Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm tồn tại nền kinh tế tập trung bao cấp ở nước ta, thị trường
lao động với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường các yếu tố sản
xuất đã được công nhận. Điều đó, có nguồn gốc sâu xa từ thành kiến nhận thức
về hàng hoá sức lao động, về việc làm và thất nghiệp. Trong đó, quan điểm về
sức lao động là hàng hoá, có thể trao đổi trên thị trường bị coi là một điều cấm
kỵ. Phân bổ lao động được thực hiện chủ yếu bằng sự điều động của Nhà Nước
thông qua biện pháp hành chính, mệnh lệnh, ít khi tính đến nhu cầu thị trường.
Các quyết định liên quan đến việc phân bổ lực lượng lao động, về luân chuyển
lao động chủ yếu được thực hiện nhằm mục đích công bằng xã hội hơn là chú
trọng đến hiệu quả kinh tế. “Toàn dụng lao động” ở thời kỳ này không phản ánh
đúng sự cân bằng cung- cầu lao động. Mặt khác, còn tồn tại quan điểm cho rằng
chỉ có lao động trong khu vực Nhà Nước, tập thể mới được coi là lao động, là
có việc làm, nó là nguyên nhân trong một thời gian dài thị trường lao động phi
Nhà nước bị đóng băng hoàn toàn. Những người làm việc ngoài hệ thống nhà
nước hay tập thể thường bị coi là người không có việc làm.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã qua gần 20 năm và đã đạt được nhiều thành
tựu, bước đầu nền kinh tế vượt qua thử thách bắt đầu đi vào thế ổn định và từng
bước phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt xã hội thay đổi một
cách rõ rệt cả nội dung lẫn hình thức. Trong đó, có thị trường lao động, đã được
công nhận về mặt pháp lý và bước đầu có những hoạt động cụ thể. Trên thực tế,
sức lao động đã dần đựơc coi là hàng hoá, thông qua việc công nhận quyền tự
do tìm việc, thuê mướn lao động của người lao động và chủ sử dụng lao động.
Nền kinh tế thị trường có vận động một cách liên tục hay không? Sản xuất
hàng hoá có phát triển hay không? Điều đó phụ thuộc một phần vào thị trường
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ1
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
lao động vì nó nằm trong chiến lược phát triển tổng thể các thị trường trong nền
kinh tế thị trường theo địng hướng XHCN ở Việt Nam. Do đó, khi chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, thì thị trường lao
động đã có những bước tíên nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ
cấu…. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam đang trong giai đoạn phát
triển, đang chịu sức ép về tăng dân số, tăng cung về lao động. Trong khi đó,
việc điều tiết thị trường này đang phải đối mặt với những hạn chế lớn do thiếu
căn cứ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.
Mục đích của tề tài” Thị trường lao động. Thực trạng và giải pháp” nhằm
làm rõ một số vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn trong hoạt động của thị
trường lao động ở nước ta, xem xét thực chất những
khó khăn, thuận lợi trong quá trình hình thành và vận hành của thị trường
này trong thời gian tới, cung cấp một số khuyến nghị, chính sách để sử dụng có
hiệu quả nguồn lao động, tăng việc làm và thu nhập, ổn định xã hội , đảm bảo
phát triển bền vững.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1 : Lý luận và đặc điểm chung về thị trường lao động
Chương 2 : Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam
Chương 3 : Định hướng và một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao
động trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp kết hợp so sánh, phân tích giữa
các vấn đề có liên quan, nhằm làm nổi bật những vấn đề trọng tâm, đồng thời
đưa ra những nhận xét, phán đoán về các vấn đề đó.
Do nhận thức và tầm hiểu biết có hạn, nên đề tài không tránh khỏi
những thiếu xót hay nhận thức chưa thâu xuốt. Vì vậy, em mong được sự góp ý
của các thầy cô giáo và các bạn
Em xin chân thành cảm ơn!
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ2
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm về thị trường lao động:
Sự hình thành và phát triển của thị trường lao động là tất yếu của nền kinh
tế thị trường. Nếu như thị trường là nơi diễn ra môí quan hệ giữa người mua và
người bán hàng hoá, dịch vụ, thì thị trường lao động lại khác. Vậy thị trường
lao động là gì? Hiện nay đang tồn tại nhiều định nghĩa về thị trường này, tuỳ
theo các phương diện của thị trường được nhấn mạnh khi định nghĩa:
- Theo Adam Smith: Thị trường lao động là không gian trao đổi dịch
vụ lao động( hàng hoá sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao
động( chủ sử dụng lao động) và người bán sức lao dộng ( người lao động). Dựa
vào định nghĩa này Adam Smith muốn nhấn mạnh đến đối tượng trao đổi trên
thị trường lao động là dịch vụ lao động chứ không phải người lao động.
- Theo từ điển kinh tế học Pengiun: Thị trường lao động là thị
trường trong đó tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động được xác định
trong bối cảnh quan hệ của cung lao động và cầu lao động. Định nghĩa này nhấn
mạnh đến kết quả của quan hệ tương tác cung – cầu trên thị trường lao động.
