Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.83 KB, 71 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
"Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh
vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các
nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những
ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp không gây ô
nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ
mới, cải tiến từng bộ phận tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam.
Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý". Đây là những yêu cầu để thực hiện
"Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI - Chiến lược
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp" mà báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII
tại Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra.
Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê
tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng không còn phù
hợp với tình hình mới, đôi khi giữa các văn bản này còn nhiều điểm chồng
chéo, mâu thuẫn. Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hoạt
động cho thuê tài chính nói riêng là những vấn đề chưa được quan tâm nghiên
cứu và xem xét một cách toàn diện. Do đó, việc nghiên cứu để từng bước
hoàn thiện lĩnh vực này là việc làm quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài:" Một số vấn đề
pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài
chính, cũng như thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong
thời gian qua, khoá luận sẽ rút ra những kết luận và kiến nghị nhằm góp phần
1
hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài
chính nói chung.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Khoá luận chỉ tập trung làm rõ (trên cơ sở so sánh các văn bản pháp luật)
một số khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính nói
chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng, đồng thời nêu ra thực trạng
về tình hình cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra các đề xuất,
kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khoá luận được hoàn thành dựa trên các nguyên tắc, phương pháp luận
của triết học mác - Lênin, lý luận Nhà nước và Pháp luật trong nghiên cứu.
Trong đó, Khoá luận chủ yếu vận dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra.
5. Kết cấu khoá luận.
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận được cấu
trúc bao gồm ba chương, như sau:
Chương I: Khái quát về hoạt động cho thuê tài chính
Chương II: Hợp đồng cho thuê tài chính
Chương III: Thuê tài chính ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện cơ sở pháp lý.
Do hạn chế về khuôn khổ khoá luận, thời lượng, nguồn tài liệu cũng như
khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các b ạn.
2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH.
I.1. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính.
I.1.1. Khái niệm:
Hoạt động cho thuê tài sản (Lease) đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử
(cách đây khoảng 4.000 năm) và được sử dụng phổ biến để đáp ứng nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt. Trong một giao dịch cho thuê, bên cho thuê chuyển
quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một thời gian nhất định còn bên
thuê phải trả tiền thuê. Ngời ta gọi phương thức cho thuê này là cho thuê

truyền thống. Trong suốt thời hạn hợp đồng, quyền sở hữu tài sản không
chuyển cho bên thuê nhưng bên thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản đó
như của chính mình.
Hình thức cho thuê tài chính xuất hiện trước tiên ở Hoa Kỳ vào năm
1952 do Công ty tư nhân United Stales Corporation sáng tạo ra nhằm đáp ứng
những nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Năm 1960, lần
đầu tiên một hợp đồng cho thuê tài chính được ký tại Anh với giá 18.000
Bảng. Cũng năm này, phương thức cho thuê tài chính đã được ghi vào Luật
Thương mại của Pháp dưới tên gọi "Credit Bail".
Giao dịch cho thuê tài chính hình thành giữa ba bên: Bên cho thuê, bên
thuê và nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Bên cho thuê trở thành chủ
sở hữu tài sản và bên thuê thuê lại theo thời hạn thoả thuận. Cho thuê tài
chính được sử dụng như một phương thức tài trợ vốn trung, đài hạn cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hoạt động cho thuê tài chính có thể được nhìn nhận trên hai phương diện
kinh tế và pháp lý, cụ thể là:
- Dưới góc độ kinh tế, cho thuê tài chính là hình thức thuê có tính chất
"tiền tệ". Hình thức này được định nghĩa là nghiệp vụ cho thuê mà Công ty
cho thuê lấy việc thu tiền cho thuê làm điều kiện, như bỏ tiền ra để mua các
thiết bị mà xí nghiệp, Công ty cần. Là một loại vốn tiền tệ, trong thời gian vừa
3
và dài thực hiện hình thức tiền - vật và phải hoàn trả đầy đủ
2
. Xét về bản chất
kinh tế, cho thuê tài chính là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hoạc dài
hạn dành cho doanh nghiệp. Bởi vì khoản tiền mà bên cho thuê bỏ ra để mua
tài sản cho thuê chính là một khoản tín dụng mà bên cho thuê cấp cho bên
thuê.
- Dưới góc đọ pháp lý, cho thuê tài chính là biểu hiện một loại quan hệ
pháp lý phát sinh từ một hợp đồng cho vay.

Việc ký một hợp đồng cho thuê tài chính tương tự như việc đi vay. Ngay
khi bắt đầu thời hạn thuê, bên thuê lập tức có một khoản tiền bởi họ không
phải trả tiền cho tài sản thuê. Điều này cũng có nghĩa là bên thuê đã vay được
một khoản tiền đủ để mua tài sản nhưng với cam kết sẽ trả khoản vay này
hàng kỳ bao gồm tiền gốc và lãi vay (tiền thuê) cho người cho vay. Chính vì
vậy, về mặt lưu chuyển các luồng tiền mặt, phương thức cho thuê và đi vay là
giống nhau. Tron cả hai trường hợp, bên thuê đều có một khoản tiền mặt lúc
ban đầu và phải trả nó về sau.
Sự khác biệt của phương thức cho thuê tài chính so với phương thức vay
chính là lý do lý giải sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp
cho thuê tài chính trên thế giới. Ưu điểm của cho thuê tài chính thể hiện ở
những lợi ích hơn hẳn phương thức vay mà nó dành cho cả bên thuê lẫn bên
cho thuê như:
- Đối với bên cho thuê: Bên cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản cho
thuê do vậy trong trường hợp bên thuê không thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng thêu (như không trả tiền thuê, cho thuê lại tài sản thuê mà không được
sự đồng ý của bên cho thuê…), thì bên cho thuê có quyền thu hồi ngay tài sản
cho thuê. Mặt khác, tài sản thuê không thuộc sở hữu của bên thuê, do đó, bên
cho thuê bớt rủi ro trong trường hợp bên thuê phá sản hoặc vỡ nợ vì tản sản
thuê này không đưa vào bảng tài sản thanh lý của bên thuê.
2
Viện nghiên cứu v phà ổ biến tri thức bách khoa, Đại từ điển kinh tế thị trường
4
- Đối với bên thuê: Khi tham gia vào giao dịch cho thuê tài chính, bên
thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba
cho việc thuê. Ngoài ra, trong quá trình thuê, bên thuê không phải chịu một số
rằng buộc như khi áp dụng với hợp đồng vay chẳng hạn như phải kinh doanh
có lãi, có phương án khả thi trong việc sử dụng vốn vay…
Hiện nay, trong một số bài nghiên cứu có sử dụng thuật ngữ "Thuê
mua". Theo đó, "Thuê mua" được hiểu là hình thức thuê mà mọi rủi ro do bên

