Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.67 KB, 39 trang )

1
MỤC LỤC
A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong thời kì 1954 -
1975
1. Khái quát cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trước 1954
2. Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong giai đoạn 1954
– 1960
1.1 Cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong những năm 1954 – 1957
1.2 Cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong những năm 1958 – 1960
3. Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong giai đoạn 1961
– 1975
3.1 Cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong những năm 1961 – 1964
3.2 Cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong những năm 1965 – 1975
II. Một số nhận xét về cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong thời kì
1954 – 1975
1. Đặc điểm sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc thời kì
1954 – 1975
2. Đặc điểm cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc 1954 – 1975
3. Đóng góp và hạn chế của cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc 1954 –
1975
4. Bài học kinh nghiệm
C. Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Mở đầu
1
2
1954 – 1975 là một thời kì đặc biệt trong lịch sử dân tộc và lịch sử
cách mạng Việt Nam. Với hiệp định Giơnevơ, sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nước ta vẫn chưa dừng lại ở mốc năm 1954. Do âm mưu xâm lược của


đế quốc Mỹ nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ khác
nhau: Miền Bắc (tới vĩ tuyến 17) đã hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ
nghĩa xã hội, còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực lượng tay
sai thống trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam cùng lúc thực
hiện hai nhiệm vụ ở hai miền, vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải
tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Bàn về vị trí, vai trò của cách mạng miền Bắc Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng khẳng định “Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng
của cả nước”.
Trong những năm tháng hào hùng cả dân tộc chống Mỹ cứu nước
miền Bắc đã làm trọn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền
tuyến miền Nam, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược tới thắng lợi
cuối cùng.
Sức mạnh vô địch của miền Bắc xuất phát từ những biến đổi nội tại
bên trong của xã hội trên một nền tảng của xã hội mới, con người mới vừa
được giải phóng khỏi chế độ thực dân phong kiến. Đặc biệt, dưới tác động
của phương hướng xây dựng nền kinh tế mới đã làm cơ cấu giai cấp – xã
hội miền Bắc nhanh chóng biến đổi góp phần tạo nên sức mạnh cho hậu
phương miền Bắc thực hiện tốt nhiệm vụ chi viện của mình.
Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội gắn liền với từng bước đi lên xây
dựng chủ nghĩa của miền Bắc. Mặc dù mô hình cơ cấu giai cấp xã hội miền
Bắc mang đậm tính chủ quan, không bình thường nhưng trong thời kì
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mô hình đó đã đóng vai trò quan trọng,
2
3
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng cả nước tiến lên dành thắng lợi cuối cùng.
Nhưng khi đất nước bước ra khỏi chiến tranh, nó lại là nhân tố cản trở kinh

tế xã hội phát triển. Từ đó, nó để lại cho Đảng ta nhiều bài học quý báu
trong quá trình Đổi mới ở nước ta ngày nay.
B. Nội dung
I. Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong thời kì 1954
- 1975
1. Khái quát cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trước 1954
Nhìn chung, cơ cấu xã hội Việt Nam trước năm 1954 khá phức tạp
bởi sự phát triển không bình thường của xã hội Việt Nam dưới thời thuộc
địa và bởi tính khác biệt của nền kinh tế - xã hội hai vùng đối lập nhau
trong chiến tranh. Nhưng xét tới cùng thì cơ cấu xã hội Việt Nam trước
1954 là vẫn nằm trong khuôn khổ cơ cấu xã hội nông nghiệp bị ảnh hưởng
lớn bởi chiến tranh.
Về tổng số dân, sau tháng 7 – 1954, trên đại bàn miền Bắc có 13
triệu người
1
thuộc hàng chục dân tộc khác nhau sinh sống, nhưng đông nhất
là người Kinh chiếm hơn 85% dân số.
Nhưng, dân cư phân bố không đều giữa các vùng. Trong 13 triệu dân
thì có khoảng 12 triệu sống ở vùng nông thôn và chỉ gần 1 triệu người cư
trú ở địa bàn đô thị, chủ yếu là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng.
Ngoài ra, dân cư cũng tập trung đông ở vùng đồng bằng, nhất là vùng đồng
bằng Bắc Bộ với hơn 8 triệu người sinh sống mà chủ yếu là người Kinh.
Ngược lại, vùng núi có diện tích rất lớn thì lại thưa dân, chỉ có các dân tộc
thiểu số sống.
Mật độ dân số miền Bắc trong nửa sau thập kỉ 50 khoảng 85
người/km2. Do đặc điểm phân bố dân cư không đều nên đồng bằng Bắc Bộ
là nơi có mật độ dân số đông nhất, trên 400 người/km2, riêng Thái Bình lên
1
Sách đã dẫn
3