- Theo từ điển kinh tế MIT: Thị trường lao động là nơi cung và cầu
lao động tác động qua lại với nhau. Định nghĩa này nhấn mạnh vào quan hệ
cung - cầu trên thị trường như bất kể một thị trường nào.
- Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra định nghĩa: Thị trường lao
động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua bán thông qua
quá trình để xác định mức độ có việc làm của người lao động, cũng như mức độ
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ3
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
tiền công. Khái niệm này nhấn mạnh đến dịch vụ lao động được xác định thông
qua việc làm được trả công.
- Giáo trình kinh tế lao động ở Liên bang Nga lại đưa ra định nghĩa:
Thị trường lao động là hệ thống các quan hệ kinh tế- xã hội giữa Nhà nước, các
tổ chức, những người sử dụng lao động, người lao động trong việc mua, bán
hàng hoá dịch vụ lao động, bao gồm cả đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ
chuyên môn cho người lao động trong quá trình sản xuất.Khái niệm này đề cập
đến các quan hệ kinh tế- xã hội ba bên giữa Nhà nước, người lao động và người
sử dụng lao động.
- Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng đã định nghĩa: Thị trường lao động
là thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán
sức lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hoá sức lao động
được sử dụng trong các doanh nghiệp tư bản tư
nhân, tư bản Nhà nước, các doanh nghiệp tiểu chủ và hộ gia đình. Có
người đi làm thuê, có người thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức tiền
công hay tiền lương. Theo định nghĩa này , thị trường lao động chỉ bó hẹp trong
một vài thành phần kinh tế nhất định. Còn các quan hệ lao động trong khu vực
nhà nước, tập thể, hành chính sự nghiệp đều bị đặt ngoài quy luật của thị
trường.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng có thể thống nhất về nội dùng
khái niệm thị trường lao động như sau:
“Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các
quan hệ giữa người bán sức lao động (người làm thuê) và người mua sức lao
động (người sử dụng lao động), thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả
(tiền công hay tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp
đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các hình thức thoả
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ4
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
thuận khác”. Thị trường lao động không thể tách rời nền kinh tế thị trường và
chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường. Một thị
trường lao động tốt là một thị trường ở đó lượng cầu tương ứng với lượng cung.
Thị trường này chỉ hoạt động hiệu quả khi các quyền tự do mua- bán sức lao
động được đảm bảo bằng pháp luật, bằng chính sách có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường.
Thị trường lao động chỉ có thể hình thành khi hội đủ các yếu tố sau:
Một là: Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường
Hai là: Có định chế pháp luật tồn tại thị trường lao động
Ba là: Người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, muốn tồn tại phải bán
sức lao động của mình
Bốn là: Có hệ thống thể chế thị trường lao độngđể giải quyết các nhu cầu
phát sinh.
Vậy thị trường lao động có những đặc điểm gì không giống so với các thị
trường khác.
1.2. Đặc điểm của thị trường lao động:
Gồm 4 đặc điểm sau:
1.2.1. Hàng hoá trao đổi trên thị trường lao động là hàng hoá đặc biệt
Trên thị trường lao động, hàng hoá đem ra trao đổi là sức lao động
mà sức lao động được định nghĩa là tổng hợp trí và lực của con người trong quá
trình tạo ra của cải, vật chất. Sức lao động là một hàng hóa đặc biệt thể hiện ở
việc nó được gắn chặt với chủ thể mang nó, không thể tách rời và khi tiêu dùng
nó tạo ra một giá trị lớn hơn bản thân nó. Xét về số lượng và chất lượng thì
hàng hoá này phụ thuộc vào chính
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ5
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
bản thân người mang nó, đây là một sản phẩm có tư duy, có đời sống tinh
thần. Thông qua thị trường, hàng hoá sức lao động xác định giá cả (tiền công).
Hàng hoá sức lao động cũng tuân theo quy luật cung- cầu của thị trường, cung
cao dẫn đến dư thừa lao động làm cho giá cả sức lao động thấp và ngược lại.
Điểm khác nữa của hàng hoá sức lao động còn thể hiện ở cách xác định về giá
trị và giá trị sử dụng: xét về giá trị, nếu hàng hoá thông thường được xác định là
thời gian lao động xã hội cần thiết kết tinh trong sản phẩm ( hàng hoá) thì gía trị
sức lao động được tính toán thông qua giá trị tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản
thân và gia đình họ, đồng thời tái sản xuất ra bản thân họ. Xét về giá trị sử
dụng, đối với hàng hoá thông thường thì giá trị sử dụng biểu hiện ở công dụng
của nó khi tiêu dùng nó, giá trị sử dụng sẽ giảm dần trong quá trình sử dụng.
Còn giá trị sử dụng của sức lao động biểu hiện như một yếu tố của quá trình sản
xuất, khi tiêu dùng thì giá trị của nó ngày càng tăng vì càng làm việc người lao
động càng lành nghề, càng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn.
