngân hàng.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên
tắc phải hoàn trả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng của tín dụng. Vì vốn
cho vay của Ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa
nên sau một thời gian nhất định Ngân hàng phải trả lại cho người ký thác.
Mặt khác, Ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như:
Khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chí phí văn
phòng phẩm…nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả lãi cho
Ngân hàng.
* Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số
người thiếu vốn muốn đi vậy. Song những người này khó có thể trực tiếp
gặp nhau để cho nhau vay hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không
kịp thời, nên tín dụng Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn cà người cần
vốn để giải quyết nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này.
Nghĩa là tín dụng Ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình
mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần
thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát
triển bền vững.

5
Thông qua tín dụng Ngân hàng, có thể kiểm soát được khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông. Thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ.
Mặt khác, tín dụng Ngân hàng còn thúc đẩy các Doanh nghiệp tăng cường
chế độ hạch toán kinh doanh, giúp cho các Doanh nghiệp khai thác có hiệu
quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời tín
dụng Ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài,
la cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan
hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
1.1.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng
Mới được hình thành từ những năm cuối của thập niên. Hệ thống
Ngân hàng Thương mại Việt Nam hoạt động với các nghiệp vụ truyền
thống là chủ yếu trong đó tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu
nhất cho các Ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động rất dễ xảy ra rủi
ro và nếu rủi ro xảy ra thường gây những thiệt hại nghiêm trọng đối với
Ngân hàng, gây ảnh hưởng tới sự an toàn hoạt động của bản thân Ngân
hàng và cả hệ thống Ngân hàng. Qua con số về tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ kê
đọng lại các Ngân hàng Thương mại trong thời gian qua chứng tỏ rủi ro tín
dụng là vấn đề đang cần được quan tâm.
Mặc dù trong thời gian gần đây, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ kê đọng của
các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang có xu hướng giảm đáng kể do
thực hiện những biện pháp như kiểm soát chặt chẽ chất lượng cho vay, xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay đối với nợ đọng, trích lập và sử dụng dự hòng
rủi ro, … nhưng trong thực tiễn, tiềm ẩn rủi ro đang vẫn lớn do tốc độ gia
tăng tín dụng, những biến động phức tạp của giá cả một số loại nguyên
nhiên vật liệu đầu vào, xu hướng đầu tư vốn lớn vào thị trường bất động
sản, tình trạng ứ đọng trong xây dựng cơ bản…Điều này đã buộc Ngân
hàng Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng phải hết sức quan tâm đến
chất lượng tín dụng nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất có thể.
6

* Khái niệm
Rủi ro tín dụng là những nguy cơ dẫn đến những tổn thất tiềm tàng mà
Ngân hàng phải gánh chịu.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người cho vay không trả hoặc không hoàn
trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho Ngân hàng.
Như vậy rủi ro tín dụng liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Có hai thể hiện đó là rủi ro mất vốn và rủi ro sai lệch:
+ Với rủi ro mất vốn: coi như Ngân hàng đã bị thiệt hại và làm giảm hiệu
quả kinh doanh của mình.
+ Với rủi ro sai lệch: đây cũng được coi là rủi ro vì khi đến hạn khách
hàng không trả được nợ cho Ngân hàng dẫn đến xác suất xảy ra khả
năng mất vốn la rất cao. Mặt khác, Ngân hàng phải mất thêm những chi
phí nhất định đó là chi phí tăng cường, giám sát, tư vấn, đòi nợ hay mất
đi những cơ hội đầu tư vào những khoản vay mới, tìm kiếm lợi nhuận
mới.
* Nguyên nhân dẫn đến rủi ro
Như vậy rủi ro là luôn luôn đồng hành với hoạt động tín dụng Ngân
hàng. Để hạn chế được nó ta phải xem xét các nguyên nhân dẫn đến rủi ro.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro nhưng nhìn chung có những
nguyên nhân chính sau:
a) Nguyên nhân chung
Do nền kinh tế suy thoái, sự thiếu nợ đồng bộ, thiếu hợp lý trong
chính sách của Nhà nước, những biến động, khủng hoảng Chính trị trong
nước và trong khu vực, hoặc do những điều kiện tự nhiên: Khí hậu, bão, lũ
lụt….
b) Nguyên nhân từ phía khách hàng
7
+Đối với khách hàng là cá nhân:
Do sự suy giảm thu nhập làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
Doanh nghiệp bao gồm: Thu nhập chu kỳ, thu nhập cơ cấu, công ty phá

