Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.49 KB, 56 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều
mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những
quan hệ để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội.
Song việc chuyển giao các lợi ích vật chất này không phải tự nhiên thiết lập mà
chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của chủ thể, nói như C.Mác thì: “Tự
chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn
cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với
nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” [6, tr.577]. Theo đó, chỉ
khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích
vật chất mới được hình thành và được gọi là hợp đồng. Hợp đồng theo nghĩa
chung nhất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể.
Ở nước ta Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã ra đời từ những năm đầu của
thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường đã tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp
đồng kinh tế và có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia
nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với tiến
trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở ra dựa trên sự
thiết lập nền tảng pháp lý là quyền tự do kinh doanh trong quan hệ thương mại
với phương thức hình thành chủ yếu là thông qua các quan hệ hợp đồng. Các
quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên đa dạng và
phức tạp hơn. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự
thỏa thuận tự nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan
hệ hợp đồng bình đẳng, an toàn, cùng có lợi cho các tổ chức, cá nhân với mục
đích đạt được lợi nhuận tối đa đã trở thành động lực trực tiếp của các bên tham
gia quan hệ hợp đồng thương mại. Trong điều kiện như vậy, pháp luật về hợp
đồng lĩnh vực thương mại có vai trò và tầm quan trọng lớn lao về nhiều mặt
và khía cạnh khác nhau.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện, những tài


liệu về hợp đồng được xuất bản ở nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề
1
pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam vẫn là một đề tài
lớn còn gây nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Vì lẽ đó, em đã chọn đề tài “Một
số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp với mong muốn được đóng góp những tìm tòi và nghiên
cứu của mình trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng, đặc biệt là về hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận có kết cấu gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
và pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh
vực thương mại tại Việt Nam và một số kiến nghị.
Khóa luận tốt nghiệp của em chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi những sơ
xuất và thiếu sót trong quá trình thực hiện. Kính mong nhận được những đánh
giá và nhận xét của các thày cô để em tiếp tục hoàn thiện đề tài cũng như vốn
hiểu biết và kiến thức của mình.
Em xin chân thành cám ơn!
2
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI
1.1 Bản chất pháp lý của hợp đồng và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Hiểu một cách khái quát và chung nhất theo nghĩa rộng, hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên đó.
Bản chất thực sự của hợp đồng là sự tự nguyện và thống nhất ý chí thông qua
thỏa thuận nhằm đạt được một hay nhiều lợi ích chung nào đó. Ở trong nền kinh
tế thị trường, các quan hệ kinh tế xã hội hầu hết đều được xác lập và thực hiện

thông qua các hình thức pháp lý là hợp đồng. Giao kết và thực hiện hợp đồng
chính là cách thức cơ bản nhằm thực hiện hiệu quả các hoạt động kinh tế trong
nền kinh tế thị trường.
Bộ Luật Dân Sự 2005 (BLDS 2005) đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân
sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS 2005). Theo
đó, phạm vi áp dụng của BLDS 2005, các quy định về hợp đồng dân sự được áp
dụng cho các hợp đồng nói chung bao gồm cả các hợp đồng phát sinh từ quan hệ
kinh doanh, thương mại. Do đó, khái niệm hợp đồng dân sự cũng là khái niện
chung về hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và
kinh doanh.
Vì vậy, hợp đồng trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân
sự. Tuy nhiên, bản thân nó cũng có những điểm riêng nhất định, khác biệt với
những loại hợp đồng dân sự thông thường theo cách hiểu truyền thống. Khi
nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, chúng ta có thể đặt hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự theo nguyên lý
“cái chung” và “cái riêng”. Theo cách tiếp cận này, những vấn đề cơ bản của hợp
đồng trong lĩnh vực thương mại như giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và cách xử lý hợp đồng vô
hiệu sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật và không có sự khác biệt nào với những
hợp đồng dân sự thông thường. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn sẽ vẫn gặp một số
3
những quy định cụ thể dành riêng cho hợp đồng trong lĩnh vực thương mại do
xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, để nhận diện hợp đồng trong
thương mại, có thể căn cứ vào các tiêu chí pháp lý chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiêu chí về chủ thể của hợp đồng:
Hợp đồng trong lĩnh vực thương mại thiết lập chủ yếu giữa các thương
nhân. Theo Luật thương mại 2005 (LTM 2005): “thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động kinh doanh một cách độc

lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh” (Khoản 1, Điều 6).
Trong một số trường hợp, pháp luật quy định chủ thể hợp đồng đều phải là
thương nhân (như hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương
mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại…). Tuy nhiên, cũng có những
trường hợp khác hợp đồng trong thương mại chỉ đòi hỏi ít nhất một bên là
thương nhân (như hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa, hợp đồng môi giới
thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng...).
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng:
Hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được thiết lập dựa trên cơ sở cách
thức hai bên thỏa thuận theo ý chí tự nguyện, nó có thể được thể hiện dựa trên
hình thức lời nói, văn bản hoặc cũng có thể là hành vi cụ thể của các bên giao
kết. Trong thực tiễn, có một số trường hợp pháp luật bắt buộc các bên phải lập
hợp đồng thành văn bản, ví dụ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng
dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ... LTM 2005 đồng thời cho phép các
bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng hình thúc khác có giá trị
pháp lí tương đương bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (Khoản
15, Điều 3, LTM 2005).
Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất
định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng.
Thứ ba, về mục đích của các bên trong hợp đồng:
Mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng lĩnh vực thương mại là lợi
nhuận. Mục đích lợi nhuận luôn là đặc trưng trong các giao dịch kinh doanh
thương mại do các bên hợp đồng đều nhằm thu được lợi nhuận từ việc thực hiện
hợp đồng. Tuy vậy trong thực tế có một số trường hợp một bên chủ thể của hợp
4
đồng không phải là thương nhân và họ giao kết hợp đồng không nhằm mục đích
lợi nhuận. Theo quy định của LTM 2005, việc có áp dụng luật thương mại để
điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không sẽ do bên không có mục đích lợi
nhuận quyết định (Khoản 3, Điều 1, LTM 2005).
1.2 Phân loại hợp đồng trong lĩnh vực thương mại