Điều kiện cần thiết để sức lao động trở thành hàng hoá:
*Sức lao động phải có giá trị kinh tế nhất định, có khả năng làm ra một
lượng tương đương sản phẩm thặng dư.
*Người lao động tự do về thân thể, có thể tự do trao đổi trên thị trường.
*Người lao động không có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cần thiết để
tồn tại họ phải bán sức lao động.
*Sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hóa phát triển đến một mức cao
tương đối.
Nếu trong nền kinh tế hoá tập trung bao cấp, sức lao động không
được thừa nhận là hàng hoá thì trong nền kinh tế thị trường việc xuất hiện hàng
hoá sức lao động như là một nhu cầu khách quan (theo Đại từ điển kinh tế thị
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ6
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
trường), lý luận về hàng hoá sức lao động vừa không gây cản trở đối với địa vị
chủ nhân của người lao động vừa không phá bỏ phương thức phân phối theo lao
động mà các nước XHCN đang theo đuổi.
1.2.2. Tính đa dạng của thị trường.
Trong thực thực tế, tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà thị trường lao động
được chia thành nhiều dạng:
Xét từ góc độ pháp lý: gồm thị trường hợp pháp và thị trường bất hợp
pháp.
Xét từ góc độ quản lý: gồm thị trường tự do và thị trường có tổ chức.
Xét từ góc độ hình thức tổ chức: gồm trị trường tập trung và thị trường phi
tập trung.
Xét từ góc độ kỹ năng: gồm thị trừng lao động giản đơn và thị trường lao
động phức tạp.
Xét từ góc độ địa lý: gồm thị trường địa phương và thị trường quốc gia,thị
trường lao động quốc tế.
Thông thường hai tiêu chí sau cùng hay được sử dụng để phân loại thị
trường.
1.2.3. Tính không đồng nhất của hàng hoá sức lao động trên thị trường
Đối với các hàng hoá thông thường là những thứ thường được chuẩn
hoá ở mức cao, hàng hoá sức lao động lại không giống nhau, mỗi người lao
động là một tập hợp năng lực bẩm sinh cộng với kỹ năng chuyên biệt tiếp thu từ
giáo dục và đào tạo. Mỗi người lao động lại có đặc điểm riêng về khả năng,
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ7
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
trình độ, tuổi tác, giới tính thể lực… Do đó, sức lao động đem ra thị trường trao
đổi của những người này là hoàn toàn không giống nhau.
1.2.4.Vị thế yếu hơn của người lao động trong việc đàm phán trên thị
trường
Trong những năm qua, cán cân giao dịch trên thị trường lao động
thường nghiêng về người có nhu cầu thuê lao động, có thể một nguyên nhân
quan trọng là số người tìm việc luôn nhiều hơn số lượng các cơ hội việc làm
sẵn có. Mặt khác, người tìm việc thường có nguồn lực hạn chế, trong khi đó
người chủ sử dụng lao động vẫn có khả năng chờ đợi để lựa chọn được những
người phù hợp nhất. Chính vì thế, trong quá trình đàm phán hoặc giao dịch,
thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng, người sử dụng lao động thường có
vị chí quết định hơn.
1.3. Các yếu tố hình thành thị trường lao động:
Gồm 3 yếu tố chính là cung, cầu và giá cả sức lao động. Trạng thái của ba yếu
tố này quyết định cơ cấu và đặc điểm của thị trường lao động. Trong đó cung- cầu
là 2 chủ thể có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Nếu cung lớn
hơn cầu thì người thuê sẽ được lợi và ngược lại , qua đó xác định giá cả sức lao
động trên thị trường.
1.3.1. Cung lao động
Là tổng sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra bán (ra vào
quá trình tái sản xuất xã hội) tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động có
năng lực lao động, và cả số nhân khẩu không nằm
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ8
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
trong độ tuổi lao động nhưng lại tham gia vào quá trình lao động. Cung lao
động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá
dặt ra. Cung lao động luôn tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động, tức là giá cả tăng
thì cung lao động tăng và ngược lại.
Khi nói đến cung lao động, người ta thường phân biệt rõ thành 2
phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.
*Cung thực tế: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc và cả những người thất nghiệp. Cung thực tế thể hiện rõ ở các trung tâm
môi giơí và giới thiệu việc làm
*Cung tiềm năng: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc, ngững người đang thất nhgiệp, những người tronh độ tuổi lao động nhưng
đang đi học, đang làm công việc nội trợ, hoặc không có nhu cầu làm việc.
Vậy nhân tố nào ảnh hưởng đến cung lao động: đó là quy mô và tốc
độ tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động, tình trạng tự nhiên của con người,
tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động vào thị trường và một số nhân tố khác.