sản, sức khoẻ giảm, năng lực trình độ kém bị sa thải…hoặc do người vay bị
gặp sự cố bất thường trong cuộc sống: tai nạn, ốm đau, li dị hoặc chết.
Rủi ro cũng có thể đến với Ngân hàng khi họ hoạch định ngân quỹ
không chính xác, không có sự nhất quán trong việc sử dụng chi tiêu hay cố
ý bỏ chốn, lừa đảo Ngân hàng.
+ Đối với khách hàng là Doanh nghiệp:
• Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, kém hiệu
quả.
• Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích.
• Năng lực quản lý điều hành của Ban lãnh đạo thấp kém, lựa chọn
hướng đi chưa phù hợp, sử dụng vốn kém hiệu quả và không có khả năng
chống đỡ khi có sự biến động của thị trường.
• Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề có xu hướng
suy thoái. Những doanh nghiệp có chi phí cố định cao sẽ chịu rủi ro cao
hoặc Doanh nghiệp vay nợ quá nhiều trong quá khứ. Sự suy giảm này làm
giảm lợi nhuận và khả năng trả nợ cho những khoản vay mới là khó khăn.
• Doanh nghiệp gặp rủi ro tài chính: là khả năng của Doanh nghiệp
không đối phó được với việc trả nợ do sử dụng vay nợ đầu tư cho tài sản cố
định hoặc bị chiếm dụng vốn trong một thời gian dài.
• Doanh nghiệp cố tình lừa dối Ngân hàng: Có những hợp đồng giả
mạo, đi mượn tài sản cố định nhằm quảng bá Doanh nghiệp …
c) Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
8
+Do chính sách tín dụng chưa hợp lý: Quá nhiều mục tiêu lợi nhuận,
mở rộng quá mức doanh số cho vay; quy chế cho vay, điều khoản cho vay
chưa hợp lý; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ việc phân tích,
đánh giá khách hàng trước khi cho vay, trong khi cho vay hoặc sau khi cho
vay.
+Thực hiện không tốt công giám sát tín dụng, do thông tin không thu
thập đầy đủ hoặc sự sai lệch thông tin.

+Có sơ hở trong việc lập và ký kết các hợp đồng tín dụng. Việc xác
định mức cho vay và thời hạn cho vay không hợp lý.
+ Công tác tuyển dụng nhân sự chưa tốt từ khâu tuyển dụng, bố trí sắp
xếp, đào tạo dẫn đến trình độ cán bộ yếu kém cả về kỹ năng nghiệp vụ, tầm
hiểu biết…
+ Cán bộ Ngân hàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
+ Ngân hàng không thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng, không tuân
thủ các quy định pháp lý về tài sản bảo đảm.
d) Nguyên nhân từ bảo đảm tín dụng
+ Với bảo đảm bằng đối vật: do giá trị tài sản bảo đảm giảm giá trị
(giảm giá trị thị trường hoặc hao mòn do sử dụng). Ngân hàng có thể gặp
rủi ro trong việc tiếp cận, nắm giữ tài sản bảo đảm…
+ Với bảo đảm bằng đối nhân (bảo lãnh): Người bảo lãnh từ chối,
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Vậy nguyên nhân đến với Ngân hàng chủ yếu là do các nhóm trên.
Song tựu chung lại, dù nguyên nhân đến với Ngân hàng từ phía nào thì chủ
yếu cũng do công tác hoạch định chiến lược, kiểm soát của Ban lãnh đạo
Ngân hàng cũng như trình độ yếu kém cả về năng lực và đạo đức của cán
bộ tín dụng, việc thẩm định đánh giá khách hàng không tốt. Nên để giảm
9
thiểu rủi ro tín dụng, những vấn đề trên thường xuyên được khắc phục,
củng cố và nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
1.2 PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VAY VỐN TAỊ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm và vai trò
* Khái niệm
- Có thể hiểu phân tích tài chính khách hàng đối với NHTM là một tập
hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập xử lý các
thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính khả
nămg và tiềm lực của khách hàng giúp Ngân hàng đa ra quyết định tài trợ.