thuê phải gánh chịu, bên cho thuê vẫn giữ quyền sở hữu, cuối thời hạn thuê,
bên thuê đợc quyền sở hữu đối với tài sản thuê.
Ví dụ, "Thuê mua máy bay" là hình thức thuê máy bay mà bên thuê phải
trả trước đến 15% giá trị máy bay, hàng kỳ trả tiền thuê máy bay (thường từ
10 - 12 năm đối với máy bay phản lực, 7 - 10 năm đối với máy bay cánh
quạt), cuối thời hạn thuê bên thuê trả nốt tiền và nhận quyền sở hữu đối với
máy bay.
Như vậy, xét về bản chất "Thuê mua" cũng là một hình thức của cho
thuê tài chính. Nếu trong giao dịch cho thuê tài chính, bên thuê có thể được
mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều khoản đã thoả thuận trong
hợp đồng thuê và những thoả thuận này phải được các bên ghi vào hợp đồng.
Còn trong giao dịch "thuê mua", việc nhận quyền sở hữu đối với tài sản thuê
vào cuối thời gian thuê là quyền của bên thuê.
Ở Việt Nam, khái niệm cho thuê tài chính lần đầu tiên được đề cập trong
Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ban
hành theo Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ (sau đây gọi là
Nghị định 64). Trong một số văn bản pháp lý trước đây, còn có thêm thuật
ngữ "Tín dụng thuê mua" (Thí dụ, tại Quyết định của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước số 149/QĐ - NH 5 ngày 27/5/1995 về việc ban hành Thể lệ Tín
dụng Thuê mua (sau đây gọi là Quyết định số 149). "Tín dụng thuê mua"
được định nghĩa là: :hoạt động thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác
phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu
5
của bên thuê". Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc
thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài
sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng thuê mua". Xétvề bản chất, tín dụng thuê mua cũng như cho
thuê tài chính.
Luật các Tổ chức Tín dụng được Quốc hội Khoá X, Kỳ họp thứ 2 thông

qua ngày 12/12/1997 (sau đây gọi là Luật Các Tổ chức Tín dụng) đã chính
thức quy định về cho thuê tài chính tại Khoản 11 Điều 20 như sau: "cho thuê
tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho
thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi
kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong thời hạn thuê, các bên
không được đơn phương huỷ hợp đồng".
Nghị định 64 gần đây đã bị thay thế bởi Nghị định 16 của Chính phủ
ngày 2/5/2001 quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài
chính (sau đây gọi là Nghị định 16). Tuy nhiên, trong bài Khoá luận này,
người viết vẫn đề cập tới các của Nghị định 64 trên cơ sở so sánh với Nghị
định 16. Điều 1 Nghị định 16 quy định:
"1. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu
của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai
bên thoả thuận.
2. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua
lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng
6
cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời
điểm ký hợp đồng".
Như vậy, chúng ta đã thống nhất sử dụng thuật ngữ "cho thuê tài chính"
trong các văn bản pháp luật như đã nói ở trên.
1.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm "cho thuê tài chính" nêu trên, có thể ra một sốđặc điểm đặc
thù của hoạt động cho thuê tải chính là:
Thứ nhất: tài sản thuê và Nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn mà

không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên cho thuê. Chính vì đặc
điểm này mà bên cho thuê không chịu trách nhiệm về việc tài sản không được
giao hoặc không giao đúng với các điều kiện cho bên thuê thoả thuận với bên
cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16).
Thứ hai: thời hạn thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian
hữu dụng của tài sản và không thể bị huỷ ngang theo ý chí của một bên. Đặc
điểm này nêu bật rõ những lợi ích mà cho thuê tài chính mang lại không chỉ
riêng cho các chủ thể tham gia hợp đồng mà cho cả nền kinh tế.
Thứ ba: Phần lớn những chi phí cho việc vận hành, bảo dưỡng, bảo hiểm
tài sản được chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê. Theo quy định tại
Khoản 5, 6 Điều 26 Nghị định 16: "Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc mất mát,
hư hỏng đối với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử
dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử
dụng tài sản thuê. Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa
tài sản thuê trong thời hạn thuê. Không được tẩy xoá, làm hỏng ký hiệu sở
hữu gắn trên tài sản thuê".
3
Chính từ những đặc điểm nêu trên, có thể phân biệt cho thuê tài chính
với phương thức thuê vận hành.
3
Xem trang 3
7
Tiêu chí Cho thuê tài chính Thuê vận hành
Thời hạn thuê Trung và dài hạn, chiếm
phần lớn thời gian hữu
dụng của tài sản thuê
Thời hạn thuê ngắn
Huỷ ngang Không được phép huỷ
ngang theo ý chí của 1
bên