Thị trường lao động luôn diễn ra sự biến động về cung, tuỳ theo điều kiện tác
động vào nó. Ở đó, luôn có sự tăng, giảm lực lượng lao động hình thành cung
tiềm năng, do đó có sự xuất nhập lao động giữa các ngành, các thành phần kinh
tế. Cung tiềm năng của một ngành liên quan đến sự đào tạo lại và di chuyển lao
động từ ngành này sang ngành khác do yếu tố tiền lương, tính ổn định của công
việc hay chất lượng của sản xuất
1.3.2. Cầu lao động
Là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, hay
một ngành, một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu
này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường. Về mặt lý
thuyết, cầu lao động cũng được chia thành loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ9
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Cầu thực tế là nhu cầu về lao động cần sử dụng taị một thời điểm nhất định
thông qua số lượng chỗ việc trống và chỗ làm việc làm mới. Cầu tiềm năng là
nhu cầu lao động cho tổng số chỗ việc làm có thể được, sau khi đã tính đến khả
năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ
và cả những điều kiện khác như chính trị, xã hội…
Trong một thời điểm nhất định, với mức tiền công chấp nhận được,
có một mức cầu nào đó về lao động. Cầu về lao động là cầu dẫn xuất, phụ thuộc
vào các yếu tố trong cơ chế thị trường và các yếu tố sau cầu như đất đai, vốn,
tài nguyên, tôn giáo, phong tục tập quán… đều ảnh hưởng đến việc thu hẹp hay
mở rộng sản xuất, mở thêm hay đóng cửa các doanh nghiệp, hạn chế hay
khuyến khích một ngành nghề nào đó.
Các yếu tố trên có sự khác biệt giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ, các ngành
và các khu vực kinh tế. Bởi vậy, cầu thực tế và cầu tiềm năng ở mỗi nơi đều có
sự khác nhau. Cầu lao động mô tả hành vi của người mua có thể mua được và
cầu có liên quan chặt chẽ đến giá cả sức lao động( quan hệ ngược chiều).
Cầu lao động bao gồm 2 mặt; thứ nhất, cầu về chất lượng lao động
và thứ hai, là cầu về số lượng. Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng
xuất lao động không đổi cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và
tốc độ sản xuất. Nếu quy mô không đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ nghịch với
năng xuất lao động. Xét từ góc độ chất lượng, việc nâng cao năng xuất lao
động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức… của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi
nâng cao cầu về lao động có chất lượng
1.3.3: Giá cả sức lao động và quan hệ cung- cầu trên thị trường lao động
“Giá cả là biểu hiện bằng tiền của hành hoá sức lao động” (C. Mác).
Trên thị trường lao động giá, cả được thể hiện dưới dạng tiền công hay tiền
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ10
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
lương. Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả công khi họ hoàn
thành công việc theo chức năng và nhiệm vụ được pháp luật quy định hoặc hai
bên thoả thuận trong hợp đồng. Cũng như các hàng hoá khác, giá cả hàng hoá
sức lao động không chỉ quy định bởi giá trị của nó mà còn chịu ảnh hưởng của
quy luật cung- cầu sức lao động. Khi cung vượt quá cầu thì giá cả lao động sẽ
thấp hơn giá trị, ngựơc lại khi cầu lớn hơn cung thì giá cả sẽ lớn hơn giá trị.
Mối quan hệ này thể hiện bằng hình vẽ sau:
P S
D1 S1
P1
Po
P2 S2 D2 D
Q
Số lượng lao động
Trong đó, P: giá cả hàng hoá sức lao động
Q:số lượng lao động trên thị trường
D: sự biến thiên của cầu lao động
S: sự biến thiên của cung lao động
Khi cung lao động trên thị trường đạt mức cân bằng thì giá cả sẽ dừng ở
Po. Nếu giá cả cao ở P1( P1>Po) thì mức cung sẽ là S1 và cầu sẽ giảm đi còn
D1, khoảng cách D1S1 là khoảng chênh lệch giữa cung và cầu ( tại P1cung lớn
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ11
Giá cả h ng hoá sà ức lao động
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
hơn cầu). Xét trường hợp ngược lại P2<Po thì cầu lớn hơn cung, S2D2 là mức
chênh lệch khi P2<Po. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt nam là thị trường
không hoàn hảo, tiền công trên thị trường chưa phản ánh đầy đủ đúng giá cả sức
lao động. Mặt khác, do kinh tế phát triển chậm khả năng mở rộng ngành nghề
thu hút thêm lao động còn chậm , dân số đông, nên cung lao động luôn có xu
hướng lớn hơn cầu lao động. Vì vậy, dể cân bằng trên thị trường lao động cần
có những chính sách phù hợp để thu hút số lao động dôi dư, làm hẹp dần
khoảng cách giữa cung và cầu. Ngoài ra, tiền lương cao hay thấp còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác như điêù kiện công việc, trình độ lao động, sự can thiệp
của Chính Phủ và Công Đoàn vào việc điều chỉnh mức lương trên thị trường
1.4. Một số vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu thị trường lao động:
1.4.1. Việc làm
Theo Luật lao động thì việc làm được định nghĩa:” Mọi hoạt động
tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải
quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có
việc làm là trách nhiệm của Nhà Nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”(