- Phân tích tình hình tài chính khách hàng tại các NHTM nhằm xác định
đợc các mục tiêu sau:
+ Xác định rõ hiện trạng tài chính của khách hàng : giá trị tài sản, tình
hình nợ, nhu cầu tài trợ, khả năng thành toán…
+ Dự báo về tài chính trong tơng lai của khách hàng: khả năng hoạt
động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ vay….
+ Dự đoán được những trờng hợp xấu có thể xảy ra làm giảm khả năng
trả nợ của khách hàng.
* Vai trò của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
Đứng trước thực trang cho vay là nghiệp vụ chủ yếu mang lại lợi
nhuận cao nhất cho Ngân hàng mà rủi ro tín dụng thì luôn thường trực, hơn
nữa lại diễn ra hết sức phức tạp khó phòng tránh nên việc cho vay đối với
các Ngân hàng Thương mại luôn phải được thực hiện theo một quy trình
chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính
của khách hàng. Kết quả của những phân tích này cho thấy khả năng sinh
lời, mức độ rủi ro của phương án hay dự án sử dụng vốn vay, có ảnh hưởng
10
trực tiếp tới quyết định cho vay hay không của Ngân hàng. Do đó, việc
phân tích tài chính khách hàng có vai trò rất quan trọng.
Mặt khác, trên thực tế việc xác định các nhân tố: năng lực pháp lý của
khách hàng, uy tín của người vay vốn, đánh giá năng lực điều hành sản
xuất kinh doanh của ban lãnh đạo Doanh nghiệp, triển vọng của Doanh
nghiệp… là rất phức tạp, nó mang tính chất định tính. Vì vậy, những thông
tin tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá,
lựa chọn khách hàng. Phân tích tình hình tài chính của khách hàng cho
Ngân hàng quyết định có cho khách hàng vay vốn hay không, nếu có thì
xác định các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng, xác định thời
hạn hợp lý của khoản vay, xác định các kỳ hạn trả nợ…đối với từng khách
hàng. Như vậy phân tích tài chính khách hàng không chỉ là nhu cầu mà còn
là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi Ngân hàng Thương mại.

1.2.2 Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Có rất nhiều nguồn thông tin để phân tích, đánh giá tình hình tài chính
DN. Nếu thông tin càng đầy đủ, chính xác thì kết quả phân tích mới đáng tin
cậy.
Nguồn thông tin bao gồm:
A). Thông tin từ bên trong DN: Thông tin từ bên trong doanh nghiệp
chủ yếu là các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi lên cho Ngân hàng vào
cuối mỗi kỳ kinh doanh, hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp được cụ thể
hoá qua các chỉ tiêu tài chính
Các thông tin đó là:
1. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT)
Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản
hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định.
11
Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm 2 phần:
- Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh
nghiệp, bào gồm: Tài sản ngắn hạn (loại A) và tài sản dài hạn ( loại B). Mỗi
loại đó lại bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau được sắp xếp theo một trình tự
phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý trong từng giai đoạn. Xét về mặt
kinh tế, các chỉ tiêu ở phần này phản ánh số tài sản hiện có của doanh nghiệp
ở thời điểm lập báo cáo, còn xét về mặt pháp lý nó phản ánh vốn thuộc quyển
sở hữu và quyền quản lý lâu dài của doanh nghiệp.
- Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành nên các tài sản, bao gồm:
Nợ phải trả (loại A) và vốn chủ sở hữu (loại B). Mỗi loại A và B lại bao gồm
các chỉ tiêu khác nhau và cũng được sắp xếp theo một trình tự thích hợp với
yêu cầu của công tác quản lý. Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần
nguồn vốn phản ánh các nguồn hình thành nên tài sản có của Doanh nghiệp;
Còn xét về phương diện pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp
lý của doanh nghiệp đối với các đối tượng đầu tư vốn (Nhà nước, ngân hàng,