4
tới 864 người/km2. Trong khi đó, các tỉnh thuộc vùng núi thì dân cư thưa
thớt: Bắc Cạn, có 16 người/km2; khu tự trị Mèo, chỉ có 13 người/km2
2
.
Tỉ lệ nam và nữ ở miền Bắc thời kì này xấp xỉ bằng nhau, thậm chí
có thời điểm vào giữa thập kỉ 50, nữ chiếm hơn 51% tổng dân số. Tỉ lệ gia
tăng dân số tự nhiên thấp do tỉ lệ tử cao. Tuổi thọ trung bình của người dân
thấp, 45 tuổi (trước cách mạng tháng Tám năm 1945).
Về tôn giáo, ở miền Bắc, đa số nhân dân, nhất là người Kinh theo
Phật giáo
3
, sau đó là Thiên chúa giáo, ngoài ra còn có một số đạo khác.
Địa bàn cư trú của cư dân miền Bắc bao gồm hai khu vực: nông thôn
và thành thị. Trong đó vùng nông thôn chiếm tỉ lệ tuyệt đối (92,6% vào
giữa thập kỉ 50; 90,7% vào năm 1959). Trên 95% tổng số dân sống ở nông
thôn là nông dân, với khoảng 2.700.000 hộ. Như vậy, trung bình mỗi hộ ở
nông thôn có khoảng 4,656 nhân khẩu và thông thường, theo truyền thống
mỗi gia đình có khoảng ba thế hệ sống cùng nhau, kiểu “tam đại đồng
đường”, tương tự xã hội Trung Hoa.
Về cơ cấu giai cấp, trong xã hội nông thôn miền Bắc có sáu tầng lớp
chính và nhiều thành phần dân cư mới sinh sống trong các thành phố lớn.
Trước hết phải kể tới giai cấp nông dân. Đây là giai cấp đông đảo nhất
trong xã hội với nhiều tầng lớp khác nhau.
Bần nông chiếm tỉ lệ đông đảo nhất trong cư dân nông nghiệp. Họ có
ruộng đất canh tác it nhiều và đa số phải nhận ruộng làm thuê cho địa chủ.
Nhưng tầng lớp nghèo khổ nhất ở nông thôn và trong xã hội chưa phải là
bần nông mà là tầng lớp cố nông. Họ không có ruộng đất phải đi làm thuê
hoặc phải lĩnh canh nộp tô. Cả hai tầng lớp này là lực lượng chính của nông
dân Việt Nam, là đối tượng bóc lột chính của chế độ thuộc địa nửa phong

kiến.
2
Sách đã dẫn
3
Nguyễn Đình Lê, Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc 1954 – 1975, NXB Văn hóa thông tin, 1999,
tr13.
4
5
Trung nông, là tầng lớp có đủ ruộng đất canh tác, họ không làm thuê
cho ai và cũng không bị ai bóc lột. Trung nông là những hộ độc lập không
bị phụ thuộc vào phong kiến về kinh tế. Dựa vào mức thu nhập và tài sản,
trung nông được phân chia làm ba bộ phận nhỏ: trung nông lớp trên, lớp
giữa và trung nông lớp dưới. Nhìn chung đời sống trung nông rất khó khăn.
Bằng chứng là chính sách nhổ lúa trồng đay của Nhật khiến hầu hết tầng
lớp này khốn đốn.
Phú nông là tầng lớp khá giàu có ở vùng nông thôn. Đây là đối tượng
bị địa chủ kìm hãm nhưng bản thân họ lại bóc lột người khác. Tầng lớp này
có trong tay nhiều ruộng đất, đứng thứ hai sau địa chủ. Họ thuê người làm
và trả công nhưng nhiều khi họ cũng tiến hành phát canh thu tô. Ngoài ra,
tầng lớp này có khoản thu phụ từ chăn nuôi, trồng màu. Một điểm nữa là
phú nông ở đồng bằng Bắc Bộ thường xung túc hơn phú nông ở nơi khác.
Địa chủ là lực lượng bóc lột chủ yếu ở nông thôn với hình thức phổ
biến là phát canh thu tô. Ngoài ra do ảnh hưởng của yếu tố sản xuất mới,
tầng lớp này còn tham gia kinh doanh những mặt hàng như tư sản, thậm chí
cả việc hùn vốn với tư bản nước ngoài mở công ty. Nhưng đa số địa chủ ở
đây thuộc loại nhỏ. Căn cứ vào số lượng ruộng đất chiếm hữu, địa chủ Việt
Nam chia làm 3 loại: đại, trung và tiểu địa chủ.
Đại địa chủ thực sự là người giàu có. Họ chiếm hữu 50 mẫu. Dưới
tầng lớp này là địa chủ hạng vừa và nhỏ, họ khống chế số lượng ruộng đất
ít hơn và thường phục vụ cho bộ máy hành chính của chính quyền Pháp.