Điều 13 Bộ Luật Lao động)
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm gồm:
- Làm công việc được trả công bằng tiền hay bằng hiện vật
- Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc gia đình
mình nhưng không được trả công
Khái niệm này bao hàm một phạm vi rất rộng từ những công việc
được thực hiện trong nhà máy, công sở đến các hoạt động hợp pháp phi chính
quy, các công việc nội trợ chăm sóc con cái trong gia đình đều được coi là việc
làm. Trong thị trường lao động, người được coi là có việc làm khi có người mua
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ12
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
hàng hoá sức lao động mà họ muốn bán. Ngược lại, những người muốn bán sức
lao động mà không tìm được người mua trở thành thất nghiệp. Trên thực tế,
việc xác định người có việc và người thất nghiệp trong mỗi quốc gia là khác
nhau tuỳ theo định nghĩa thế nào là thất nghiệp và thế nào là việc làm
1.4.2. Thất nghiệp
Thất nghiệp là một biến số của kinh tế vĩ mô, mang tính chất cả kinh
tế và xã hội, là vấn đề của mọi quốc gia, làm thế nào để giảm thất nghiệp, tạo
việc làm cho người lao động. Trước khi đi vào khái niệm và bản chất của thất
nghiệp, ta cần hiểu thế nào là việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý: theo Dvid
Begg, việc làm đầy đủ là trạng thái trong nền kinh tế có nhiều công ăn việc làm,
mọi nhu cầu về lao động đều được thoả mãn, người nào muốn có việc làm thì
có thể tìm được việc trong một thời gian ngắn, nền kinh tế đạt mức” hữu nghiệp
toàn phần”. Còn việc làm hợp lý là việc làm đầy đủ và phù hợp với khả năng
nguyện vọng của người lao động. Nhưng trong xã hội luôn tồn tại tình trạng
thiếu việc làm và việc làm không hợp lý, đây là một biểu hiện của tình trạng
thất nghiệp
Thất nghiệp là khái niệm dùng để chỉ những người trong lực lượng
lao động có khả năng lao động, muốn có việc làm s( thể hiện qua cố gắng tìm
kiếm công ăn việc làm hoặc đang chờ để trở lại công việc cũ) nhưng hiện nay
đang không có việc hoặc bị đuổi trong thời gian đó họ bị thất nghiệp
Người ta đo lường thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp
Số người thất nghiệp
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ13
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Tỷ lệ thất nghiệp = *100 %
Tổng lực lượng lao động
(Tổng lực lượng lao động =tổng số người có việc làm + tổng số người thất
nghiệp)
Tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia, chính sách về lao động, điều kiện
phát triển kinh tế và xã hội, mức tăng dân số mà tỷ lệ thất nghiệp của các nước
là không giống nhau. Dựa vào số liệu thống kê, người ta có thể tính được tỷ lệ
thất nghiệp theo lứa tuổi, giới tính, theo ngành, hoặc vùng…
Trong điều tra về thực trạng lao động và việc làm của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội: người bị coi là thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên
trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, hiện đang :
- Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần đã qua, hoặc không đi tìm việc
vì lý do không biết tìm việc ở đâu, hoặc tìm nhưng chưa tìm được.
- Trong tuần lễ trước đó( tính đến thời điểm điều tra) có tổng số giờ
làm việc dưới 8 giờ/ ngày( 40giờ/ tuần), có mong muốn và sẵn sàng làm thêm
giờ nhưng không tìm được việc.
Còn theo nhà dân số học AlFred Sanvy cho rằng:” người lao động là người
khoẻ mạnh muốn lao động kiếm sống và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không
tìm được việc, hay thất nghiệp”.
Để giải thích mặt kinh tề của vấn đề này, cần đi sâu phân tích cung cầu lao
động. Việc tăng cung gây ra 2 tác động trái ngược nhau: một mặt người lao
động muốn làm thêm giờ ( do tiền công tăng), mặt khác khi có thu nhập họ
muốn nghỉ ngơi làm cung giảm.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ14
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Hiện nay, trên thế giới, người ta dựa vào kinh tế học lao động mà chia thất
nghiệp ra làm nhiều dạng khác nhau. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam
hiện tại cần quan tâm đến các dạng thất nghiệp sau:
*Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp do sự mất cân bằng cung-
cầu trong một thời gian dài. Sự mất cân bằng này do có sự điều chỉnh về chính
sách kinh tế làm thay đổi cơ cấu sản xuất- tiêu thụ của doanh nghiệp và của nền
kinh tế, làm xuất hiện một số ngành mới đồng thời làm suy thoái một số ngành
truyền thống. Những thay đổi về kỹ năng, tay nghề cũ trở lên không thích hợp
với ngành nghề mới buộc họ phải thôi việc, hoặc mất một thời gian để đào tạo
lại. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang chuyển đổi như Việt Nam thì
thuật ngữ” thất nghiệp do chuyển đổi” được sử dụng. Thất nghiệp do chuyển
đổi là một dạng của thất nghiệp cơ cấu xuất hiện do có sự biến đổi sâu sắc toàn
bộ cơ cấu kinh tế- xã hội. Thất nghiệp do chuyển đổi có quy mô lớn hơn, trầm
trọng hơn so với thất nghiệp cơ cấu ở các nước phát triển. Nguyên nhân chính
là do sự biến đổi cơ cấu kinh tế, trong khi cung lao động không được điều chỉnh
kịp thời.