cổ đông), cũng như với khách hàng thông qua công nợ phảI trả.
Bảng cân đối kế toán có những đặc điểm như sau:
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình tháI
giá trị. Cho nên, ta có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại
một thời điểm. Từ đó, cho phép ta đánh giá kháI quát tình hình tài chính qua
các chỉ tiêu trên.
+) Các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán được phản ánh tại một thời
điểm nhất định, thời điểm đó thường là vào ngày cuối cùng của kỳ hạch toán.
Căn cứ vào hai số liệu ở hai thời điểm đầu năm và cuối kỳ cho phép ta đánh
giá những biến động của tài sản và nguồn vốn giữa các kỳ kế toán.
12
+) Bảng cân đối kế toán có kết cấu 2 phần, thực chất là phản ánh tính
hai mặt của một lượng tài sản, cho nên tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn,
tức là:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay: Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Hoặc: Vốn chủ sở hữu = Tài sản – Nợ phải trả.
Như vậy, thông qua bảng cân đối kế toán, ta có thể biết được toàn bộ tài
sản hiện có của doanh nghiệp, hình tháI vật chất, cơ cấu của tài sản, nguồn
vốn và cơ cấu nguồn vốn. Do đó, bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan
trọng để nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh
doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp.
(Bảng cân đối kế toán (biểu B01-DN) hình 1- phần phụ lục)
2. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho
biết tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng tại
những thời kì nhất định. nó cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình tài
chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kĩ thuật và
trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng. đồng thời nó cũng giúp

phân tích so sánh được doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch
vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để thực hiện kinh
doanh. Ngoài ra theo quy định của Việt Nam, báo cáo thu nhập còn có thêm
phần kê khai tình hình thực hiện nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân sách
nhà nước và tình hình thực hiện thuế giá trị gia tăng-VAT.
Hạn chế của báo cáo thu nhập là kết quả thu nhập sẽ lệ thuộc rất nhiều
vào quan điểm của kế toán trong quà trình hạch toán. Đồng thời cũng do
13
nguyên tắc kế toán về ghi nhận doanh thu, theo đó doanh thu đợc ghi nhận khi
nghiệp vụ mua bán hoàn thành tức là khi sở hữu hàng hoá có thể xảy ra vào
một thời điểm khác, nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết của báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
Báo cáo kết quả kinh doanh (Mẫu số B02-DN) hình 2 -phụ lục
3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc
hình thành và sử dụng tiền phát sinh trong kì báo cáo của khách hàng.
- Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ: báo cáo các khoản thu. chi
tiền được phân loại theo các hoạt động
- Ý nghĩa của báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
+ xác định lượng tiền do các hoạt động kinh doanh mang lại trong kì và
dự đoán các dòng tiền trong tương lai.
+ Đánh giá khả năng thanh toán nợ vay và khả năng trả lãi cổ phần
bằng tiền.
+ Chỉ ra mối liên hệ giữa lãI, lỗ ròng và việc thay đổi tiền của DN.
+ Là công cụ để lập kế hoạch
- Cấu trúc của báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Theo chế độ kế toán quốc tế cũng như chế độ kế toán Việt Nam quy
định một báo cáo lưu chuyển tiền tệ chia làm 3 phần:
+ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh: phản ánh toàn bộ dòng
tiền thu vào hoặc chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp.
+ Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào
hoặc chi ra liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
14
+ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền
thu vào hoặc chi ra liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
(Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03-DN) hình 3- phần phụ lục)
- Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính đồng
thời, giải thích thêm 1 số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được
trình bày,giải thích rõ ràng cụ thể như các thông tin về đặc điểm hoạt động
của khách hàng, chế độ kế toán áp dụng,tình hình và lí do biến động một số
tài sản và nguồn vốn.
- Các thông tin khác liên quan đến tình hình tài chính khách hàng
B, Nguồn thông tin từ bên ngoài
Ngoài các báo cáo tài chính từ doanh nghiệp gửi lên cho ngân hàng.
Ngân hàng cần thu thập thông tin từ các nguồn sau
- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
- Thông tin từ các báo cáo thuế, cơ quan kiểm toán độc lập.
- Thông tin từ các đối tác kinh doanh với doanh nghiệp.
- Thông tin từ các tổ chức tín dụng mà doanh nghiệp đã có quan hệ
trước đây.
….v.v…
1.2.3 Các phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính
khách hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng được mở rộng cho nhiều
đối tượng trong xã hội, đó là các doanh nghiệp, cá nhân, hộ sản xuất kinh
doanh Trong số đó, khách hàng lớn nhất, thường xuyên nhất, quan trọng nhất