Việc phân loại hợp đồng nhằm mục đích xác định cơ chế điều chỉnh phù
hợp với tính chất của từng loại hợp đồng, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật
đối với hợp đồng. Theo Điều 406 BLDS 2005, hợp đồng được phân loại theo
những tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, căn cứ vào mức độ tương xứng về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên,
hợp đồng nói chung được phân chia thành hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau,
nghĩa là mỗi bên chủ thể tham gia hợp đồng vừa là người có quyền lại vừa có
nghĩa vụ. Do đó trong nội dung của hợp đồng này, quyền dân sự của chủ thể
tham gia này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể tham gia hợp đồng kia
và ngược lại. Ví dụ: trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thì bên bán có nghĩa vụ
giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng
hóa và trả tiền cho bên bán. Mặc dù trong Bộ luật dân sự không quy định việc
bắt buộc hợp đồng mua bán phải được thể hiện dưới hình thức cụ thể nào song
trong trường hợp hợp đồng được giao kết theo hình thức văn bản thì phải lập
thành nhiều văn bản để mỗi bên giữ một bản khi thực hiện. Khi các bên đã thoả
thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình
khi đến hạn, không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa
vụ đối với mình, trừ trường hợp tài sản của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng
đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia
có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có người bảo lãnh, hoặc nếu bên thực
hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Trong trường
hợp các bên không thoả thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải
đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Nếu nghĩa vụ không thể thực hiện
đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó
phải được thực hiện trước.
5
Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Điều này có
nghĩa là trong hợp đồng đơn vụ, chỉ có một hay nhiều chủ thể có nghĩa vụ mà
không có quyền gì đối với chủ thể kia, còn một hay nhiều chủ thể kia là người có

quyền nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào (ví dụ hợp đồng tặng cho một tài
sản vật chất có giá trị). Do đó, nếu hợp đồng được giao kết dưới hình thức viết
thì chỉ cần lập thành văn bản và giao cho bên có quyền giữ hợp đồng. Trong quá
trình thực hiện hợp đồng, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã
thoả thuận.
Trong cách phân loại hợp đồng này, cơ sở để xác định một hợp đồng là
song vụ hay hợp đồng đơn vụ chính là mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của
các bên giao kết tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Thứ hai, căn cứ vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các quan hệ
hợp đồng, hợp đồng được phân chia thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng
phụ. Theo đó, khi hợp đồng chính đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật
quy định, thì đương nhiên phát sinh hiệu lực, nghĩa là phát sinh hiệu lực bắt buộc
đối với các bên kể từ thời điểm giao kết.
Hợp đồng phụ là hợp đồng có hiệu lực khi có hai điều kiện sau: thứ nhất
phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, nội dung, đối tượng cũng
như hình thức của hợp đồng và thứ hai là hợp đồng chính có hiệu lực.
Thứ ba, căn cứ vào chủ thể được hưởng lợi từ hợp đồng, hợp đồng được
phân chia thành: hợp đồng vì lợi ích của các bên trong hợp đồng và hợp đồng vì
lợi ích của người thứ ba.
Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp
đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc
thực hiện nghĩa vụ đó. Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì
người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
đối với mình. Nếu các bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người
thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được
giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trong trường hợp người thứ ba từ chối lợi ích
của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ
6

không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng phải báo cho bên có quyền và hợp đồng
được coi là bị huỷ bỏ, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu
người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa
vụ thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện
cam kết đối với bên có nghĩa vụ. Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù
hợp đồng chưa được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa
đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý.
Còn ở hợp đồng vì lợi ích của các bên trong hợp đồng, việc thực hiện nghĩa
vụ của một bên nhằm mang lại lợi ích (đảm bảo quyền) của bên kia trong quan hệ
hợp đồng.
Thứ tư, căn cứ vào nội dung của mối quan hệ kinh tế, hợp đồng được chia
thành nhiều loại cụ thể như:
Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng
trong xây dựng cơ bản, hợp đồng trong trung gian thương mại (đại diện cho
thương nhân, môi giới kinh doanh, đại lý, ủy thác mua bán hàng hóa), hợp đồng
dịch vụ trong xúc tiến thương mại (hợp đồng dịch vụ quảng cáo, hợp đồng dịch vụ
trưng bày giới thiệu sản phẩm hàng hóa), hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm,
hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư (hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên
doanh…).
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của chế định pháp lý về hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam
Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng luôn dành nhiều quan tâm đặc
biệt cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng. Bởi lẽ, trong mọi
thể chế kinh tế, hợp đồng luôn được coi là công cụ pháp lí quan trọng để các
thương nhân tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại tìm kiếm lợi nhuận.
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật chung tất yếu này.
Ở nước ta, ngay sau khi hai miền Nam - Bắc thống nhất, hòa bình lập lại
sau 30 năm bền bỉ cả dân tộc đấu tranh chống ngoại xâm, ngay ngày 10/3/1975
Nhà nước đã ra Nghị định số 54/CP ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh
tế. Và sau đó không lâu, ngay từ những năm đầu của công cuộc “đổi mới” nền

kinh tế, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (được Hội đồng nhà nước ban hành ngày
25/9/1989 và đã hết hiệu lực từ ngày 01/01/2006) tiếp tục ra đời thay thế cho
7
Nghị định 54/CP, đánh dấu mốc quan trọng cho quá trình chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Và cho tới
ngày hôm nay, pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại đã có nhiều
thay đổi căn bản, từ tư tưởng đến nội dung và hình thức.
1.3.1 Giai đoạn từ 1945 đến năm 1989
Đây là giai đoạn trước đổi mới nền kinh tế, là những cơ sở đầu tiên làm
nền cho việc ra đời một chế định pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
hoàn chỉnh về sau.
Bắt đầu từ cách mạng tháng tám thành công năm 1945, đất nước ta giành
lại được độc lập từ tay người Pháp, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã ưu tiên dành nhiều chính sách, pháp luật để khuyến khích phát triển, khôi
phục kinh tế đang kiệt quệ của đất nước sau 9 năm kháng chiến chống Pháp
trường kì và gian khổ. Các quy định đầu tiên về hợp đồng đã ra đời. Do yếu tố
hoàn cảnh lịch sử, các quy định pháp luật về hợp đồng kinh tế (hợp đồng trong
thương mại) ra đời sớm hơn so với các quy định về hợp đồng dân sự. Ngay từ
những năm 1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về hợp
đồng kinh doanh kèm theo Nghị định số 735/TTG ngày 10/4/1956. Theo bản
Điều lệ đó, hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế với nhau đã được gọi chung là hợp
đồng kinh doanh, được kí kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ. Tuy vậy, trong lĩnh vực dân sự, chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số
77/SL ngày 22/5/1950 cho phép áp dụng các quy định của pháp luật dân sự thuộc
chế độ cũ trong các quan hệ dân sự. Điều này đồng nghĩa với việc các bộ luật
dân sự riêng biệt của ba miền là “Bộ luật Bắc Kì” ở miền Bắc, “Hoàng Việt Hộ
luật” ở miền Trung và “Bộ dân luật giản yếu Nam Kì” của người An Nam ở
miền Nam vẫn tiếp tục được duy trì áp dụng cho tới năm 1959, khi Chỉ thị số
772/CT-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao được ban hành, chính thức chấm
dứt việc áp dụng các văn bản của chế độ phong kiến, thực dân cũ. Nhìn vào đó,