Được phép huỷ ngang
nhưng phải thông báo
trước một thời gian
Trách nhiệm bảo dưỡng,
bảo hiểm
Thuộc về bên thuê Thuộc về bên cho thuê
Chuyển quyền sở hữu Hai bên thoả thuận khi
kết thúc hợp đồng
Tài sản trở lại bên cho
thuê
Trách nhiệm về rủi ro Bên thuê phải chịu kể cả
những rủi ro không phải
do lỗi của mình gây ra
Bên cho thuê phải chịu,
trừ trường hợp do lỗi
của bên thuê gây ra
Việc một giao dịch được phân loại là cho thuê tài chính hay không phụ
thuộc vào bản chất của giao dịch chứ không phụ thuộc vào loại hợp đồng.
Một giao dịch được coi là cho thuê tài chính nếu nó chuyển giao gần như tất
các rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu cho bên thuê. Loại thuê này
thường không thể huỷ bỏ và đảm bảo cho bên cho thuê việc hoàn vốn và lợi
nhuận đối với số tiền đã cho vay để dùng vào việc mua tài sản. Đồng thời,
thông thường bên thuê sẽ nhận lại thiết bị khi hết hạn hợp đồng thuê sau khi
trả một khoản tiền mang tính chất tượng trưng hay đã sử dụng thiết bị trong
phần lớn thời gian hữu dụng. Bởi vậy, bên thuê tuy không phải chủ sở hữu về
mặt pháp lý của thiết bị trong thời hạn thuê, nhưng bên thuê thực sự chịu mọi
rủi ro và hướng mọi lợi ích kinh tế của quyền sở hữu. Bên cho thuê tuy là chủ
sở hữu của thiết bị lại ở một vị thế tương đương với một nhà đầu tư tài chính
chứ không phải là một chủ sở hữu.
1.2. Lợi ích của cho thuê tài chính.

8
Tham giao vào một giao dịch cho thuê tài chính thường bao gồm bên cho
thuê, bên thuê và nhà sản xuất hay cung ứng. Lợi ích của cho thuê tài chính
đem lại cho các bên tham gia nói riêng và nền kinh tế nói chung là:
1.2.1. Đối với bên cho thuê:
- Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ hạn chế tới mức thấp nhất
những rủi ro có thể xảy ra. Vì trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản
luôn thuộc về bên cho thuê. Do đó, nếu có những đe doạ đối với sự an toàn
của tài sản thuê (chẳng hạn bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải
thể…), bên cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức.
Mặt khác, trong cho thuê tài chính, vốn tài trợ được thể hiện bằng hiện vật (tài
sản thuê) nên không bị ảnh hưởng của lạm phát. Bên cho thuê cũng không
phải chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản do tác động của điều kiện
khách quan;
- Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay được sử dụng
đúng mục đích như trong hợp đồng, vì dưới hình thức này, bên cho thuê trực
tiếp mua máy móc thiết bị từ nhà cung cấp (thường là sau khi người đi thuê đã
lựa chọn) và do đó người đi thuê không có cơ hội sử dụng được tài trợ vào
mục đích khác. Qua đó, bên có thuê đảm bảo được khả năng thu hồi nợ từ
người đi thuê.
- Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa
dạng hoá việc sử dụng vốn, đồng thời mở rộng mối quan hệ kinh doanh đa
phương.
- Cho thuê tài chính giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh;
Trong thời gian tài trợ, vốn của ngời cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản
cho thuê, số tiền này sẽ được thu hồi dần và cho phép người cho thuê có thể
sử dụng vốn đó để tái đầu tư vào những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh
lợi nhuận và giữ vững được nhịp độ hoạt động của mình.
- Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh.
Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách là nhà

9
tài trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không
nhất thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật, nghiệp
vụ.
Hơn nữa, độ an toàn cho vốn đầu tư cao, nên nhìn chung thủ tục tài trợ
thường đơn giản, nhanh gọn hơn so với trường hợp cho vay".
1.2.2. Đối với bên thuê.
- Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn
chế về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công
suất của doanh nghiệp có thể được đặt ra vào bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các
nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó, các doanh
nghiệp Việt Nam phổ biến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số doanh nghiệp
có vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số các doanh
nghiệp. Loại doanh nghiệp có quy mô tài sản cố định từ 1 tỷ - 10 tỷ đồng
chiếm 58%, phần còn lại chiếm 25% có quy mô dưới 1 tỷ đồng, những doanh
nghiệp này thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn.
Nếu di vay theo các thể thức tín dụng thông thường lại thiếu tài sản thế chấp.
Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn
mua được máy móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất và sau một số năm
có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có một nhu cầu rất
lớn về đầu tư, từ việc đầu tư một nhà máy mới với dây chuyền sản xuất hoàn
chỉnh cho tới việc đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy móc, phương tiện
vận chuyển, thông tin liên lạc…có trình độ trung bình khá trở lên so với thế
giới. Trong một số ngành không nhất thiết phải có ngay các công nghệ hiện
đại, bởi Việt Nam có lợi thế trong các ngành có lực lượng lao động cao nhờ
tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá lao rộng rẻ. Ưu thế của tín dụng cho
thuê tài chính có thể giải quyết tốt nhu cầu này.
- Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các Tổ
chức tài chính cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính.

10
Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh
nghiệp mới thành lập, chưa có uy tín với các Tổ chức tài chính thường rất khó
thoả mãn các điều kiện chống rủi ro nên thường bị các tổ chức này từ chối
cho vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho thuê tài chính là bên cho thuê nắm
quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo
dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, các Công
ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng
ngay cả khi vị thế tài chính, uy tín của họ có những hạn chế.
Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính các loại tài sản
thiết bị nên các Công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới hoạt động
rộng rãi, có nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị),
có đội ngũ cán bộ hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp
cho các doanh nghiệp các loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho
các doanh nghiệp so với trường hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời,
thông qua cho thuê tài chính mà doanh nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhượng
các máy móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều này phải đi đôi với việc phát
triển một thị trường công nghệ cũ và mới thông qua các trung gian là các
Công ty cho thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị, công
nghệ nên các Công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho
phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trường khác nhau.
- Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng
vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh
nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển
dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi
vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử
dụng. Mặt khác, nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh
mà có nhu cầu về thiết bị và tài sản thì vẫn có thể thực hiện được thông qua
mua tài sản cố định.
11