15
vẫn luôn là các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, hoạt động kế toán
tuân thủ theo những nguyên tắc chung luật đề ra, các báo cáo tài chính trình
Ngân hàng phải tuân thủ đề ra nhất định, đây là thuận lợi cho quá trình phân
tích của khách hàng phân tích đối với báo các tài chính của doanh nghiệp .
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và
biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ
bên trong và bên ngoài, các luồng biến đổi và dịch chuyển tài chính, các chỉ
tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp qua chất lượng hoạt động và mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp .
Về phương diện lý thuyết có các phương pháp để phân tích tài chính
khách hàng đó là: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ, phương pháp
Dupont…
• Phương pháp so sánh :
Để áp dụng phương pháp so sánh cần đảm bảo tính có thể so sánh được
của các chỉ tiêu tài chính( thống nhất về mặt không gian, thời gian, nội dung,
tính chính xác và đơn vị tính toán) và theo mục đích phân tích mà xác định
gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc thời gian và không gian, kỳ phân
tích được gọi là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa
chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. nội dung so sánh
gồm:
- So sánh giữa số hiện thực kì này và số hiện thực kì trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp
- So sánh giữa số hiện thực với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu của ngành, của các
doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình
đang phân tích tốt hay xấu, được hay chưa được.
16

- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kì để thấy được sự biến đổi cả về
số lượng và chất lượng của một chỉ tiêu nào đó.
• Phương pháp phân tích tỷ số tài chính:
Tỷ số tài chính là mối quan hệ tỷ lệ giữa các đại lượng tài chính trong
các quan hệ tài chính. Phương pháp này dựa trên các chuẩn mực về các tỷ lệ
tài chính.
Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác định được các
ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp
trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của khách hàng với tỷ lệ tham chiếu. Như vậy
phương pháp tỷ lệ luôn được phối hợp với phương pháp so sánh. Các tỷ lệ tài
chính được phân thành những nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ
bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đó là:
- Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán nhanh: gồm các chỉ tiêu như: tỷ lệ
thanh toán ngắn hạn, tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán hiện hành
- Nhóm tỷ lệ về cơ cấu tài chính: hệ số nợ trên tổng tài sản, hệ số cơ cấu
nguồn vốn, hệ số cơ cấu nợ…
- Nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động của tài sản: Vòng quay hàng tồn kho,
vòng quay các khoản phải thu, kì thu tiền trung bình, vòng quay vốn lưu
động, hiệu suất sử dụng TSCĐ
- Nhóm tỷ lệ khả năng sinh lời: hệ số doanh lợi doanh thu, hệ số doanh lợi
tài sản, hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu
• Phương pháp phân tích tài chính Dupont:
Những thông tin quan trọng về điều kiện tài chính của một doanh
nghiệp thể hiệ ở một số hệ số tài chính chứ không riêng gì ở một hệ số. Bản
chất của phương pháp Dupont là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh
lời của doanh nghiệp như thu nhập / tài sản( ROA), thu nhập sau thuế/ vốn
chủ sở hữu ( ROE), thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân
17
quả với nhau, cho phép phân tích các ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số

tổng hợp. Cụ thể có thể tách ROE như sau:
ROE = ROA x Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính =
Tổng tài sản bình quân
Vốn chủ sở hữu bình quân
Trong đó:
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
x
Doanh thu
Doanh thu Tổng tài sản bình quân
Vậy phương trình Dupont được viết lại là:
ROE =
Lợi nhuận sau
thuế
x
Doanh thu
x
Tổng tài sản bình
quân
Doanh thu
Tổng tài sản bình
quân
Vốn chủ sở hữu
bình quân
Doanh thu ở đây là doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ +
doanh thu hoạt động tài chính + thu nhập khác trong kỳ
Tác dụng của phương trình:
- Cho thấy mối quan hệ và tác động của các nhân tố là các chỉ tiêu hiệu quả
sử dụng tài sản( vốn).