có thể thấy suốt từ năm 1959 cho tới khi Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, ở
miền Bắc Việt Nam không hề có văn bản pháp luật riêng nào điều chỉnh quan hệ
hợp đồng trong lĩnh vực dân sự.
Vậy là, do yếu tố thời đại và yếu tố lịch sử dân tộc đòi hỏi mà những chế
định pháp lí về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh đã nảy mầm từ rất sớm. Đó
8
là kết quả tất yếu của một đất nước vốn bị ách đô hộ phong kiến tồn tại hàng
trăm năm và chế độ thực dân, tay sai tồn tại hàng chục năm ròng.
Kể từ năm 1960, khi miền Bắc nước ta bước vào giai đoạn tiến lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nền kinh tế kế hoạch tập trung, cả miền Bắc đã
chuyển mình qua một bước ngoặt mới như một dấu mốc quan trọng. Nhà nước ta
đã thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung, tức là Nhà nước vừa là trung tâm quyền
lực chính trị, vừa là trung tâm quyền lực kinh tế - chủ sở hữu duy nhất của đa số
các tư liệu sản xuất chủ yếu lúc bấy giờ. Nền kinh tế đất nước được tập trung hóa
cao độ bằng cả quản lí vĩ mô và quản lí vi mô, tức là Nhà nước xuất hiện với vai
trò duy nhất, vừa thành lập các tổ chức kinh tế để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, vừa đồng thời lãnh đạo, tổ chức quản lí các tổ chức sản xuất kinh
doanh. Việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều do Nhà
nước quyết định. Các tổ chức, đơn vị kinh tế Xã hội chủ nghĩa thực hiện các
quan hệ hợp đồng với nhau và với các bên có liên quan cũng đều chỉ nhằm thực
hiện các kế hoạch và nhiệm vụ được Nhà nước giao. Vì vậy, ở giai đoạn này,
hợp đồng không được hiểu theo nghĩa đích thực của nó là tự do thỏa thuận mà nó
thực chất được hiểu là một dạng “hợp đồng kế hoạch”. Kí kết và thực hiện hợp
đồng luôn song hành và gắn liền với kế hoạch nhà nước bởi đây là một kỉ luật
bắt buộc mà Nhà nước đề ra.
Thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với các “kế hoạch” theo
người anh cả Liên Xô, phải thừa nhận rằng pháp luật kinh tế Việt Nam giai đoạn
này chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật kinh tế Liên Xô, bao gồm cả việc sử
dụng thuật ngữ “hợp đồng kinh tế”. Thời kì này, kế hoạch hóa nền kinh tế quốc
dân chính là hình thức quản lí kinh tế của Liên Xô, những kế hoạch Nhà nước

không những mang tính định hướng, dự báo, kiểm tra mà nó còn là kỉ luật bắt
buộc. Nói như tinh thần mà V.I. Lê nin đã chỉ ra thì: “Chủ nghĩa xã hội không có
ý nghĩa nếu không có tập trung hóa kế hoạch nhà nước” [7]. Mô hình kế hoạch
tập trung được áp dụng triệt để ở Liên Xô theo một thể thống nhất từ trung ương
tới địa phương. Để thực hiện điều này, Liên Xô áp dụng theo mô hình vòng tròn,
nghĩa là nhà nước xây dựng các chỉ tiêu, kế hoạch và giao cho các xí nghiệp
quốc doanh của mình thực hiện. Sau đó, các xí nghiệp quốc doanh lại kí hợp
đồng với nhau để thực hiện kế hoạch hoặc nhiệm vụ do chính nhà nước đã giao
9
cho. Hợp đồng kinh tế ở Liên Xô thực chất là dạng hợp đồng được kí kết giữa
các tổ chức xã hội chủ nghĩa nhằm đem lại những mục đích kinh tế nhất định gắn
với kế hoạch chung của Nhà nước, là trách nhiệm mà Nhà nước giao phó. Trong
thời kì kế hoạch hóa tập trung đó, ở Liên Xô, Luật kinh tế được coi là lĩnh vực
pháp luật độc lập với pháp luật dân sự. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư duy nước
Nga Xô Viết, các nhà làm luật của Việt nam khi đó cũng đi theo hướng xây dựng
pháp luật về hợp đồng kinh tế (hợp đồng trong lĩnh vực thương mại) cũng đi theo
hướng độc lập với pháp luật về hợp đồng dân sự.
Ngày 04/01/1960, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04/TTg
ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế để thay thế cho Điều lệ tạm thời
về hợp đồng kinh doanh (năm 1956). Điều lệ này được áp dụng trong một thời
gian khá dài ở miền Bắc Việt Nam và chỉ chấm dứt sứ mệnh lịch sử của nó vào
năm 1975, khi Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 quy định Điều lệ về chế độ
hợp đồng kinh tế được ban hành.
Bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế được xem là bản Điều lệ chính
thức đầu tiên về hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh tế là công cụ pháp lí của Nhà
nước trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Điều lệ chỉ
rõ: “phải khớp với lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân, gắn liền công tác quản
lí của Nhà nước với sự tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế cơ sở” (Điều
1). Bởi điều lệ ra đời với mục đích giúp nhà nước thực hiện việc kế hoạch hóa
nền kinh tế quốc dân, củng cố chế độ hoạch toán kinh tế, tăng cường quản lí kinh

tế nên thực chất bản chất của việc thực hiện hợp đồng không phải là sự tự
nguyện của các bên mà do kỉ luật của Nhà nước.
Lúc này, chủ thể tham gia kí kết hợp đồng kinh tế có phạm vi rất hẹp, chỉ
bao gồm các tổ chức quốc doanh, các tổ chức công tư hợp doanh, các cơ quan
quản lí nhà nước, các đơn vị bộ đội, các tổ chức xã hội, hợp tác xã, các tổ chức
sản xuất tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp được phép kinh doanh và có tài
khoản tại ngân hàng. Nhà nước thể hiện rõ sụ can thiệp của mình vào quan hệ
hợp đồng giữa các bên tham gia kí kết. Ví dụ như: Hợp đồng kinh tế được điều
chỉnh hoặc hủy bỏ khi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước do cấp có thẩm quyền giao
được điều chỉnh hoặc hủy bỏ (Điều 15). Các bên phải chấp hành chế độ giá cả
10
của Nhà nước, nếu chưa có giá quy định thì các bên kí kết được phép tính giá
thỏa thuận đồng thời báo cáo cơ quan có thẩm quyền xin duyệt giá (Điều 13).
Như vậy trước thời kì đổi mới đất nước, vấn đề hợp đồng trong lĩnh vực
kinh tế, thương mại ở Việt Nam không thể hiện đúng được bản chất của hợp đồng
là dựa trên cơ sở sự thỏa thuận tự nguyện, phản ảnh mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ
mà thực chất nó chỉ là một dạng công cụ để các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa
thực hiện các kế hoạch Nhà nước giao. Mặc dù được hình thành từ khá sớm, ngay
từ khi pháp luật còn chưa có quy định chung dành cho pháp luật hợp đồng dân sự,
thế nhưng nó lại chỉ mang tính mệnh lệnh hành chính cứng nhắc, theo ý chí của
nhà nước. Nội dung quy định cũng vẫn còn sơ sài, hình thức văn bản có giá trị
pháp lí thấp. Văn bản pháp lí có giá trị cao nhất cũng chỉ là Nghị định.
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến hết năm 2005.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 thành công rực
rỡ như thổi một làn gió mới vào tư duy kinh tế của chúng ta bằng việc đề ra công
cuộc đổi mới nền kinh tế. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế quan
liêu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường với sự quản lí của Nhà nước, định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Đây thực sự được coi là một cuộc cách mạng tư tưởng đúng đắn của Đảng và
Nhà nước, nhằm xóa bỏ sự kìm hãm phát triển kinh tế của cơ chế cũ, thúc đẩy