*Thất nghiệp do tăng trưởng kém: do tăng trưởng kinh tế thấp không
đảm bảo công ăn việc làm. Nguyên nhân chính do mức tăng dân số cao, trình
độ thấp, mức độ điều tiết quá cao dẫn đến chi phí lao động cao gây trở ngại cho
khả năng tạo việc làm mới ( vì các doanh nghiệp sẽ tìm yếu tố sản xuất rẻ hơn
để thay thế), hoặc có nhiều rào cản về hành chính hoặc kinh phí cho việc di
chuyển lao động.
*Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp người lao động bằng
lòng tiếp nhận mức lương thực tế và điêù kiện làm việc hiện hành, nhưng vẫn
không được tuyển dụng hoặc không có việc làm.
*Thất nghiệp do mùa vụ: Đây là loại thất nghiệp xuất hiện trong một
khoảng thời gian xác định thường là 1 năm, do tính mùa vụ của quá trình sản
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ15
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
xuất- kinh doanh gây ra, hoặc theo chu kỳ kinh doanh mà 2 giai đoạn chủ yêu là
hưng thịnh và giai đoạn suy thoái, trong giai đoạn suy thoái có nhiều xí nghiệp
bị phá sản làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, nhất là những nước có nền kinh
tế kém phát triển dễ bị động trước những xáo trộn bất ngờ.
*Thiếu việc làm: Theo Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, thiếu việc
làm được tính:” trong tuần lễ tình từ thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc
dưới 40 tiếng/ tuần, có nhu cầu làm việc thêm giờ và sãn sàng làm việc nhưng
không có việc.
*Lao động dôi dư: Là những người dù có bị cắt giảm khỏi số lao động hiện
có cũng không ảnh hưởng đến sản lượng của các doanh nghiệp.
Tóm lại: Thất nghiệp và thiếu việc làm là những vấn đề nghiêm trọng tại
các nước đang phát triển, vì chúng đi liền với nghèo đói, không có thu nhâp ,
hoặc thu nhập thấp, đồng thời kéo theo những tệ nạn xã hội… Nguyên nhân
chính là do sự mất cân bằng cung- cầu mà nó là hậu quả của rất nhiều tương tác
kinh tế- xã hội phức tạp. Mặt khác, thất nghiệp và thiếu việc làm còn thể hiện ở
hai mặt định tính và định lượng, mặt định lượng thể hiện qua việc người lao
động không có chỗ làm hoặc loại hình công việc ưa thích, có thể một tuần chi
làm vài tiếng hoặc vài ngày. Còn về mặt định tính, thể hiện ở việc người lao
động không có vịêc làm phù hợp hoặc làm với năng xuất thấp, mà năng xuất lao
động ảnh hưởng đến mức lương và tính bền vững của công việc và luôn tiềm ẩn
rủi ro trên thị trường( Phần này sẽ được làm rõ ở Chương 2: Thực trạng thị
trường lao động Việt Nam).
1.4.3. Các cơ quan giao dịch và phương pháp giao dịch
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ16
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Để thị trường lao động có thể hoạt động tốt thì bên cạnh các chủ thể chính
thức của thì trường là người bán và người mua sức lao động còn cần các trung
gian hoạt động với điều kiện tạo thị trường, tạo điều kiện cho cung và cầu gặp
nhau nhanh chóng và thuận tiện và có thể với chi phí rẻ hơn .
Trung gian thị trường bao gồm: Hệ thống các cơ quan quản lí lao động, các
tổ chức cá nhân giới thiệu việc làm, các trung tâm giao lưu nhân tài …Các cơ
quan này, thông qua việc xây dựng mạng lưới thông tin về việc làm, có thể
phục vụ tìm kiếm, cung cấp nhân lực, phục vụ tuyển dụng, xúc tiến giao dịch
trên thị trường. Ngày nay, việc gặp gỡ trực tiếp giữa người bán và người mua
ngày càng ít đi và thay vào đó là vai trò của các trung gian thị trường hoạt động
khá sôi nổi và phong phú gồm:
- Các trung tâm dịch vụ việc làm: là nơi để nhu cầu của người mua
và bán gặp nhau để có được sự lựa chọn thích hợp nhất đối với yêu cầu của bản
thân họ .