- Cho phép phân tích lương hoá những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu suất
sinh lời của vốn chủ sở hữu bằng phương pháp loại trừ.
- Đề xuât các quyết sách phù hợp và hiệu quả căn cứ trên mức độ tác động
khác nhau của từng nhân tố khác nhau để làm tăng tỷ suất sinh lời.
1.2.4 Quy trình phân tích tài chính khách hàng
* Phân tích trước khi cho vay:
Trước bất cứ một yêu cầu vay vốn nào, ngân hàng luôn phải xem xét,
phân tích kĩ khách hàng, về phương án dự án xin tài trợ. Qúa trình này gọi là
18
phân tích tín dụng hay thẩm định tín dụng và thẩm định tài chính khách hàng
là một nội dung trong đó. Dựa trên những nguồn thông tin thu thập
được,Ngân hàng tiến hành phân tích tài chính khách hàng nhằm xác định
được tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại, tiềm năng tương lai và dự báo
khả năng trả nợ của khách hàng. việc phân tích này có ảnh hưởng trực tiếp
đến quyết định cho vay hay không của Ngân hàng. Phân tích tình hình tài
chính bao gồm nhiều nội dung nhưng tập trung phân tích khả năng sinh lời và
phân tích rủi ro từ đó xác định khả năng trả nợ
Khả năng sinh lời của khách hàng là khả năng lâu dài và liên tục của
một khách hàng trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính gắn liền với khả
năng tạo lợi nhuận. Khả năng sinh lời là vấn đề quan tâm đầu tiên của Ngân
hàng. nếu người vay kinh doanh không có lãi thì ngay cả việc trả nợ gốc cho
Ngân hàng cũng là điều khó khăn chưa nói đến việc trả lãi. khả năng sinh lời
cao thì khả năng trả nợ cao và ngược lại. nghiên cứu khả năng sinh lời của
khách hàng trong quá khứ và hiện tại sẽ giúp Ngân hàng dự đoán khả năng trả
nợ trong tương lai. Hơn thế, ngoài khả năng sinh lời của khách hàng, Ngân
hàng phân tích một số chỉ tiêu sau: doanh lợi doanh thu, doanh lợi tài sản, hệ
số vòng quay tài sản … các thông số để phân tích được lấy từ báo cáo kết quả
kinh doanh, bảng cân đối kế toán.
Rủi ro là khả năng mà một sự kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện,
rủi ro cho khách hàng cũng chính là rủi ro cho ngân hàng vì nguy cơ không

thu hồi được món vay. Tình trạng sản xuất kinh không hiệu quả, sản xuất sản
phẩm không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi thua lỗ kéo dài sẽ làm
mất khả năng chi trả các khoản nợ của khách hàng . Trong trường hợp người
vay vốn bị phá sản thì nguy cơ không thu hồi được nợ của Ngân hàng sẽ rất
cao. Phân tích rủi ro là ngân hàng dựa vào số liệu trên bảng cân đối để tính
toán đánh giá các chỉ tiêu như: tỷ lệ thanh khoản, năng lực hoạt động, khả
năng cân đối vốn… để xác định tính lành mạnh , an toàn tài chính của khách
hàng .
19
* Phân tích trong khi cho vay:
Phân tích trước khi cho vay là cơ sở để Ngân hàng ra quyết định tín
dụng. Nếu qua phân tích Ngân hàng chấp nhận cho vay vì thế theo Ngân hàng
phải thực hiện phân tích trong khi cho vay. Khi cho vay, quyền sử dụng vốn
của Ngân hàng vẫn có quyền và nghĩa vụ kiểm tra theo dõi món vay. Kiểm tra
theo dõi món vay dưới giác độ công tác phân tích tài chính khách hàng bao
gồm các công việc …xác định nguồn vốn trả nợ, phân tích lại các chỉ tiêu tài
chính căn cứ vào các báo cáo tài chính trong kì kế toán mà khách hàng có
nghĩa vụ phải gửi cho Ngân hàng . Việc phân tích này giúp Ngân hàng thấy
được hiệu quả việc đầu tư bằng vốn vay ngân hàng của khách hàng , thấy
được tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng có diễn ra đúng theo điều
kiện hay không, có xu hướng biến động tốt hay xấu… từ đó là cơ sở hay yêu
cầu khách hàng bổ xung thêm tài sản thế chấp hay tìm cách thu hồi nợ sớm.
* Phân tích sau khi cho vay:
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi đủ cả gốc và lãi. các
khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là khoản tín dụng217
an toàn, Ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến khoản vay không
hoàn trả hay không hoàn trả đúng hạn, Ngân hàng phải phân tích các nguyên
nhân và đề ra biện pháp xử lý, Ngân hàng vẫn phải theo sát hoạt động
của140khách hàng để khi thây khách hàng có nguồn thu để thu hồi nợ.
1.2.5 Nội dung hoạt động phân tích tình hình tài chính đối với