quan hệ thương mại phát triển.
Về bản chất, một nền kinh tế thị trường sẽ luôn đòi hỏi phải đa dạng hóa
các hình thức sở hữu, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ra đời và phát
triển. Nhà nước phải hạn chế tối đa sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh
doanh hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Thông qua những chính sách, pháp
luật, Nhà nước tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, thuận lợi, đảm bảo
cho mọi thành phần kinh tế đều được bình đẳng với nhau trước pháp luật. Vì
vậy, tư duy về hợp đồng kinh tế và quan hệ pháp luật về hợp đồng kinh tế trước
đây không còn phù hợp với hoàn cảnh. Nó cần một sự đổi mới phù hợp.
Ngày 25/9/1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (PLHĐKT) đã được ban
hành với những thay đổi cơ bản về tư tưởng và nội dung so với các điều lệ về
hợp đồng kinh tế trước đây. Tuy nhiên thực tế, trong những năm đầu của công
cuộc đổi mới vẫn còn nhiều hợp đồng kinh tế được kí kết theo chỉ tiêu, pháp
11
lệnh. Về nguyên tắc chung, các hợp đồng này không thể áp dụng PLHĐKT tế, vì
thế ngày 16/01/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 18/HĐBT
về việc kí kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh. Và ngày
29/4/1991, Hội đồng Nhà nước còn ban hành Pháp lệnh hợp đồng dân sự để điều
chỉnh các quan hệ mang yếu tố tài sản được thiết lập giữa các tổ chức, cá nhân
nhằm mục đích sinh hoạt, tiêu dùng. Để hoàn thiện việc xây dựng thể chế kinh tế
thị trường, hàng loạt những văn bản pháp luật kinh tế chứa đựng các quy định về
hợp đồng kinh tế đã lần lượt được ra đời. Phải kể đến là: BLDS năm 1995 (Đã
được thay thế bằng Bộ luật dân sự 2005), Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 1990
(Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2005), Luật hàng không dân
dụng Việt Nam năm 1991 (Luật này đã được thay thế bằng Luật hàng không dân
dụng việt Nam năm 2006), Luật thương mại năm 1997 (Luật này đã được thay
thế bằng Luật thương mại 2005), Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật giao
thông đường thủy nội địa năm 2004, Luật xây dựng năm 2003, Luật đường sắt
năm 2005…
PLHĐKT đã tạo một bước tiến lớn nhất khi ấy, đó là làm thay đổi nhận

thức về bản chất của hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế lúc này không còn là
công cụ để thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch của Nhà nước như trước mà nó chính
là sự thỏa thuận của các bên kí kết trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện, vì lợi ích
kinh tế của mình. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ghi nhận nguyên tắc tự nguyện,
cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng (Điều 3); kí
kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế (Điều 4). Như vậy nguyên
tắc tự do hợp đồng chính là nguyên tắc xuyên suốt PLHĐKT, nó thể hiện sâu
đậm và rõ nét bản chất đích thực của hợp đồng kinh tế, là cơ sở nền tảng cho
những quan hệ kinh tế phát triển trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường
hàng hóa nhiều thành phần.
Về vấn đề chủ thể, bên cạnh những chủ thể “truyền thống” như xí nghiệp
quốc doanh, hợp tác xã tồn tại từ trước, lúc này đối tượng chủ thể cũng được mở
rộng thêm như cá nhân có đăng kí kinh doanh (Điều 2 PLHĐKT), những người
làm công tác khoa học, kĩ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân,
ngư dân cá thể (Điều 42 PLHĐKT), các tổ chức và cá nhân người nước ngoài tại
Việt Nam (Điều 43 PLHĐKT). Chế độ trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng
12
cũng được PLHĐKT chú trọng hơn với việc dành tới 10 điều (từ Điều 29 đến Điều
38) trong tổng số 45 điều quy định trực tiếp, chi tiết về trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng, trong đó đề cao tính tự chịu trách nhiệm của các bên trong hợp đồng.
Phải ghi nhận PLHĐKT đã có sự đáp ứng yêu cầu đặt ra là bảo đảm các
quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế nhằm đẩy mạnh sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Điều này cũng là dấu mốc quan trọng trong sự thay đổi về bản chất
của hợp đồng kinh tế cũng như bước phát triển cơ bản của pháp luật về hợp đồng
kinh tế trong thời kì đổi mới.
Tuy vậy, PLHĐKT vẫn tồn tại một số bất cập, hạn chế và chưa thực sự
đáp ứng nhu cầu của thực tiễn kinh doanh ở một số điểm như sau:
Một là, việc nhận diện hợp đồng kinh tế và phân biệt tách rời chúng với
hợp đồng dân sự gây nhiều khó khăn và hay nhầm lẫn và mâu thuẫn chồng chéo