- Cho thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư
đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tăng vốn
khác, cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều
kiện tài trợ cũng đơn giản hơn. Do bên thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung
ứng tài sản thiết bị, hay đàm phán, thoả thuận trước về hợp đồng mua bán
thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu Công ty cho thuê tài chính có
thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi vị thế tài
chính, uy tín của họ có những hạn chế.
Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính các loại tài sản
thiết bị nên ccá Công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới hoạt động
rộng rãi, có nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị),
có đội ngũ cán bộ hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp
cho các doanh nghiệp các loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho
các doanh nghiệp so với trường hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời,
thông qua cho thuê tài chính mà doanh nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhượng
các máy móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều này phải đi đôi với việc phát
triển một thị trường công nghệ cũ và mới thông qua các trung gian là các
Công ty cho thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị, công
nghệ nên các Công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho
phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trường khác nhau.
- Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng
vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh
nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển
dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi
vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử
dụng. Mặt khác, nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh
mà có nhu cầu về thiết bị và tài sản thì có thể thực hiện được thông qua mua
tài sản cố định.
12
- Cho thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư

đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tăng vốn
khác, cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn nên các thủ tục và điều
kiện tài trợ cũng đơn giản hơn. Do bên thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung
ứng tài sản thiết bị, hay đàm phán, thoả thuận trước về hợp đồng mua bán
thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu Công ty cho thuê tài chính tài
trợ nên có thể cho phép bên thuê rút ngắn thời gian tiến hành đầu tư thiết bị.
Mặt khác, nếu tài sản cho thuê là tài sản của Công ty cho thuê tài chính thì các
thông số kỹ thuật của thiết bị, các ý kiến tư vấn cho những vấn đề phát sinh
trong đầu tư được các Công ty này đưa ra phục vụ khách hàng thường rất hữu
ích. Hiện nay, các Công ty cho thuê tài chính có xu hướng hoạt động chuyên
môn hoá sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê, thường tổ chức cung ứng các loại
thiết bị theo phương thức khép kín, thiết bị thường bị gắn liền với phụ tùng,
linh kiện, kỹ năng quản trị, sản phẩm cho khách hàng. Điều này giúp bên thuê
nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh doanh.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc
độ phát triển của công nghệ mới. Trong điều kiện bùng nổ công nghệ hiện
nay, việc thay đổi thiết bị, máy móc theo kịp đà phát triển của công nghệ mới,
góp phần sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên
thị trường là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhưng
đây cũng là một khó khăn đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị),
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia đang phát triển hoặc đối
với cá doanh nghiệp phải tự xuất vốn hay vay vốn để đầu tư. Cho thuê tài
chính có thể góp phần vào việc giải bài toán về vốn và công nghệ này.
- Thông qua cho thuê tài chính, việc thay đổi công nghệ của doanh
nghiệp diễn ra có ưu thế hơn so với các hình thức tài trợ khác (do đặc điểm
của nó là thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, nên mọi rủi ro về mặt pháp lý
và những rủi ro hao mòn vô hình đều thuộc về phía bên cho thuê. Bên cho
13
thuê thường phải sử dụng những khả năng chuyên biệt về nghiệp vụ cho thuê
tài chính để khắc phục những rủi ro này).

- Cho thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp Việt Nam thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp Việt Nam
có thể huy động được vốn nước ngoài thông qua các Công ty cho thuê tài
chính quốc tế hay các Công ty liên doanh cho thuê tài chính hoạt động ở Việt
Nam. Lợi thế chính là hiện nay mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn quốc
tế thấp hơn lãi suất vay ở Việt Nam, do đó thông qua thuê máy móc thiết bị,
các doanh nghiệp có thể nhận được vốn tài trợ có mức lãi suất thấp hơn so với
thị trường vốn bằng đồng Việt Nam.
- Cho thuê tài chính cho phép bên thuê hoãn thuế. Các Khoản tiền thuê
phải trả hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó chúng làm
giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó,
khoản chi phí này được nhân với tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp
và nhân với lãi suất cho vay của ngân hàng sẽ cho ta biết tỷ lệ tiết kiệm do
hoãn thuế bởi cho thuê tài chính đem lại cho doanh nghiệp.
- Số tiền thuê mà bên thuê phải trả được tính vào chi phí kinh doanh. Do
đó, chúng làm giảm số thuế mà họ phải trả. Sau khi hợp đồng cho thuê kết
thúc, nếu bên thuê được quyền chọn mua tài sản thì giá mua thường thấp hơn
so với giá trị còn lại của tài sản trong khi nghĩa vụ trả nợ đã hết.
1.2.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị).
Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) khi chào bán sản phẩm của
mình trên thị trường đều mong muốn bên mua sẽ trả đủ tiền để nhà sản xuất
(hoặc nhà cung cấp thiết bị) có vốn lưu động, tạo cơ hội mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng trên thực tế, không phải tất cả các chủ
thể muốn mua thiết bị đều có đủ khả năng về tài chính hoặc trong trường hợp
có doanh nghiệp đủ khả năng về tài chính nhưng họ không muốn đầu tư một
số tiền này để làm vốn lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh).
Chính vì vậy, thông qua hợp đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê trong
14
hợp đồng này sẽ mua tài sản thuê để cho thuê và hoãn trả toàn bộ số tiền
tương ứng với giá trị tài sản.

- Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, nhà sản xuất (hoặc nhà cung
cấp thiết bị) sẽ tìm hiểu được nhu cầu thiết yếu của bản thân người sử dụng
thiết bị, từ đó có kế hoạch đầu tư đúng đắn.
- Thông qua cho thuê tài chính, các nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp
thiết bị) có thể bán thiết bị cũ, nhập thiết bị mới hay nhận được lời khuyên
nên áp dụng trình độ công nghệ ở mức nào cho phù hợp với doanh nghiệp, thị
trường và môi trường kinh tế vĩ mô.
1.2.4. Đối với nền kinh tế.
Cho thuê tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể
có liên quan mà hình thức này còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế.
Điều này thể hiện:
- Cho thuê tài chính là hình thức thu hút vốn đầu tư trung, dài hạn cho
nền kinh tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng
rãi hơn các hình thức khác nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các
thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và nhất là các Tổ
chức tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó, hoạt động cho thuê tài chính
đã huy động được những nguồn vốn nhãn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm
chí thu hút vốn đầu tư các lĩnh vực đầu tư khác. Mặt khác, trong điều kiện
giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp cho quốc gia thu
hút các nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các loại máy móc tài sản
cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu tư
nước ngoài này không làm tăng Khoản nợ nước ngoài của quốc gia nhận được
tài sản cho thuê.
- Cho thuê tài chính thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức
tài chính. Ở rất nhiều quốc gia, sự phát triển của cho thuê tài chính đã dẫn tới
việc giảm các chi phí, đồng thời tăng các nguồn vốn cho hoạt động đầu tư;
15
- Cho thuê tài chính là nhân tố tác động tích cực cho sự phát triển của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ hầu hết các doanh nghiệp này đều không
đáp ứng được một số điều kiện nhất định khi có ý định vay tín dụng tại ngân

hàng. Đồng thời, nó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ,
thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại
máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh
nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những
điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả đối với các nước có nền kinh tế
phát triển cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp…cho thuê tài chính vẫn phát huy
tác dụng, cập nhật khoa học công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các
quốc gia chậm phát triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn
diện thì tác dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là trong thời đại ngày
nay, việc đầu tư công nghệ hiện đại một cách kịp thời nhanh chóng đối với
các nền kinh tế chậm phát triển gắp rất nhiều khó khăn. Nếu có chính sách
đúng đắn, hoạt động cho thuê tài chính có thể đáp ứng nhu cầu đổi mới công
nghệ nhanh chóng.
Bên cạnh những lợi thế, cho thuê tài chính cũng có những hạn chế nhất
định. Điều này lý giải tại sao hoạt động cho thuê tài chính không thể thay thế
hoàn toàn cho các hoạt động tín dụng khác với tư cách là một kênh cấp vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Những hạn chế đó là:
- Đối với bên thuê: Vào giai đoạn cuối của hợp đồng thuê, mặc dù bên
thuê đã trả gần như đủ số tiền thuê nhưng bên vẫn chưa được sử dụng tài sản
vào mục đích khác. Hơn nữa, bên thuê có thể phải chịu những rằng buộc
boỉưi một số biện pháp bảo đảm đối với tài sản thuê như: không cho người
khác thuê lại khi chưa có sự đồng ý của bên cho thuê hoặc phải chịu sự kiểm
tra bất cứ khi nào theo yêu cầu của bên cho thuê.
- Đối với bên cho thuê, rủi ro có thể xảy ra như: rủi ro về tài chính, khi
mà bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn hoặc tiền thuê nhận được không
đủ bù đắp vốn gốc; hoặc rủi ro liên quan đến tài sản thuê, khi mà tài sản cho
16
thuê không thu hồi về không thể cho thuê tiếp hay không bán được chúng; tài
sản do nhà nhà sản xuất giao cho bên cho thuê không đúng theo hợp đồng, tài
sản không được phép kinh doanh; hoặc rủi ro sự thay đổi về luật pháp, do sự

biến động của thị trường bởi khủng hoảng kinh tế.
5
I.3. Các phương thức cho thuê tài chính
- Bên cho thuê: vay phần lớn số tiền tài trợ từ bên cho vay với vật thể
chấp chính là tài sản cho thuê hình thành bằng vốn vay, giữ quyền sở hữu và
cho thuê lại tài sản đó, phải trả nợ vay và được hưởng các Khoản chênh lệch
giữa tiền cho thuê và tiền tài trợ.
- Bên thuê: trả tiền thuê cho bên cho thuê theo yêu cầu của họ và chịu
mọi rủi ro có thể xảy ra với tài sản.
- Cho thuê giáo lưng (Under Lease).
Một trong những đặc điểm của cho thuê tài chính là các bên không được
huỷ ngang hợp đồng trước thời hạn. Do đó, nếu sau khi ký hợp đồng, bên thuê
không có nhu cầu sử dụng tài sản nữa và thời hạn thuê vẫn chưa hết thì họ sẽ
ở trong tình trạng bất lợi. Để khắc phục tình trạng này, bên thuê có thể tìm
một bên thuê thứ hai để cho thuê lại tài sản. Bên thuê thứ hai sẽ trả tiền thuê
cho bên thuê thứ nhất đồng thời có mọi quyền lợi, nghĩa vụ khác trong việc sử
dụng tài sản thuê. Tuy nhiên, vì hợp đồng ký giữa bên cho thuê và bên thuê
thứ nhất vẫn có hiệu lực nên bên thuê thứ nhất vẫn có nghĩa vụ trả tiền thuê
cho bên cho thuê và phải chịu trách nhiệm liên đối đối với những rủi ro, thiệt
hại có thể xảy ra đối với tài sản. Việc cho thuê lại chỉ được tiến hành nếu có
sự đồng ý của bên cho thuê.
Pháp luật Việt Nam quy định, bên thuê không được chuyển quyền sử
dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không được bên cho thuê
đồng ý bằng văn bản (điểm a Khoản 2 Điều 63 Luật Các Tổ chức Tín dụng).
- Bán và tái thuê (Sale and Lease - back).
5
Đo n Thanh H , Cho thuê t i chính - già à à ải pháp về vốn để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp, Tạp
chí T i chính doanh nghià ệp 11/2000
17
Hình thức bán và tái thuê được doanh nghiệp sử dụng khi doanh nghiệp