- Giao dịch thông qua báo, quảng cáo trên các phương tiện thông tin
đại chúng: cả hai bên có thể tự giới thiệu về mình, điều kiện, yêu cầu
đối với người bên kia. Đây là dạng giao dịch phổ biến trong thời đại bùng
nổ công nghệ thông tin hiện nay.
- Chợ lao động: Là một loại hình giao dịch truyền thống của thị
trường lao động, có thể được tổ chức quy củ với luật lệ chặt chẽ và quy mô
trình độ cao, có định kỳ như các hội chợ việc làm…Song bên cạnh đó, luôn tồn
tại các chợ lao động kiểu tự phát, không được tổ chức như cửu vạn , chợ lao
động ở các đầu đường trong các thành phố lớn. Vì vậy cần có chính sách để
kiểm soát thị trường này.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ17
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
1.4.4. Các chính sách của thị trường lao động:
Đây chính là công cụ can thiệp của Nhà Nước vào các hoạt động của
thị trường nhằm mục đích đảm bảo tốt cơ hội việc làm cho người lao động,
cung cấp việc làm tương xứng với khả năng và đem lại thu nhập cao hơn cho
người lao động. Trong hoạt động thực tiễn, các chính sách được sắp xếp vào 2
nhóm cơ bản sau:
- Chính sách chủ động: Là các biện pháp do chính phủ đề xướng nhằm
ngăn chặn thất nghiệp và thiếu việc làm, được cụ thể trong mục tiêu : tạo việc
làm mới, tăng thu nhập; điều hoà cầu về lao động; nâng cao công bằng xã hội…
Hiện nay, các nước trên thế giới đã áp dụng một số chính sách chủ động sau: hỗ
trợ tìm kiếm việc làm (dịch vụ việc làm), đào tạo về thị trường lao động; hỗ trợ
bước đầu cho doanh nghiệp; tạo việc làm chuyên biệt cho các nhóm lao động
khác nhau.
- Chính sách thụ động: Là các chính sách hỗ trợ thu nhập cho người lao
động bị thất nghiệp. Mục tiêu của chính sách này là: điều hoà mức tiêu dùng
cho những người thất nghiệp; đảm bảo sự công bằng trong phân phối; thúc đẩy
việc tái cơ cấu trong doanh nghiệp. Hiện đã có nhiều loại hình chính sách này
được áp dụng, nhưng được bàn nhiều nhất là các chính sách về bồi thường thất
nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, cho về hưu trước thời hạn, chính sách bảo hiểm thất
nghiệp …
Khi bàn về các chính sách thị trường lao động, thường có 2 luồng ý kiến
khác nhau. Một số cho rằng, Chính phủ không nhất thiết phải thực hiện các biện
pháp can thiệp, hoặc có thì cũng chỉ ở mức thấp nhất để đảm bảo sự vận hành
của thị trường một cách có hiệu quả. Một số khác lại cho rằng, thị trường luôn
tồn tại những thất bại không thể tự nó tìm ra cách giải quyết vì thế cần có sự
can thiệp của chính phủ để giảm thiểu những thất bại đó, giảm hoặc ngăn chặn
sự mất cân đối trong việc phân bổ thu nhập và việc làm.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ18
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Những can thiệp đó có thể là:
+ Xây dựng hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm, hỗ trợ cho tìm
kiếm việc làm, rút ngắn thời gian.
+ Thiết lập các hệ thống lương nhằm làm giảm sức ép thất nghiệp.
+ Tạo việc làm qua các chương trình đầu tư của Nhà Nước và tư
nhân,
+ Cung cấp cơ hội đào tạo và đào tạo lại, nâng cao chất lượng đào
tạo.
+ Xây dựng mối quan hệ 3 bên: công đoàn, chủ doanh nghiệp và
Chính phủ.
Để các chính sách thị trường lao động có thể được thực hiện một cách hiệu
quả, cần phải được lồng ghép vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội với tư
cách là một chỉnh thể.
Với sự vận động của thị trường lao động thế giới không ngừng thay đổi và
theo dự đoán của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì hiện nay có khoảng trên
500 triệu người thất nghiệp và thiếu việc làm, nó có xu hướng dần tăng lên 700
triệu người. Khoảng 9/10 số này rơi vào các nước đang phát triển. Từ nay đến
cuối thế kỷ cần tạo ra hơn 2 tỷ việc làm. Như vậy, thị trường lao động tương lai
sẽ trở thành vấn đề toàn cầu bên cạnh các lĩnh vực khác như ô nhiễm môi
trường, HIV, mại dâm, ma tuý…
Bảng 1 : Dân số 1 số nước Châu á - Thái Bình Dương năm 1990 và dự
báo tới năm 2025 (Đơn vị : 1000 người)
Nước 1990 2000 2010 2025
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ19
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Hồng
Kông
Inđônêxia
Thái Lan
Xrilanca
Ân Độ
6034
181539
55712
17451
27152
6775
211367
65503
19620
964072
79044
238605
74795
21843
108182
1
97011
272744
85929
24453
1223829
Nguồn: Số liệu thống kê - Viện khoa học thống kê 1992
Qua bảng trên ta thấy sự bùng nổ dân số và ngày càng có nhiều người tham
gia vào lực lượng lao động gây sức ép giải quyết việc làm và thu nhập. Đứng
trước tình hình khó khăn chung của thế giới, thị trường lao động Việt Nam thực
trạng hoạt động ra sao? Những thành quả và hạn chế sau hơn 15 năm đổi mới
và sự phát triển của thị trường này. Đây chính là nội dung của Chương II: Thực
trạng thị trường lao động Việt Nam.