lên nhau. Theo Điều 2 PLHĐKT quy định, bắt buộc ít nhất một bên trong quan
hệ pháp luật hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân dẫn đến tình trạng hợp đồng
kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân (ví dụ: hợp
đồng kí giữa các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân có đăng kí kinh doanh với nhau)
phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình lại không được coi là hợp đồng
kinh tế. Song, chiếu theo Pháp lệnh hợp đồng dân sự thì loại hợp đồng này cũng
không được coi là hợp đồng dân sự do nó không có bên nào có mục đích sinh
hoạt, tiêu dùng. Điều này đặt ra câu hỏi lớn cho lỗ hổng của pháp luật, đó là như
thế nào thì được định nghĩa là có mục đích kinh doanh và làm sao để phân biệt
mục đích là kinh doanh hay tiêu dùng khi một thương nhân tham gia quan hệ
hợp đồng. Quy định hợp đồng kinh tế được kí kết phải có mục đích kinh doanh
được hiểu là tất cả các bên chủ thể đều phải có mục đích kinh doanh hay chỉ cần
một bên là đủ.
Hai là, PLHĐKT còn quy định sơ sài về thủ tục giao kết hợp đồng kinh tế,
nhất là giao kết qua phương thức giao dịch gián tiếp (kí hợp đồng bằng công văn,
tài liệu giao dịch). Pháp lệnh chỉ có duy nhất Điều 11 quy định về vấn đề này,
nên nhiều nội dung liên quan đến thủ tục giao kết hợp đồng hoàn toàn không rõ
ràng. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa trả lời được vấn đề như khi nào hợp đồng
kinh tế kí gián tiếp được coi là hình thành và có giá trị pháp lí, thời hạn có hiệu
13
lực của đề nghị giao kết hợp đồng, thế nào là đề nghị giao kết hợp đồng và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng…
Ba là, quy định về xử lí hậu quả của hợp đồng kinh tế vô hiệu và các quy
định về hợp đồng kinh tế thể hiện sự cứng nhắc, chưa có được sự bao quát hết
các trường hợp vô hiệu trong thực tiễn, quy định về xử lí hậu quả hợp đồng kinh
tế vô hiệu không có khả năng bảo vệ quyền lợi của người ngay tình. Pháp lệnh
cũng không cho phép người được ủy quyền kí hợp đồng kinh tế có thể ủy quyền
lại cho người khác kí hợp đồng, không quy định các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng kinh tế trong khi lại chỉ liệt kê một số trường hợp hợp đồng kinh tế vô
hiệu toàn bộ, do vậy bỏ sót nhiều căn cứ có thể dẫn đến hợp đồng kinh tế vô hiệu

như: hợp đồng kinh tế được kí kết có dấu hiệu giả tạo, đe dọa, nhầm lẫn, cưỡng
bức… Thực tiễn áp dụng quy định về xử lí tài sản khi hợp đồng kinh tế vô hiệu
cũng còn nhiều vướng mắc. Vấn đề khi các bên không hoàn trả được hiện vật mà
trả bằng tiền thì phải tính theo giá ghi trong hợp đồng hay giá thị trường tại thời
điểm thanh toán bị bỏ lửng. Ngay cả việc định nghĩa thế nào là “thu nhập bất hợp
pháp” cũng chưa được làm rõ. Quy định thiệt hại phát sinh các bên phải chịu
đồng nghĩa với việc thiệt hại xảy ra cho bên nào, bên đó tự gánh chịu mà không
phụ thuộc vào lỗi là không phù hợp và không công bằng. Thực tế, nhiều trường
hợp hợp đồng kinh tế bị vô hiệu chỉ do lỗi của một bên gây ra. Phần trách nhiệm
tài sản của người kí hợp đồng sai thẩm quyền đối với các bên trong các hợp đồng
kinh tế bị vô hiệu toàn bộ. Cơ chế bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
khi hợp đồng kinh tế bị vô hiệu chưa hề được đề cập tới trong PLHĐKT
Bốn là, các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng kinh tế chưa được quy
định đầy đủ. PLHĐKT không có quy định cụ thể về chế tài hủy, đình chỉ hoặc
buộc thực hiện đúng hợp đồng. Quan hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt
hại không rõ, mức phạt bị khống chế trong khung phạt từ 2-12% giá trị phần hợp
đồng bị vi phạm là quá cứng nhắc, nhiều trường hợp khó áp dụng, ảnh hưởng
đến quyền tự do thỏa thuận của các bên, không thể hiện tính răn đe của chế tài
này. Căn cứ miễn, giảm trách nhiệm do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với
bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản là không hợp lí,
không đúng với tính chất chịu trách nhiệm trực tiếp của các bên tham gia hợp đồng.
14
Năm là, những nhà làm luật chưa làm rõ được mối quan hệ giữa hợp đồng
kinh tế với hợp đồng dân sự. Vấn đề có thể áp dụng pháp luật dân sự để giải
quyết những quan hệ hợp đồng kinh tế trong thương mại hay không chưa được
giải quyết đã dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật khi giải quyết tranh
chấp hợp đồng. Việc ban hành Bộ Luật dân sự năm 1995 được ghi nhận là mốc
quan trọng trong quá trình xây dựng xã hội dân sự. Khi xây dựng dự thảo BLDS
năm 1995 đã có nhiều ý kiến đề xuất nên bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nhưng
khi bộ luật này được thông qua thì vẫn không thay thế được cho PLHĐKT. Rõ

ràng, hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự giống nhau ở khá nhiều điểm. Ví dụ
như chúng đều là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các chủ thể, sự thỏa
thuận hướng tới việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của
chủ thể. Việc tham gia quan hệ hợp đồng cũng chỉ để phục vụ cho mục đích nào
đó của các bên. Bên cạnh nhũng điểm giống nhau đó, giữa hợp đồng dân sự và
hợp đồng kinh tế có một số điểm khác biệt nhưng không phải là những khác biệt
về bản chất, cụ thể là: Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân, pháp nhân,
tổ hợp tác, hộ gia đình đáp ứng các quy định của pháp luật trong khi chủ thể của
hợp đồng kinh tế là các pháp nhân, cá nhân có đăng kí kinh doanh và một số chủ
thể đặc biệt khác và bắt buộc trong một quan hệ hợp đồng ít nhất một bên phải là
pháp nhân. Hình thức của hợp đồng dân sự có thể bằng văn bản, lời nói, cử chỉ
trong khi hình thức của hợp đồng kinh tế chỉ có thể bằng văn bản. Nếu xét về
mặt lí luận thì hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự có cùng bản chất, bởi chúng
đều là các giao dịch song phương, đều là hợp đồng, đều hình thành từ sự thỏa
thuận của các chủ thể ở vị trí hoàn toàn bình đẳng với nhau. Tuy vậy, phạm vi
hợp đồng dân sự rộng rãi hơn, bao trùm lên phạm vi hợp đồng kinh tế. Hay nói
một cách cụ thể, hợp đồng kinh tế thực chất là để phục vụ cho các hoạt động
thương mại kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy, đối với quan hệ hợp đồng
kinh tế thì các quy định của PLHĐKT được ưu tiên áp dụng trước, những vấn đề
nào chưa được quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì áp dụng các quy định
của Bộ luật dân sự theo đúng nguyên tắc “Lex specialis derogate lex generali” (luật
chuyên ngành thay thế cho luật chung) trong luật La Mã.
Bởi trong hệ thống pháp luật có sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp
đồng kinh tế nên cũng hình thành hai hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp
15
phát sinh từ hợp đồng. Các tranh chấp hợp đồng kinh tế có thể được giải quyết
bằng trọng tài (phi chính phủ) hoặc tòa án bằng một thủ tục riêng theo quy định
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn các tranh chấp hợp đồng
dân sự thì được giải quyết bằng tòa án theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự (Từ ngày 1/1/2005 các tranh chấp kinh doanh, thương