khó khăn về vốn lưu động nhưng lại không thể vay hoặc bán đứt tài sản, thiết
bị đang sử dụng đi được. Trong giao dịch này, doanh nghiệp bán một tài sản,
thiết bị cho Công ty cho thuê tài chính và ngay lúc đó thuê lại chính tài sản,
thiết bị này từ Công ty. Lúc này, doanh nghiệp sẽ vốn để tiếp tục sản xuất.
Cho đến cuối thời hạn thuê, khi đã trả hết tiền thuê, doanh nghiệp sẽ thực hiện
quyền chọn mua (nếu có) và các tài sản, thiết bị này trở lại quyền sở hữu của
doanh nghiệp. Như vậy, bản chất của thoả thuận bán và tái thuế là: người thuê
giữ lại quyền sử dụng trong khi chuyển giao quyền sở hữu.
Hình thức này đã được ghi nhận tại Khoản 3, Điều 16, Nghị định 16:
Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (gọi tắt là mua và cho
thuê lại). Theo hình thức này, Công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc,
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác thuộc sở hữu của bên
thuê và bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho
hoạt động của mình.
- Thuê qua biên giới (Cross - border Lease)
Các bên tham gia quan hệ thuê qua biên giới cũng giống như các bên
trong hình thức thuê bắc cầu. Tài sản cho thuê qua biên giới thường đòi hỏi
vốn lớn, có giá trị cao như máy bay, tài vận tải biển nhưng nó khác với thuế
bắc cầu là các bên trong quan hệ thuê qua biên giới như bên cho thuê, bên
thuê có trụ sở và quốc tịch ở các nước khác nhau. Lợi thế của hình thức này là
các bên được hưởng lợi từ việc miễn thuế hoặc do chính sách thuế khác nhau
của từng nước, như bên cho thuê không phải nộp thuế xuất khẩu do xuất khẩu
được hàng hoá, bên thuê do nhập thiết bị phục vụ sản xuất nên được miễn
thuế nhập khẩu và thuế VAT (như ở Việt Nam hiện nay). Do được hưởng lợi
từ thuế, bên thuê sẽ có lợi của việc giảm tiền thuê, nhờ đó sẽ giảm tiền khấu
hao tài sản của chính tài sản thuê.
6
6
Lý Quốc Hùng, Thuê t i chính: các hình thà ức, lợi ích v quy à định hiện h nh cà ủa pháp luật Việt Nam,
tạp chí nghiên cứu lập pháp.

18
Thông qua việc giao kết các hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể xác
lập quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ này sẽ bao gồm những
nội dung gì? Có khác so với hợp đồng thuê thông thường không?…Phần tiếp
theo của khoá luận sẽ nghiên cứu những khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp
đồng cho thuê tài chính trên cơ sở đó có sự so sánh với hợp đồng thuê thông
thường và nêu ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện chế định này.
I.4. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho
thuê tài chính.
II.4.1. Khái niệm.
Các nước trên thế giới có hoạt động cho thuê tài chính phát triển không
sử dụng khái niệm về hợp đồng cho thuê tài chính, thay vào đó, họ đưa ra
khái niệm về hợp đồng thuê mua. Ví dụ:
- Ở ý - Hợp đồng thuê mua (LF) là hợp đồng giao kết giữa người đi thuê
và bên cho thuê về việc cho thuê các loại thiết bị do bên cho thuê mua hoặc
sản xuất, nội dung của hợp đồng phải phù hợp với giải trình của bên đi thuê
và có hiệu lực trong một thời hạn nhất định. Cuối thời hạn thuê, người đi thuê
có quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá định trước.
- Ở Tây Ban Nha - Hợp đồng thuê mua (AF) là loại hợp đồng với mục
đích nhượng lại quyền sử dụng động sản hay bất động sản của bên cho thuê
theo sự xác định của người điu thuê theo hợp đồng. Hợp đồng này phải cho
phép bên thuê có quyền mua tài sản đã thuê vào cuối giai đoạn thuê mua.
Ở nước ta hiện nay, nội dung khái niệm hợp đồng cho thuê tài chính có
thể được hiểu trên hai phương diện:
Thứ nhất: Trên phương diện lý thuyết, hợp đồng cho thuê tài chính được
định nghĩa là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê (Công ty tài chính
hoặc Công ty cho thuê tài chính) với bên thuê (tổ chức và cá nhân kinh
doanh), theo đó bên cho thuê cung cấp tài sản thuê cho bên thuê sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo yêu cầu của bên thuê, với điều kiện trả tiền
19

thuê và thoả thuận thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê khi hợp đồng thuê đáo
hạn.
Thứ hai: Trên phương diện pháp lý, Điều 13 Quyết định 149 định nghĩa,
"Hợp đồng tín dụng thuê mua là một hợp đồng được giao kết giữa Tổ chức tín
dụng và bên thuê và là cơ sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của
tổ chức tín dụng và bên thuê trong một giao dịch tín dụng thuê mua". Khái
niệm này không nêu được bản chất của hợp đồng tín dụng thuê mua là hợp
đồng kkt hay dân sự. Đến Nghị định 64, Hợp đồng cho thuê tài chính được
hiểu là "một loại hợp đồng kinh tế giữa bên cho thuê và bên thuê về việc thuê
một hoặc một số máy móc, thiết bị, động sản khác trong một thời gian nhất
định (thời hạn cho thuê) theo những điều kiện quy định tại Điều 3 Nghị định
64 (Điều 18)".
Điều 17 Nghị định 16 Quy định: "Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả
thuận (bằng văn bản) giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một
hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác theo
những quy định tại Điều 1 của Nghị định này, phù hợp với quyền và nghĩa vụ
của các bên. Hợp đồng phải ghi rõ việc xử lý khi hợp đồng chấm dứt trước
hạn. Bên cho thuê và bên thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng (trừ
những trường hợp nêu tại Điều 27 Nghị định 16)". Khác với Nghị định 64,
Nghị định 16 không khẳng định hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng kinh
tế hay dân sự. Cũng giống với trường hợp hợp đồng tín dụng, việc xác định
một hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng kinh tế hay dân sự và vì vậy căn
cứ vào chủ thể và mục đích của hợp đồng. Nghĩa là:
- Hợp đồng cho thuê tài chính được coi là hợp đồng kinh tế khi nó được
giao kết giữa Công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê là chủ thể kinh
doanh và việc giao kết hợp đồng cho thuê tài chính là nhằm mục đích kinh
doanh;
- Hợp đồng cho thuê tài chính được coi là hợp đồng dân sự khi nó được
giao kết giữa Công ty cho thuê tài chính với khách hàng thuê không phải là
20