Do thế lực kinh tế yếu yếu nên cuộc sống nhiều tiểu địa chủ rất bấp bênh,
phá sản và thậm chí còn bị chết trong nạn đói năm 1945.
Tình trạng chiếm hữu ruộng đất ở nhiều mức độ khác nhau giữa các
bộ phận dân cư đã dựng lên được diện mạo kinh tế - xã hội thời kì thuộc
địa nửa phong kiến ở nông thôn Việt Nam.
Ngoài những tầng lớp, giai cấp cũ trong xã hội miền Bắc đã xuất
hiện nhiều giai tầng mới trong các thành thị. Cùng với công cuộc khai thác
5
6
của thực dân Pháp, thì giai cấp tư sản người Việt ra đời. Xuất thân từ nhiều
tầng lớp khác nhau, sau này bị phân hóa thành hai bộ phận: tư sản dân tộc
và tư sản mại bản. Tuy nhiên, do bị thực dân chèn ép nên thế lực kinh tế
của giai cấp tư sản Việt Nam yếu và không đủ khả năng vượt qua được
những khúc quanh của lịch sử. Cũng vì vậy mà giai cấp này đã không thể
lãnh đạo được ngọn cờ đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản xuất
hiện ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Giai cấp tiểu tư sản có nhiều tầng lớp, bao gồm công chức, trí thức
tự do, tiểu thương, tiểu chủ. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ dù bị chèn ép về
kinh tế nhưng số lượng vẫn rất đông đảo. Sau năm 1945, cả nước có hàng
chục vạn hộ. Trừ một số hộ làm ăn khá thì hầu hết số hộ tiểu thương, tiểu
chủ đều buôn bán nhiều loại mặt hàng và chạy theo mùa. Thậm chí, ở nông
thôn tiểu thương còn kiêm cả làm nông nghiệp hay ngành nghề thủ công
như mộc, rèn, tơ tằm...
Lực lượng thợ thủ công khá đông. Ở miền Bắc, số lượng thợ thủ
công chiếm khoảng 2/3. Theo số liệu điều tra của Ban thanh tra Mỏ và
Công nghiệp của thực dân Pháp, “vào những năm chiến tranh thế giới lần
thứ hai, có khoảng 10% dân số miền Bắc chuyên làm nghề thủ công hoặc
kiêm sản xuất thủ công”
4
.