mại và tranh chấp dân sự đều được giải quyết tại tòa án theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự 2004). Việc phân biệt tranh chấp kinh tế với các tranh chấp
dân sự tuy ít nhiều tạo ra tính chuyên nghiệp hơn cho các hoạt động xét xử của
tòa án nhưng lại làm phát sinh hàng loạt các khó khăn, vướng mắc do khó phân
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế với tranh chấp dân sự. Thời hiệu
khởi kiện các tranh chấp kinh tế với tranh chấp dân sự; thời hiệu khởi kiện các tranh
chấp kinh tế quá ngắn (6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp) dẫn đến nhiều vụ
việc phải xét xử nhiều lần hoặc đình chỉ do hết thời hiệu khởi kiện… [4]
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
Giai đoạn ba là giai đoạn hiện tại, bắt đầu từ dấu mốc Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật dân sự sửa đổi - Luật
dân sự năm 2005 và luật này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 thay thế cho
Luật dân sự năm 1995 và PLHĐKT năm 1989. Bên cạnh đó, Quốc hội còn thông
qua Luật thương mại năm 2005, trong đó chứa đựng rất nhiều quy định về hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh của các thương nhân. Luật thương mại năm
2005 cũng có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế cho Luật thương mại năm
1997. So với Bộ luật dân sự năm 1995, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1998 và
Luật thương mại năm 1997, Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại năm
2005 có nhiều quy định mới, tiến bộ về điều chỉnh pháp luật đối với hợp đồng
nói chung và hợp đồng trong hoạt động kinh doanh nói riêng. Có thể kể đến một
số điểm nổi bật về Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập thông qua các
điểm nổi bật: [4, tr.520 – tr.528]
Bộ luật dân sự năm 2005 đã thay đổi quan niệm về hợp đồng trong lĩnh
vực thương mại. Kể từ ngày 01/01/2006 khái niệm hợp đồng kinh tế không tồn
tại, mọi loại hợp đồng dù được kí kết giữa các thương nhân với nhau để phục vụ
mục đích kinh doanh thu lợi nhuận hay được kí giữa các cá nhân với nhau để
phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng đều gọi chung là hợp đồng dân sự. Trong
16
từng lĩnh vực cụ thể, các hợp đồng dân sự được kí kết để phục vụ cho hoạt động
kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận có thể được phân biệt thành các loại hợp đồng

riêng như hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng xây dựng, hợp
đồng bảo hiểm, hợp đồng tín dụng…
Bộ luật dân sự năm 2005 đã thống nhất điều chỉnh pháp luật đối với hợp
đồng trong lĩnh vực thương mại. Pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương
mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc được Nhà
nước thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ việc kí kết và thực
hiện hợp đồng phục vụ hoạt động thương mại, tìm kiếm lợi nhuận. Trước ngày
01/01/2006, Pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được phân chia
thành hai lĩnh vực riêng biệt: PLHĐKT điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được
coi là hợp đồng kinh tế. Bộ luật dân sự năm 1995 điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng được coi là hợp đồng dân sự. Từ ngày 01/01/2006, Bộ luật dân sự năm
2005 đã thống nhất điều chỉnh pháp luật đối với mọi quan hệ hợp đồng, trong đó
có hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
1.4 Nguồn luật điều chỉnh đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Nguồn luật điều chỉnh đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại chính
là khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại.
Theo đó bao gồm:
1.4.1. Văn bản pháp luật
Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh
vực thương mại bao gồm “luật chung” và “luật riêng” (hay còn gọi là luật
chuyên ngành).
• Luật chung:
Luật chung bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc chung về mọi loại
hợp đồng, không phụ thuộc vào đó là hợp đồng gì. Giai đoạn trước ngày
01/01/2006, Luật chung bao gồm có Bộ luật dân sự năm 1995 và PLHĐKT
1989. Giai đoạn kể từ ngày 01/01/2006 tới nay, luật chung là Bộ luật dân sự
năm 2005. Luật chung thường quy định những vấn đề như bản chất của hợp
đồng và các nguyên tắc giao kết hợp đồng; điều kiện, thủ tục giao kết hợp đồng
và các trường hợp hợp đồng vô hiệu; đại diện và ủy quyền kí kết hợp đồng; sửa
đổi, bổ sung, chuyển giao quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng, chấm dứt thanh lý

17
hợp đồng; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; thực hiện hợp
đồng; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
• Luật riêng (hay còn gọi là luật chuyên ngành).
Luật chuyên ngành chứa đựng những quy định riêng về từng loại hợp
đồng trong từng lĩnh vực cụ thể, đặc thù. Các văn bản pháp luật chuyên ngành
như: Luật thương mại, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật các tổ chức tín dụng,
Luật xây dựng, Luật hàng không dân dụng Việt Nam, Luật giao thông đường
thủy nội địa, Luật đường sắt Việt Nam….Trong đó, Luật thương mại năm 2005
là nguồn quan trọng điều chỉnh các giao dịch thương mại giữa các thương nhân
với nhau và với các bên có liên quan nhằm triển khai hoạt động kinh doanh.
Luật chuyên ngành thường quy định những vấn đề như điều kiện về chủ
thể của hợp đồng; hình thức của hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên; chế
tài hợp đồng…
Về nguyên tắc áp dụng pháp luật thì luật chuyên ngành luôn được ưu tiên
áp dụng trước luật chung. Nếu các quy định trong luật chuyên ngành không đề
cập hoặc có quy định nhưng không đầy đủ thì khi đó mới áp dụng các quy định
của luật chung để giải quyết. Trong trường hợp luật chung và luật chuyên ngành
cùng quy định về một vấn đề thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành.
1.4.2 Điều ước quốc tế
Nguồn luật điều ước quốc tế bao gồm: Điều ước quốc tế song phương, đa
phương và khu vực.
• Nguồn điều ước quốc tế song phương
Nguồn điều ước quốc tế song phương là các điều ước quốc tế tạo nền tảng
pháp lý cho các quan hệ dân sự, kinh tế - thương mại giữa nước ta với nước ngoài.
Hiện nay, Việt Nam đã ký trên 80 hiệp định thương mại, gần 50 hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư. Các hiệp định này đều ghi nhận nguyên tắc tối huệ quốc và
nguyên tắc đối xử quốc gia để tạo điều kiện cho các bên, công dân của các bên phát
triển quan hệ kinh tế thương mại. Việt Nam hiện có quan hệ buôn bán với 170 nước
và vùng lãnh thổ. Năm 2000, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp định Thương mại