khách hàng vay vốn
1.2.5.1 phân tích các chỉ tiêu tài chính trong báo cáo tài chính.
Khi phân tích đánh giá khách hàng để ra quyết định cho vay hay
không? Ngân hàng phải tiến hành phân tích nhiều yếu tố, song điều mà họ
quan tâm nhất là khả năng thanh toán và trả nợ của khách hàng vay vốn. Do
đó khi phân tích tài chính, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá
rủi ro thanh khoản của khách hàng tức là phân tích các chỉ tiêu về khả năng
thanh toán, cơ cấu tài chính, năng lực hoạt động,khả năng sinh lời và báo cáo
20
lưu chuyển tiền tệ nhằm đánh giá rủi ro của doanh nghiệp trong tương lai. Do
vậy, Ngân hàng đặc biệt quan tâm tới các chỉ tiêu tài chính từ báo cáo kết quả
kinh doanh và BCĐ kế toán.
• Các chỉ tiêu kinh tế tài chính được sử dụng để phân tích đánh giá tình
hình tài chính khách hàng.
A, Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn và tình hình đâu tư.
Hệ số nợ =
Tổng số nợ phải trả
Tổng nguồn vốn của DN
ý nghĩa: Hệ số nợ nói lên trong tổng nguồn vốn của DN, nguồn vốn từ bên
ngoài ( từ các chủ nợ) là bao nhiêu phần hay trong tổng số tài sản hiện có của
doanh nghiệp có bao nhiêu phần do vay nợ mà có.
Tỷ suất tự tài trợ =
Vốn chủ sở hữu
= 1- Hệ số nợ
Tổng nguồn vốn của DN
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này để đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong
tổng nguồn vốn của DN.
Nếu hệ số nợ càng thấp (hay tỷ suất tự tài trợ càng cao) thì sự phụ
thuộc của DN vào nguồn cho vay càng ít, món nợ của người cho vay càng an
toàn và ngược lại sẽ kém an toàn.

Hệ số nợ dài hạn =
Nợ dài hạn
Nguồn vốn chủ sở hữu
21
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp
đối với chủ nợ. chỉ tiêu này càng cao thì rủi ro của doanh nghiệp càng tăng.
chỉ tiêu này cao hay thấp tuỳ theo từng ngành hoạt động. Chẳng hạn: ngành
có tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn hơn thường có hệ số này cao hơn. tuy
nhiên theo kinh nghiệm ở một số nước để hạn chế một số rủi ro tài chính
người cho vay chỉ chấp nhận chỉ tiêu này ở mức nhỏ hơn 1 hay nợ dài hạn
không vượt quá nguồn vốn chủ sở hữu. khi chỉ tiêu này càng gần 1, doanh
nghiệp càng ít có khả năng được vay thêm các khoản vay dài hạn.
Hệ số khả năng thanh
toán lãi tiền vay
=
LNKT trước thuế + Chi phí lãi vay
Chi phí lãi vay
Ý nghĩa: Hệ số này nói lên trong kỳ DN đã tạo ra lợi nhuận gấp bao
nhiêu lần lãi phải trả về tiền vay. Hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả năng
chi trả lãi tiền vay càng thấp và ngược lại. Thông thường hệ số này được các
chủ nợ chấp nhận ở mức hợp lý khi nó lớn hơn hoặc bằng 2.
Tỷ suất tự tài trợ tài
sản dài hạn
=
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tài sản dài hạn
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản dài hạn bằng nguồn vốn
chủ sở hữu. Tỷ suất này lớn hơn 1 thể hiện khả năng tài chính vững vàng.
Ngược lại, nếu nhỏ hơn 1 có ý nghĩa là có một phần tài sản dài hạn được tài
trợ bằng nguồn vốn vay. Nếu nguồn vốn đó là vốn ngắn hạn thể hiện doanh