Công nhân có số lượng không nhiều. Trước chiến tranh thế giới thứ
hai ở miền Bắc có hơn 85.000 người làm việc trong các nhà máy, hầm mỏ.
Nhưng trong thời kì chiến tranh thế giới lần thứ hai và trong chín năm
kháng chiến chống thực dân Pháp số lượng công nhân bị giảm sút. Bên
cạnh lực lượng công nhân làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy của tư bản
thực dân Pháp, còn có bộ phận khác sản xuất trong khu vực do Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát.
4
Nguyễn Đình Lê – Trương Thị Tiến, Biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam 1945 – 1995, NXB
DHQGHN, tr 18.
6
7
Dù mới chỉ lãnh đạo xã hội về phương diện chính trị, nhưng lực
lượng công nhân trong khu vực giải phóng có vai trò to lớn trong sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Nhìn chung, gần một thế kỉ cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp đã để
lại những hệ quả nặng nề cho tiến trình biến đổi lịch sử đất nước nói chung
và biến đổi cơ cấu xã hội nói riêng. Sự chi phối của cơ cấu kinh tế - xã hội
thực dân đã làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên què quặt, lạc hậu và
phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản Pháp. “Tương ứng với nền kinh tế đó, các
giai tầng trong xã hội miền Bắc đã vận động và cũng phát triển không bình
thường, không dứt khoát như những quốc gia phương Tây trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu xã hội từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp”
5
. Xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội nông thôn, nông dân và nông
nghiệp.
Do hoàn cảnh chiến tranh chống xâm lược nên trong thời kì 1945 –
1954, miền Bắc có hai hệ thống chính trị đối lập ở hai vùng: tự do, giải
phóng do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát và bên kia

thuộc vùng địch hậu. Một xã hội tiền công nghiệp với một kết cấu xã hội
phức tạp, với hai vùng quản lý khác biệt, trong đó các giai cấp tầng lớp xã
hội đang vận động, phân hóa và đang đấu tran lẫn nhau là chân dung của
kết cấu xã hội miền Bắc trước năm 1954. Ngay sau hòa bình lập lịa, miền
Bắc đã xây dựng một xã hội mới khắc phục những khó khăn, yếu kém của
mình để thực hiện vai trò mới, nhiệm vụ mới là làm hậu phương lớn, chi
viện cho miền Nam.
2. Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong giai đoạn
1954 – 1960
Sau hiệp định Giơnevơ, hòa bình được lập lại, miền Bắc bắt tay ngay
vào việc: tiếp quản miền Bắc (7 – 1954 đến 5 -1955); thực hiện tiếp công
cuộc cải cách ruộng đất đã được thử nghiệm từ 1953 và cải tạo xã hội chủ
5
Nguyễn Đình Lê, Biến đổi cơ cấu xã hội miền Bắc thời kì 1954 – 1975, NXB VHTT, 1999, tr 25.
7
8
nghĩa (1958 - 1960). Đó là những bước đi đúng đắn để miền Bắc khôi phục
lại về mọi mặt và xây dựng xã hội mới Xã hội chủ nghĩa.
Chính trong thời gian này, cơ cấu xã hội miền Bắc đã từng bước
biến đổi. Sức lao động của con người đã được giải phóng khỏi sự bóc lột
của chế độ thực dân phong kiến. Trong xã hội mới những giai cấp, những
tầng lớp từng bị áp bức bóc lột thành lực lượng cơ bản quan trọng, rường
cột của chế độ mới. Ngược lại, những giai cấp, tầng lớp, bộ phận xã hội
từng ở vị trí thống trị, bóc lột bị giải thể, đẩy lùi từng bước một và được cải
tạo để hòa nhập vào cộng đồng xã hội mới. Từ đó, cơ cấu giai cấp miền
Bắc thay đổi hẳn so với thời kì phát triển không bình thường trước đây. Sự
biến chuyển này tạo nên một luồng sức mạnh mới của chế độ mới, chế độ
xã hội chủ nghĩa giúp nhân dân miền Bắc hoàn thành tốt vai trò hậu
phương lớn của mình.
2.1 Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong những