(BTA) với nội dung bao quát các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch
vụ, sở hữu trí tuệ và các vấn đề đầu tư liên quan đến thương mại, là những lĩnh vực
mà WTO điều chỉnh. Năm 2004, Việt Nam ký Hiệp định tự do hóa, khuyến khích
18
và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản (BIT). BTA và BIT đã mở ra những cơ hội to lớn
trong phát triển xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra phải kể đến các hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa
Việt Nam và chính phủ các nước nhằm điều chỉnh thống nhất các xung đột pháp
luật về pháp luật áp dụng và về thẩm quyền giải quyết các quan hệ pháp luật về
quyền sở hữu, về hợp đồng dân sự, kinh tế - thương mại giữa công dân và pháp
nhân Việt Nam với công dân và pháp nhân các nước ký kết. Bên cạnh đó phải kể
đến các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam đã ký kết với các nước
(gần 50 hiệp định). Các hiệp định này góp phần khuyến khích đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam thông qua việc loại bỏ việc đánh thuế trùng lặp giữa Việt Nam và
các nước, tạo lập môi trường pháp lý ổn định cho các nhà đầu tư của hai bên, góp
phần bảo vệ quyền lợi của tổ chức và cá nhân thương nhân.
• Nguồn điều ước quốc tế đa phương
Nguồn điều ước quốc tế đa phương bao gồm các điều ước quốc tế là
nguồn của pháp luật thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. Có
hai loại điều ước quốc tế đa phương:
Một là, các điều ước quốc tế quy định những nguyên tắc pháp lý chung,
mang tính chủ đạo đối với các hoạt động thương mại diễn ra giữa các quốc gia.
Trước tiên phải kể đến các hiệp định của WTO như: GATT, GATS, TRIMs
(Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại), TRIPS (Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tụê), Công
ước New-York 1958 về Công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài, Công ước về thiết lập Tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên (MIGA năm 1985).
Hai là, các điều ước quốc tế quy định trực tiếp một hoạt động thương mại
cụ thể trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia
vào quan hệ thương mại quốc tế. Ví dụ điển hình công ước của Liên hợp quốc

như: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước
Washington năm 1965 về giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia và các kiều
dân nước ngoài về đầu tư, Công ước Liên hợp Quốc về việc sử dụng chứng từ
điện tử trong hợp đồng quốc tế do Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên
Hợp quốc soạn thảo và được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 9/11/2005, (ký
kết ngày 6/7/2006 bởi 60 quốc gia thành viên của UNCITRAL và 10 nước quan
19
sát viên trong đó có VN) một khung quy định chung cho những vấn đề cơ bản
nhất của giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua phương tiện điện tử, Luật
mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử…
• Các điều ước quốc tế khu vực
Bên cạnh đó còn có các điều ước quốc tế khu vực như: Hiệp định về Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định mậu dịch tư do ASEAN - Trung
quốc, ASEAN - Ấn độ, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Úc và New Zealand…
Ngoài ra còn có các Luật mẫu được ban hành do các cơ quan của Liên hợp
quốc: UNCITRAL (Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế ngày
21/6/1985, Luật mẫu UNCITRAL về thương mại điện tử ngày 16/12/1996, Luật
mẫu UNCITRAL về việc sử dụng giao dịch điện tử trong hợp đồng quốc tế), Các
nguyên tắc cơ bản của hợp đồng do tổ chức phi chính phủ như Viện tư pháp
thống nhất Rome ban hành UNIDROIT.
Các điều ước quốc tế đã được các chính phủ tham gia ký kết hoặc dẫn
chiếu tới, sẽ được áp dụng trong các hoạt động thương mại của thương nhân các
nước đó. Các điều ước quốc tế chưa được quốc gia ký kết hoặc công nhận thì
không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thẻ hoạt động thương mại quốc tế của
họ trừ khi được các bên lựa chọn áp dụng trong các hợp đồng thương mại quốc
tế. Theo quy định của pháp luật hiện hành Việt Nam, có 2 phương thức áp dụng
điều ước quốc tế về thương mại :
Một là, đối với các điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta đã
tham gia ký kết và phê chuẩn thì sẽ áp dụng các điều ước quốc tế.
Hai là, đối với các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia hoặc

công nhận, thì chỉ áp dụng các điều, khoản, không trái với pháp luật Việt Nam và
khi có sự thỏa thuận giữa các bên.
1.4.3 Thói quen và tập quán thương mại
Khoản 3 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Thói quen trong
hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và
lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên
thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương
mại”. Theo Điều 12 Luật thương mại năm 2005, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương
20
mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng
không được trái với quy định của pháp luật. Với các trường hợp các bên kí kết
hợp đồng mà không thỏa thuận cụ thể thì có thể áp dụng theo thói quen trong
hoạt động thương mại đã hình thành giữa các bên.
Tập quán thương mại là nguồn luật có vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Theo luật thương mại 2005, tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận
rộng rãi trong hoạt động thương mại, có nội dung rõ ràng và được các bên thừa
nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
Tập quán thương mại thường được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
khi các mối quan hệ này không được điều chỉnh bởi hợp đồng giữa các bên hoặc
điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia.
Bên cạnh đó còn có các tập quán quốc tế, là những quy tắc xử sự phổ biến
được thừa nhân và áp dụng rộng rãi ở một khu vực nhất định (tập quan khu vực)
hoặc trên phạm vi toàn cầu (tập quán toàn cầu). Những tập quán quốc tế là nguồn
của pháp luật thương mại nói chung và pháp luật thương mại quốc tế nói riêng,
chủ yếu gồm các tập quán về thương mại và hàng hải quốc tế. Đây là tập hợp các
tập quán thương mại quốc tế thông dụng được áp dụng trong thực tiễn ký kết các
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên về việc vận chuyển hàng hóa, trách nhiệm làm thủ tục hải quan đối với hàng