nghiệp đang kinh doanh trong cơ cấu vốn mạo hiểm
• Chỉ tiêu về cơ cấu nguồn vốn:
22
Tỷ suất đầu tư TSCĐ =
Tài sản cố định
Tổng tài sản của DN
Ý nghĩa: Thực chất của chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tài sản cố
định của doanh nghiệp trong tổng tài sản nói chung. Chỉ tiêu này càng lớn và
xu hướng ngày một tăng thể hiện tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của
doanh nghiệp tăng lên, điều này tạo năng lực sản xuất và xu hướng phát triển
kinh doanh lâu dài, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Tuy nhiên, để có kết luận chỉ tiêu này là tốt hay xấu, đã đáp ứng yêu
cầu sản xuất của doanh nghiệp hay chưa phải tùy thuộc vào ngành kinh doanh
của doanh nghiệp trong một thời gian cụ thể
*Vốn lưu động thường xuyên:
Vốn lưu động thường xuyên là phần chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn
hay (nguồn vốn thường xuyên)với tài sản cố định và đầu tư dài hạn. nói cách
khác nó là một phần nguồn vốn ổn định dùng vào việc tài trợ cho tài sản lưu
động.
= –
Hoặc:
= –
VLĐtx >0 chứng tỏ DN có một phần nguồn vốn dài hạn đầu tư cho
TSLĐ. Điều này đem lại cho DN một nguồn vốn tài trợ ổn định, một dấu hiệu
an toàn, một quyền độc lạp nhất định.
23
Nếu nguồn vốn dài hạn < TSCĐ và ĐT dài hạn, lúc này VLĐ tx < 0
chứng tỏ TSCĐ và ĐT dài hạn được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn, DN
kinh doanh với cơ cấu vốn rất mạo hiểm.
B, Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán:

Hệ số khả năng thanh
toán ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn



Ý nghĩa: Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đo lường khả năng
mà các tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ
ngắn hạn. Nếu hệ số này cao, có thể đem lại an toàn về khả năng bù đắp cho
sự giảm giá trị của tài sản ngắn hạn. Điều đó thể hiện tiềm năng thanh toán
cao so với nghĩa vụ phải hanh toán. Tuy nhiên, một doanh nghiệp có hệ số
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn quá cao cũng có thể doanh nghiệp đó đã đầu
tư quá đáng vào tài sản ngắn hạn, một sự đầu tư không mang lại hiệu quả. Mặt
khác, trong toàn bộ tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, khả năng chuyển hóa
thành tiền của các bộ phận là khác nhau. Khả năng chuyển hóa thành tiền của
bộ phận hàng tồn kho thường được coi là kém nhất. Do vậy, để đánh giá khả
năng thanh toán một cách khắt khe hơn có thể sử dụng hệ số khả năng thanh
toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh
toán nhanh
=
Tiền và tương đương tiền + ĐTTC ngắn
hạn + Các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
Ý nghĩa: Cho biết khả năng huy động nhanh các nguồn tiền và chứng
khoán có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền để trả nợ ngắn hạn( bao gồm các
khoản dài hạn đến hạn trả).
24

Nhiều trường hợp, tuy doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn và hệ số khả năng thanh toán nhanh cao nhưng vẫn không có khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn thanh toán do các khoản phảI
thu chưa thu hồi được hoặc hàng tồn kho chưa chuyển hóa được thành tiền.
Bởi vậy, muốn biết khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp tại thời điểm
xem xét, nhà phân tích còn phảI sử dụng chỉ tiêu.
Hệ số khả năng
thanh toán tức thì
=
Tiền và tương đương tiền + ĐTTC ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Nhiều chủ nợ cho rằng nhìn chung hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn
hạn nên ở mức bằng 2, hệ số khả năng thanh toán nhanh (tương đối) nên ở
mức bằng 1, hệ số khả năng thanh toán tức thì nên ở mức 0,5 là hợp lý. Tuy
nhiên, trong thực tế các hệ số này được chấp nhận là cao hay thấp còn tùy
thuộc vào đặc điểm, tính chất kinh doanh, mặt hàng kinh doanh của mỗi
ngành kinh doanh, cơ cấu, chất lượng của tài sản ngắn hạn trong mỗi loại hình
doanh nghiệp. Do vậy, cách xem xét tốt nhất là so sánh các hệ số khả năng
thanh toán trung bình của ngành để có thể đưa ra nhận xét đúng đắn về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
C, Nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản:
- Vòng quay các khoản phải thu và kì thu tiền trung bình
Vòng quay các khoản
phải thu
=
DT thuần về bán hàng và cung cấp DV
Các khoản phải thu bình quân
Kỳ thu tiền trung bình =
(các khoản phải thu BQ) x (số ngày trong kỳ)
DT thuần về bán hàng và cung cấp DV

Ý nghĩa: So với kì trước, hệ số vòng quay các khoản phải thu giảm
hoặc thời gian bán chịu cho khách hàng dài hơn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các
khoản nợ của DN chậm hơn từ đó làm tăng vốn ứ đọng trong khâu thanh
toán, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
25

×