năm 1954 – 1957
a) Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội trong thời kì tiếp quản
(1954 – 1955)
Theo hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai
miền: miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra) do Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa kiểm soát, còn miền Nam do Pháp kiểm soát và đến 7 – 1956 sẽ
tiến hành tổng tuyển cử thông nhất nước nhà.
Nhưng trên thực tế trước khi rút quân, thực dân Pháp đã cố tình phá
hoại miền Bắc. Chúng đã cài lại lực lượng phản động ở miền Bắc, ra sức dụ
dỗ, cưỡng ép những công chức, nhân viên kĩ thuật, kĩ sư bác sĩ và giáo dân
vào Nam. Trên thực tế ở nhiều địa phương, hàng chục người nhẹ dạ đã rời
bỏ quê hương của mình ở miền Bắc để vào Nam.
Trước những tình hình đó, một cuộc đấu tranh để giữ người, giữ của
trong những ngày tiếp quản của nhân dân miền Bắc đã diễn ra quyết liệt.
Chính vì vậy, đã hạn chế sự di dân không tự nhiên từ Bắc vào Nam, thậm
8
9
chí một số lính Âu – Phi được vận động tuyên truyền đã định cư ổn định ở
miền Bắc.
Cũng trong thời gian này, miền Bắc cũng đón nhận hầu hết các cán
bộ công nhân viên, chiến sĩ trong các tổ chức quân – dân – chính – đảng ở
miền Nam tập kết ra Bắc. Nhưng việc hàng chục vạn nhân sự làm việc
trong bộ máy chuyên chế của chủ nghĩa thực dân Pháp vào miền Nam cũng
là một trong nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu giai cấp
xã hội miền Bắc trong thời kì này. Tuy nhiên, dù được giải thể tại chỗ
nhưng tàn dư của xã hội thuộc địa vẫn chưa bị xóa bỏ hoàn toàn. Ngoài ra,
do chính sách phá hoại của Pháp nên nạn thất nghiệp diễn ra khá phổ biến.
Đó là thực trạng của miền Bắc sau năm 1954. Tất cả các vấn đề đó
đều ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế xã hội miền Bắc. Nhưng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, miền Bắc cố gắng tiếp quản nhanh, ổn định đời sống cho nhân

dân và kiên quyết đấu tranh chống âm mưu phá hoại hiệp định Giơnevơ
của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Quá trình tiếp quản vùng giải phóng đã “phân giải loại trừ những
nhân tố cơ bản nhất trong hệ thống chính trị - xã hội do chủ nghĩa thực dân
áp đặt gần một thế kỉ ở miền Bắc nước ta, đồng thời cũng là quá trình bắt
đầu xác lập những nhân tố xã hội mới, kết cấu giai cấp xã hội mới theo mô
hình xã hội từng tồn tại và phát triển qua chín năm kháng chiến ở vùng giải
phóng. Mô hình đó được nhân rộng ra toàn phạm vi miền Bắc.”
6
Về cơ cấu giai cấp xã hội, sau khi tiếp quản xong vị trí cuối cùng là
thành phố Hải Phòng, dân số miền Bắc thay đổi không đáng kể so với thời
kì trước (13.574.000 người) và bao gồm những thành phần chính sau:
Lực lượng lao động phi nông nghiệp, có số lượng chưa cao (chỉ có
2.084.000 người). Nhưng cơ cấu của lực lượng này bao gồm nhiều nhóm
ngành khác nhau, trong đó, bộ phận cán bộ công nhân viên chức nhà nước
có vai trò quan trọng nhất.
Về tổ chức sản xuất, lực lượng cán bộ công nhân viên chức nhà nước
làm việc trong hai khu vực: Khu vực sản xuất và khu vực phi sản xuất.
6
Nguyễn Đình Lê, Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc thời kì 1954 – 1975, tr30.
9
10
Năm 1955, khu vực sản xuất vật chất có 76.400 người và được phân theo
sáu ngành chính: công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng cơ bản,
giao thông vận tải và bưu điện, thương nghiệp. Trong đội ngũ cán bộ công
nhân viên chức nhà nước thì khu vực phi vật chất chiếm tới 54,61% và
đông nhất là lực lượng hành chính sự nghiệp, sau đó là bộ phận sự nghiệp
văn hóa, giáo dục, y tế.
Lực lượng thợ thủ công khá đông, làng nào cũng có. Ngoài ra, ở
miền Bắc còn có hàng trăm làng nghề thủ công truyền thống và có rất nhiều