hóa, về phân chia rủi ro giữa các bên trong hợp đồng.
Trong mối quan hệ với hợp đồng, tập quán quốc tế được áp dụng theo
nguyên tắc: nếu pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận và
không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì tập quán được áp dụng
nhưng không được trái với những nguyên tắc của pháp luật.
Bên cạnh các điều kiện thương mại quốc tế (INCOTERMS) được Phòng
Thương mại quốc tế Paris (Paris ICC) tập hợp và ban hành từ năm 1936, và được
sửa đổi cuối cùng vào năm 2000 còn có các tập quán thương mại quốc tế phổ
biến như: Các tập quán và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP-
Unform Customs and Practice for Documentary of Credits) của Phòng thương
mại quốc tế Paris. Đây là tập hợp các tập quán và thực tiễn ngân hàng trong
phương thức tín dụng chứng từ được quốc tế thừa nhận, bao gồm những điều
21
khoản mang tính chất hướng dẫn cho người sử dụng. UCP được công bố lần đầu
tiên năm 1933, được sửa đổi nhiều lần qua các năm và mới đây nhất là bản UCP
600 được ICC thông qua ngày 25/10/2006 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày
1/7/2007. Ngoài ra còn có: ‘‘Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế’’ (ISBP).
Văn bản này bổ sung cho UCP. ISBP không sửa đổi UCP mà giải thích chi tiết
và rõ ràng hơn cách áp dụng các quy tắc UCP trong thanh toán bằng tín dụng
chứng từ. Thông qua việc sử dụng ISBP, những người kiểm tra chứng từ có thể
thực hiện các công việc của minh phù hợp với tập quán mà đồng nghiệp của họ
đang sử dụng trên toàn thế giới, nhờ đó sẽ làm giảm đi đáng kể một số lượng
chứng từ bị từ chối thanh toán do có sự khác biệt khi xuất trình lần đầu tiên.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, ngoài tập quán thương mại, tập
quán quốc tế cũng được coi là nguồn của luật trong trường hợp các quan hệ dân
sự, kinh tế - thương mại có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc áp dụng các tập
quán này không được trái với nguyên tắc cơ bản cua pháp luật Việt Nam (Điều 5
Luật thương mại năm 2005; Điều 759 khoản 4 Bộ luật dân sự năm 20005).
22
CHƯƠNG 2

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh
vực thương mại tại Việt Nam
2.1.1. Về nội dung của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Nội dung của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là các điều khoản do
các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp
đồng. Trên cơ sở vai trò của các điều khoản trong hợp đồng, có thể phân chia nội
dung của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại thành các loại như sau:
Thứ nhất, điều khoản chủ yếu hay còn gọi là điều khoản cơ bản. Nó là tập
hợp những điều khoản quan trọng nhất của hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng, các
bên phải thỏa thuận được các điều khoản chủ yếu thì hợp đồng mới được giao kết.
Thứ hai, điều khoản thông thường, là những điều khoản đã được pháp luật
quy định, nếu các bên không thỏa thuận thì coi như đã mặc nhiên công nhận và
phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, những điều khoản tùy nghi là những điều khoản do các bên tự lựa
chọn và thỏa thuận với nhau khi pháp luật không có quy định.
Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại năm 2005 không có quy
định bắt buộc trong một hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương
mại nói riêng, các bên bắt buộc phải thỏa thuận theo những nội dung cụ thể nào.
Tuy vậy, đối với từng loại hợp đồng cụ thể, pháp luật (các luật chuyên ngành) có
thể có quy định về những nội dung bắt buộc phải có (nội dung chủ yếu) của hợp
đồng, chẳng hạn như: Nội dung chủ yếu của hợp đồng tín dụng được quy định tại
Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (Đã được sửa đổi bổ sung năm 2004);
Nội dung chủ yếu của hợp đồng kinh doanh bảo hiểm được quy định tại Điều 13
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000; Nội dung chủ yếu của hợp đồng trong hoạt
động xây dựng được quy định tại Điều 108 của Luật xây dựng năm 2003…
Đối với những hợp đồng mà pháp luật không có quy định về nội dung chủ
yếu thì các bên có thể tự thỏa thuận về nội dung của hợp đồng trên cơ sở những
quy định mang tính “khuyến nghị”, “định hướng” của pháp luật. Từ các quy định

của Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại năm 2005, xuất phát từ tính
23
chất và quan hệ hợp đồng trong kinh doanh, có thể thấy những điều khoản quan
trọng của hợp đồng trong kinh doanh bao gồm: Đối tượng, chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm thực hiện hợp đồng. Trong thực
tiễn, các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng các chi tiết thì càng thuận lợi cho
việc thực hiện hợp đồng. Việc áp dụng luật quy định nội dung của hợp đồng kinh
doanh có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận những nội dung quan
trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, đồng thời phòng
ngừa những tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng giao dịch
thương mại.
2.1.2. Về giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại
Trong thương mại, hợp đồng được giao kết theo các nguyên tắc quy định
cho hợp đồng dân sự nói chung. Nguyên tắc giao kết hợp đồng được quy định
xuất phát nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng. Quyền tự do này của tổ chức, cá
nhân được pháp luật bảo vệ, và quyền đó phải được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật để không xâm hại đến lợi ích chính đáng của các chủ thể có liên quan.
Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo
những nguyên tắc cơ bản, đó là: Tự do giao kết nhưng không trái với pháp luật
và đạo đức xã hội. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng (Điều 389 Bộ luật dân sự 2005). Việc tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp
đồng có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng phù hợp với ý chí thực của họ, hợp đồng có thể mang lại lợi ích cho các
bên đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ.
Khi giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, các bên giao kết phải
tuân thủ theo các thủ tục giao kết dưới đây:
Thứ nhất, đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng có bản chất là hành vi pháp lí đơn phương của
một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo
những điều kiện xác định. Từ quy định của Điều 390 Bộ luật dân sự năm 2005,

có thể định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng trong thương mại là việc thể hiện rõ
ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị
đối với bên đã được xác định cụ thể. Về nguyên tắc, hình thức của đề nghị hợp
đồng phải phù hợp với hình thức của hợp đồng. Bộ luật dân sự năm 2005 không
24
quy định về hình thức của đề nghị hợp đồng, song có thể dựa vào quy định về
hình thức của hợp đồng để xác định hình thức của đề nghị hợp đồng, theo đó đề
nghị hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể
hoặc kết hợp giữa các hình thức này. Trường hợp pháp luật quy định hình thức
của hợp đồng phải bằng văn bản thì hình thức của đề nghị hợp đồng cũng phải
bằng văn bản.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến một hoặc nhiều chủ thể đã xác định. Hiệu
lực của nó thông thường do các bên tự ấn định. Trường hợp bên đề nghị giao kết
hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Căn cứ
xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng là khi: Đề
nghị được chuyển đến nơi cư trú hoặc trụ sở của bên được đề nghị. Đề nghị được
đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị. Bên được đề nghị
biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời hạn
đề nghị hợp đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô
điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng hình thành và ràng buộc các bên. Nếu
các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức
chế tài do vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng trong các trường hợp như: Bên được đề nghị nhận được thông báo về
việc thay đổi hoặc rút ngắn lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được
đề nghị. Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên
đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát
sinh. Trong những trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy
bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được

đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo
trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: bên
nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận. Hết thời hạn trả lời chấp nhận, thông
báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực, theo thỏa thuận của bên đề
nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
25

×