chủ thể kinh doanh hoặc là chủ thể kinh doanh nhưng việc giao kết hợp đồng
cho thuê tài chính không nhằm mục đích kinh doanh.
Vì là một dạng của giao dịch kinh tế (dân sự), nên trước hết hợp đồng
cho thuê tài chính phải tuân thủ các điều kiện chung về một giao dịch có hiệu
lực pháp luật. Điều 131 Bộ Luật Dân sự Việt Nam (có hiệu lực từ 1996) quy
định về điều kiện một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật. Theo đó, một
giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật khi: (i) người tham gia giao dịch có
năng lực hành vi dân sự; (ii) mục đích và nội dung giao dịch không trái pháp
luật, đạo đức xã hội, (iii) người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; (iv)
hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy, trước hết hợp đồng cho thuê tài chính phải tuân thủ các điều
kiện chung về một giao dịch có hiệu lực pháp luật (như đã nêu trên). Ngoài ra,
giao dịch cho thuê tài chính còn phải tuân thủ những điều kiện riêng cụ thể là:
Theo quy định tại Điều 7 Quyết định 149. Điều 3 của Nghị định này quy định:
một giao dịch cho thuê tài chính phải thoả mãn một trong những điều kiện sau
đây:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai
bên;
- Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên
thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá
trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê. Quy định này đã gâp nhiều khó khăn cho các
Công ty cho thuê tài chính vì có những tài sản có giá trị lớn, có khả năng
chuyển nhượng dễ dàng và là tài sản có nhu cầu sử dụng của nhiều tổ chức
kinh tế nhưng mỗi chủ thể chỉ cần sử dụng trong thời gian ngắn. Trong trường
hợp có nhu cầu thuê tài sản có giá trị lớn với thời gian ngắn mà các đối tượng
đó không thể tham gia vào quan hệ thuê thì sẽ làm mất đi thị phần đáng kể
21

của thị trường cho thuê tài chính. Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi,
có thể đặt ra một số kha năng cho các chủ thể lựa chọn. Trong trường hợp có
nhiều bên thuê có khả năng về cùng loại tài sản nhưng không có nhu cầu sử
dụng thường xuyên, Công ty cho thuê tài chính có thể đồng thời giao kết với
nhiều bên thuê về tài sản. Đương nhiên, cách thức này sẽ có khó khăn nhất
định khi xử lý tài sản hết thời hạn thuê. Vấn đề này có thể giải quyết trong
điều Khoản xử lý tài sản bằng cách quy định các bên thoả thuận bán lại tài sản
cho một chủ thể với giá danh nghĩa hoặc tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho
thuê.
Trường hợp không giao kết được hợp đồng theo phương thức nêu trên,
bên cho thuê có thể được phép chó thuê với thời gian ngắn đối với nhiều chủ
thể có cùng nhu cầu nhưng số tiền thuê phải trả cao hơn so với quan hệ thuê
thông thường (có thể cao hơn 200% so với quan hệ thuê thông thường). Biện
pháp này vừa tạo điều kiện cho bên thuê cơ hội tốt nhất trong kinh doanh
đồng thời cũng giúp cho bên thuê nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư (thực hiện
khấu hao nhanh tài sản).
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất
phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp
đồng. Quy định này có điểm không phù hợp với thực tế áp dụng là đối với
những quan hệ cho thuê không có các biện pháp bảo đảm, bên thuê phải góp
vốn để mua tài sản tỉ lệ nhất định, thậm chí có trường hợp góp đến 50% giá trị
tài sản. Việc bên thuê phải góp vốn để mua tài sản thuê là hoàn toàn hợp lý
bởi lẽ quy định này gắn trách nhiệm bảo quản và sử dụng tài sản trong quá
trình sử dụng của bên thuê. Thế nhưng, nếu xác định tổng số tiền thuê phải trả
như trên, bên thuê phải trả tới 1,5 lần tổng số giá trị tài sản. Nếu chiểu theo
quy định của pháp luật trogn những trường hợp này không thể áp dụng được.
Theo chúng tôi, nên quy định tổng số tiền thuê phải trả ít nhất tương đương
với giá trị đầu tư của tổ chức tín dụng cho thuê vào tài sản tại thời điểm
chuyển giao tài sản cho bên thuê. Nếu quy định như vậy, nghĩa vụ trả tiền
22