nông dân cũng “trở thành” thợ thủ công trong lúc nông nhàn. Ước tính
trong năm 1955 ở miền Bắc có khoảng 350.000 thợ thủ công.
Lực lượng tiểu thương thay đổi cũng không đáng kể, có khoảng
225.000 người buôn bán nhỏ sau tiếp quản miền Bắc. Lực lượng tiểu
thương hoạt động đôc lập, đa số buôn bán nhỏ lẻ. Ở thành thị là buôn
chuyến, còn ở nông thôn là buôn kiểu hàng rong.
Giai cấp tư sản có sự biến chuyển. Nhiều tư sản lớn người Việt và
người Hoa di chuyển vào Nam theo thực dân Pháp. Lực lượng tư sản còn
lại được chia làm hai loại: công nghiệp và thương nghiệp. Ngoài ra, có
nhiều hộ khác chuyên cho vay nặng lãi và dịch vụ cầm đồ hoạt động chủ
yếu ở các thành phố lớn. Nhưng nhìn chung tư sản người Việt không đông,
phần nhiều là tư sản người Hoa.
Giai cấp công nhân công nghiệp chiếm tỉ lệ khá cao, tập trung chủ
yếu trong 13 ngành công nghiệp. Với số lượng 18.577 người, họ là lực
lượng lao động trong các ngành thuộc công nhiệp Trung ương và địa
phương. Công nhân lao động trong các cơ sở của tư nhân cũng tăng lên vài
vạn người. Vì tư sản Việt Nam không lớn số đơn vị thuê từ 100 công nhân
trở nên rất ít. Bộ phận tư sản và công nhân trong cơ sở sản xuất tư doanh
tập trung chủ yếu trong khu vực công nghệ thực phẩm.
Bộ phận cư dân nông nghiệp vẫn là lực lượng xã hội đông đảo nhất
trong toàn bộ hệ thống kết cấu xã hội miền Bắc. Tầng lớp địa chủ có biến
đổi ít nhiều so với trước. Tuy thế lực và uy tín của họ không còn như trước
10
11
và dù tài sản của họ đã giảm hàng trăm ngàn hecta ruộng đất nhưng họ vẫn
chiếm hữu số lượng ruộng đất rất lớn.
Tầng lớp phú nông trong thời gian này thay đổi không đáng kể. Lực
lượng này chiếm 1,6% dân số nông thôn với 4,7% diện tích ruộng đất.
Tầng lớp trung nông chiếm 36,4% dân số và chiếm hữu 39% ruộng
đất ở nông thôn. Đây là lực lượng ít bị xáo trộn nhất trong xã hội.

Chưa có sự thay đổi kinh tế đáng kể nào cho tầng lớp bần, cố nông
trong thời kì này nhưng họ không bị chèn ép về chính trị từ tầng lớp trên
như thời kì trước.
Bức tranh tổng quát của xã hội miền Bắc thời kì này là dù bất cứ địa
phương nào, bất cứ ngành kinh tế phục vụ khu vực sản xuất nào, cơ cấu xã
hội và lực lượng lao động xã hội cũng tồn tại trong hai hình thức quản lý
hoặc thuộc Nhà nước – tập thể, hoặc thuộc tư nhân. Từ hai vùng quản lý
với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau đã thu về một mối, do Chính
phủ kiểm soát. Tuy miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng nhưng giải
phóng giai cấp vẫn chưa thể thực hiện được. Trong hoàn cảnh “giao thời”
đó trong lòng xã hội miền Bắc tồn tại đồng thời nhiều tầng lớp, giai cấp
khác nhau nhưng tất cả đang trong trạng thái chuyển hóa. Từ đó nó tạo nên
một bức tranh cơ cấu giai cấp xã hội vừa phong phú vừa phức tạp trong xã
hội miền Bắc nói riêng và cả dân tộc nói chung.
b) Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc trong những năm
1955 – 1957
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã vạch ra con đường giải phóng dân
tộc là phải đánh đổ đế quốc cùng bè lũ tay sai của nó tiến tới thực hiện
khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, chia ruộng đất cho nhân dân. Ngay từ
năm 1953, để huy động toàn bộ sức mạnh cho trận chiến cuối cùng ở Điện
Biên Phủ, Đảng Cộng sản và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tiến hành cải cách ruộng đất đợt một. Đến khi hòa bình được lập lại công
cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện tiếp.
11
12
Để thực hiện công việc này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu đối
tượng cách mạng cần phải đánh đổ và những lực lượng xã hội đóng vai trò
chủ công trong công cuộc đó. “Tiêu chuẩn cốt yếu để phân định thành phần
giai cấp là nguồn sống chính của mỗi người, mỗi gia đình, do ở chỗ họ có
hay không có ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa,...có những gì, có bao