thuê của bên thuê tài sản luôn tương ứng với phần tín dụng được cung cấp bởi
các Công ty cho thuê tài chính.
Theo quy định tại Nghị định 16, điều kiện xác định một giao dịch được
coi là cho thuê tài chính nếu:
- Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài
sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng
cho thuê tài chính.
- Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp
đồng (Khoản 2 Điều 1 Nghị định 16).
Như vậy, Nghị định 16 không quy định điều kiện xác định một giao dịch
cho thuê tài chính khi "Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng
60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê". Theo chúng tôi, pháp luật
cần phải bổ sung quy định về thời hạn cho thuê đối với tài sản thuê, bởi lẽ,
nếu không quy định điều kiện này có thể dẫn tới tính không đồng nhất với nội
dung khái niệm "cho thuê tài chính" đã nêu ra - Cho thuê tài chính là hoạt
động tín dụng trung và dài hạn.
II.4.2. Đặc điểm.
- Đặc điểm đặc trưng của hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng thanh
toán trọn vẹn và không thể bị huỷ ngang. Với một hợp đồng thuê tài sản thông
thường, khi không có nhu cầu thuê tiếp, bên thuê có thể trả lại tài sản thuê và
kết thúc thời hạn. Với hợp đồng cho thuê tài chính, điều này không thể xảy ra
vì tài sản thuê thường có giá trị lớn mà thời gian khấu hao tài sản dài. Nếu
như một trong các bên đơn phương huỷ bỏ cam kết của mình sẽ gây trở ngại
và khó khăn lớn cho bên kia. Giả sử bên cho thuê đòi thu hồi thiết bị trong khi
bên thuê đang tiến hành sản xuất kinh doanh có lãi, điều này sẽ gây ra những
thiệt hại không thể lường trước cho bên thuê. Ngược lại, trong trường hợp bên
thuê yêu cầu bên cho thuê nhận lại tài sản thuê trước khi hợp đồng cho thuê
tài chính hết hiệu lực, việc này cũng sẽ gây ra những hậu quả là bên cho thuê
23

khó có thể tìm ngay ra người có nhu cầu thiết bị đó. Tuy nhiên, cũng cần hiểu
rằng: tính chất không huỷ ngang của hợp đồng cho thuê tài chính không hề
ngăn cản việc bên cho thuê thu hồi tài sản thuê trước ngày đáo hạn và đòi bên
thuê phải trả toàn bộ số tiền thuê theo hợp đồng trong trường hợp bên thuê có
hành vi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng đã ký. Đặc điểm này do tính
chất của giao dịch cho thuê tài chính quyết định là trong mọi trường hợp sự an
toàn đối với vốn đầu tư phải luôn được đảm bảo.
- Trong suốt thời gian thuê, bên cho thuê dành cho bên thuê quyền chiếm
hữu và sử dụng (khai thác) tài sản thuê. Đổi lại, bên thuê phải trả cho bên cho
thuê tiền thuê tài sản theo định kỳ. Tuy nhiên, quyền sở hữu cụ thể là việc
dịnh đoạt đối với tài sản thuê vẫn thuộc về bên cho thuê. Trong hợp đồng cho
thuê tài chính mọi rủi ro cũng như chi phí cho việc sửa chữa và bảo dưỡng tài
sản thuê được chuyển giao cho bên thuê, nếu bên thuê vi phạm những yêu cầu
này, bên cho thuê có quyền yêu cầu đòi bồi thướng thiệt hại theo Điểm b
Khoản 1 Điều 62 Luật Các tổ chức Tín dụng. Đặc điểm này giúp ta phân biệt
rõ ràng giữa hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng thuê tài sản thông
thường. Trong quan hệ hợp đồng thuê tài sản thong thường, bên cho thuê
cũng chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho bên thuê, nhưng toàn bộ chi phí
về bảo dưỡng và sửa chữa vẫn thuộc về bên cho thuê. Bên thuê cũng có thể tụ
sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý và có
quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lý (Khoản 2 Điều 484 Bộ
Luật Dân sự).
- Trong hợp đồng cho thuê tài chính, quyền tự định đoạt của chủ tài sản
(bên cho thuê) có thể bị hạn chế do bên thuê có quyền lựa chọn mua tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê, nhưng điều
khoản này bắt buộc phải được thoả thuận trong hợp đồng (Khoản 2 Điều 17
Nghị định 16). Đặc điểm này cũng cho phép phân biệt hợp đồng cho thuê tài
chính với hợp đồng cho thuê tài sản thông thường, bởi lẽ, trong hợp đồng cho
thuê tài sản thông thường, bên cho thuê với tư cách là chủ tài sản có toàn
24

quyền quyết định trong việc bán lại tài sản thuê hoặc cho thuê tiếp hay khi
hợp đồng thuê kết thúc mà không cần phải thoả thuận trước điều Khoản này
trong hợp đồng.
II.4.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính.
Như đã nêu ở phần trên, hợp đồng cho thuê tài chính ngoài việc tuân thủ
những quy định mang tính nguyên tắc chung, để có thể xác định một giao
dịch là cho thuê tài chính còn phải đảm bảo các yêu cầu được quy định tại
Điều 19 Nghị định 64, đó là:
- Được lập thành văn bản;
- Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng thoả
thuận quy định trong hợp đồng.
Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng cho thuê tài chính, các chủ thể
đã không được thực hiện đúng theo các yêu cầu trên đây thhì hợp đồng sẽ vô
hiệu.
Khoản 2, 3 Điều 17 Nghị định 16 khẳng định: hợp đồng cho thuê tài
chính phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Bên
thuê và bên cho thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng cho thuê tài
chính (trừ những trường hợp do pháp luật quy định). Như vậy, trong thời gian
tới các hợp đồng cho thuê tài chính sau khi được giao kết sẽ không phải làm
thủ tục đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng nơi
Công ty cho thuê tài chính đặt trụ sở theo quy định của pháp luật. Quy định
hợp đồng phải đăng ký là thủ tục hành chính rườm rà. Quy định này đã gây ra
không ít khó khăn (ví dụ như việc nhũng nhiễu của một số nhân viên Ngân
hàng Nhà nước khi Công ty cho thuê tài chính đến đăng ký hợp đồng) trong
quá trình Công ty cho thuê tài chính tiến hành giao kết hợp đồng với khách
hàng. Chính vì lẽ đó, Nghị định 16 mới đây đã bỏ quy định hợp đồng cho thuê
tài chính phải đăng ký và chỉ quy định: Tài sản cho thuê tài chính phải đăng
ký tại Trung tâm giao dịch bảo đảm (Điều 19).
1.5. Phân loại hợp đồng cho thuê tài chính:
25

×