nhiêu,sử dụng thế nào (tự làm lấy, thuê người làm, hoặc phát canh thu tô),
mà định họ thuộc hạng bóc lột, bị bóc lột hay tự lao động”
7
.
Công cuộc cải cách ruộng đất được dựa trên nguyên tắc cơ bản là: 1.
Khẳng định quyền sở hữu tối cao về ruộng đất là của Nhà nước và của toàn
dân; 2. Có phân biệt đối xử đối với các gia đình địa chủ trong quá trình thu
ruộng đất và các tài sản khác của họ để chia cho nông dân; 3. Phương thức
cấp ruộng đất là căn cứ vào tổng diện tích vốn có của mỗi địa phương, cố
gắng chia tương đối đồng đều diện tích canh tác giữa các hộ; 4. Ưu đãi đối
với những người tham gia cách mạng, thoát li bằng cách chia một phần đất
cho gia đình họ đang canh tác ở quê.
Quá trình cải cách ruộng đất trong giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt
to lớn, lâu dài trong tiến trình phát triển nông nghiệp, nông thôn miền Bắc,
đồng thời tạo nên bộ mặt mới trong cơ cấu xã hội nông thôn khu vực này.
• Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội ở vùng nông thôn trong cải cách
ruộng đất:
Cuộc cải cách ruộng đất diễn ra liên tục và quyết liệt từ 1955 đến
1957. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đội cải cách, hơn 3.300 xã lần lượt
thực hiện cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách này đã lôi cuốn khoảng
2.400.000 hộ vào cuộc vận động chưa từng có trong lịch sử nông dân và
nông thôn Việt Nam.
Từ thấp lên cao, cải cách ruộng đất phát triển khắp nơi, qua năm đợt
liên tiếp. Đợt năm có quy mô rộng lớn nhất, là cuộc “tổng phản công” vào
7
Sách đã dẫn.
12
13
giai cấp địa chủ. Chính khi phong trào đang diễn ra ở đỉnh cao nhất thì
những thiếu sót, sai lầm của công cuộc được bộc lộ rõ rệt nhất.

Khi phát hiện ra những thiếu sót thuộc tả khuynh, giáo điều, Đảng và
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nghiêm khắc tự phê bình
và tiến hành công tác sửa sai khiến cho kết quả của cuộc cải cách ruộng đất
là rất to lớn. Diện mạo mới trong kết cấu xã hội trong nông thôn miền Bắc
được hình thành.
Cuộc cải cách đã xóa đi sự phân cực xã hội giữa các giai cấp đối
kháng và ngay trong cùng một giai cấp, tạo ra một trạng thái tương đối cân
bằng về kinh tế, về vị trí xã hội cho phần lớn cư dân nông nghiệp. Giai cấp
địa chủ đã bị thủ tiêu về chính trị và xóa bỏ về kinh tế. Bóc lột kiểu phú
nông cùng với kinh tế phú nông bị kiềm chế lại. 50% nông dân ở nông thôn
được chia ruộng đất và trở thành người nông dân độc lập về kinh tế.
Địa chủ, phú nông không còn là trung tâm của xã hội mà thay vào
đó, tầng lớp trung nông cũ và mới (gồm một số bần nông cũ, sau khi có
ruộng đất trở thành trung nông) là trung tâm của xã hội mới.
Đánh giá ý nghĩa, vai trò của cải cách ruộng đất, Hồ Chủ tịch khẳng
định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông thôn, long trời
chuyển đất. Không những nó có quan hệ trực tiếp với giai cấp nông dân và
giai cấp địa chủ, mà còn ảnh hưởng lớn đến nhiều tầng lớp khác”
8
.
• Sự biến đổi ở giai cấp công nhân và các tầng lớp khác
Chính sách cởi mở trong thời kì khôi phục kinh tế và phát triển văn
hóa xã hội đã tạo đà cho các lực lượng sản xuất, kinh doanh ở khu vực phi
nông nghiệp, bao gồm công nhân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, tư
bản tư doanh ở cả hai khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân phát triển khá
nhanh.
Lực lượng công nhân, viên chức: trong khu vực cơ quan xí nghiệp
nhà nước tăng lên khá nhanh. Nếu tính cả diện thoát ly thì năm 1955 tổng
số cán bộ, công nhân viên chức có 168.250 người, năm 1956 tăng lên
8

Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN, 1996, tập 8, tr139.
13
14
226.150 người và 247.730 người vào cuối năm1957. Lực lượng này cũng
tham gia vào hai nhóm ngành: sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất
và so với thời gian trước lực lượng lao động trong hai nhóm này đều tăng,
nhưng tỉ lệ tăng trưởng ở khu vực sản xuất vật chất nhanh hơn so với khu
vực không sản xuất vật chất.
Khu vực sản xuất được chia làm 5 nhóm chính: công nghiệp, kiến
trúc, vận tải – bưu điện, thương nghiệp và nông trường quốc doanh. Trong
3 năm này, lực lượng lao động trong các nông trường quốc doanh là tăng
nhanh nhất.
Lực lượng lao động trong các nông trường là bộ phận chủ yếu của
lực lượng nông nghiệp quốc doanh với nhiệm vụ là xây dựng các khu trung
tâm kinh tế - xã hội cho vùng miền núi, tạo lập mô hình sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, đồng thời là củng cố an ninh.
Trong khu vực kinh tế Nhà nước, vào đầu thời kì khôi phục kinh tế,
công nhân ở khu vức kiến trúc đông nhất, nhưng sau đó số lượng công
nhân viên trong khu vực công nghiệp tăng lên.Ngoài các lực lượng trên,
còn có một bộ phận công nhân viên làm việc trong các cơ sở công nghiệp
tư doanh.
Lực lượng tiểu thương phát triển khá nhanh vài năm sau khi hòa
bình được lập lại. Từ năm 1955 – 1957, số hộ kinh doanh tư nhân, nhất là
tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ phát triển rất nhanh ở cả vùng nông thôn và
đô thị. Đến cuối năm 1957, có 78.456 cơ sở buôn bán với khoảng 230.000
thương nhân, đa số là người buôn bán nhỏ.
Giai cấp tư sản Việt Nam tuy ít về số lượng, nhỏ về vốn kinh doanh,
nhưng trong ba năm khôi phục kinh tế, một số hộ đã giàu có hơn, có hơn
chục cơ sở thuê trên 100 công nhân.
So với trước ngày hòa bình lập lại, xã hội miền Bắc đã đổi khác. Sự

tồn tại của nhiều thành phần kinh tế xã hội trong những năm 1955 – 1957
cho phép khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế cùng mọi nguồn nhân lực
xã hội, vì thế đã đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đặt ra trong thời kì
khôi phục kinh tế miền Bắc.
14
15
2.2 Sự biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội Miền Bắc trong những năm
1958 – 1960
Sau thời kì khôi phục kinh tế và phát triển văn hoá, miền Bắc bước
vào thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình cải tạo các thành phần
kinh tế cá thể thành kinh tế tập thể hoặc toàn dân, đồng thời xây dựng và
phát triển những thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa từng có trước đây.Nội
dung cụ thể là đưa nông dân, thợ thủ công, lực lượng tiểu thương, tiểu chủ
vào hợp tác hóa, đồng thời đưa các hộ tư bản tư doanh vào công ty công tư
hợp doanh. Thực chất của quá trình này là xây dựng lực lượng xã hội mới
với phương thức sản xuất mới dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa là một quá trình “cách mạng về mọi mặt
nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu
sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, từ một nền kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền
kinh tế cân đối và hiện đại”
9
.
Trên cơ sở nguyên tắc và phương châm xây dựng xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam đã hoạch định những chính sách cải rạo và xây dựng cụ thể cho
từng lực lượng, từng vùng, từng ngành kinh tế trong quá trình thực hiện kế
hoạch ba năm lần thứ hai.
• Xác lập giai cấp nông dân tập thể

Sau cải cách ruộng đất, ở nông thôn miền Bắc có hiện tượng “vượt
cấp”, đa số hộ cố nông trước đây đã trở thành bần nông và tầng lớp bần
nông cũ đã vươn lên thành trung nông lớp dưới.
Tuy nhiên, do kĩ thuật canh tác lạc hậu, phụ thuộc vào tự nhiên nhiều
nên thường xuyên xảy ra mất mùa, không đủ ăn. Trước tình hình đó, nông
dân miền Bắc được đưa vào các hợp tác xã nông nghiệp. Riêng ở vùng
rừng núi, vì công cuộc cải cách ruộng đất chưa tiến hành nên cuộc vận
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, NXB Sự thật, HN, 1960, tập
1, tr 54
15

×