CHƯƠNG 2:
THỰ C TRẠNG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM.
2.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và sự hình thành thị
trường lao động ở Việt Nam :
2.1.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo
cơ chế tập trung đã bộc lộ những khủng hoảng, nền kinh tế trì trệ không phát
triển. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có một cơ chế mới phù hợp hơn với trào
lưu phát triển chung của thế giới để thay đổi cơ chế cũ. Nền kinh tế thị trường
ra đời đã đáp ứng những yêu cầu đó như là một tất yếu của lịch sử. Bước đầu
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ20
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và bắt đầu phát triển nhất là khu
vực kinh tế tư nhân. Dù khi chuyển đổi nền kinh tế, ta cũng gặp nhiều khó khăn,
thất bại do thiếu cơ sở vật chất kĩ thuật, thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực có trình
độ tay nghề song cuối cùng thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng đã được xác lập vào năm 1989, nền tảng của cơ chế thị trường là cơ
chế giá thị trường, mở ra cho sự tự do lưu thông hàng hoá, đảm bảo quyền chủ
động kinh doanh của các doanh nghiệp, kích thích sản xuất tiêu dùng, góp phần
điều hoà quan hệ cung cầu. Trong kinh tế thị trường thì công cụ kinh tế vĩ mô
được hình thành, quyền lực của Nhà Nước được nâng lên nền kinh tế phát triển
nhanh chóng từ nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất tự cung tự cấp dần chuyển
sang nền kinh tế thị trường. Đây là bước ngoặt lớn, quan trọng đối với nền kinh
tế nước ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Nhà Nước. Sự chuyển đổi này
tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong
đó có sự hình thành và phát triển của thị trường lao động.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường lao động ở Việt
Nam.
Kinh tế thị trường vẫn được coi là quỹ đạo phát triển kinh tế xã hội. Nên
kinh tế thị trường bao gồm các loại thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị
trường bất động sản, thị trường lao động trong thị trường lao động, sức lao
động được coi là hàng hóa đặc biệt. Theo quan niệm kinh điển cho rằng sức lao
động trở thành hàng hoá khi tách rời tư liệu sản xuất, hình thành quan hệ mua
bán, người có tư liệu sản xuất là người mua và sử dụng sức lao động và người
có sức lao động là người lao động, mức độ phát triển của thị trường lao động
phụ
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ21
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức
sản xuất và các yếu tố tự nhiên xã hội.
Trong kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà Nước được coi là một bộ máy
khổng lồ, là người chủ duy nhất về tư liệu sản xuất, điều hành các hoạt động,
trong đó có lĩnh vực lao động. Người lao động được tuyển dụng theo biên chế
với các quy định về giờ làm việc, chế độ nghỉ tiêu chuẩn, định mức lao động,
tiền lương thống nhất Sau nhiều năm, cơ chế trên tồn tại nhiều bất cập là
nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi cơ chế hàng loạt ở các nước Đông Âu những
năm 90 của thế kỉ XX. Đối với Việt Nam thì sự tập trung kinh tế vào tay Nhà
Nước chưa cao lắm, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp, tự cung tự cấp ,
các dịch vụ phát triển thấp cùng với sự phát triển và đổi mới của Đảng đã tránh
được những xáo trộn xã hội để chuyển sang cơ chế thị trường và đạt được
những thành tựu nhất định.
Trong lĩnh vực lao động, trước sức ép của lao động dôi dư trong khu vực
Nhà Nước, hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp, một loạt các biện pháp
mạnh được áp dụng để tháo gỡ tình trạng trên, các cuộc tranh luận về bóc lột
sức lao động, thất nghiệp đã được nhường chỗ cho những quyết định tháo gỡ
cấp bách. Những động thái trên là cơ sở cho sự hình thành rõ nét thị trường lao
động vào cuối những năm 80 bắt nguồn từ những cải cách trong khu vực Nhà
Nước. Theo điều tra năm 1989, dân số Việt Nam có khoảng 65 triệu người, hơn
30 triệu người trong độ tuổi lao động, tỉ lệ người không có việc làm khoảng 6%.
Hơn 3,1 triệu người làm việc trong khu vực Nhà Nước : 1,9 triệu người (61%)
làm trong khu vực xí nghiệp quốc doanh ; 1,2 triệu người (39%) làm việc trong
khối hành chính sự nghiệp; 230 nghìn lao động quản lí Nhà Nước và số còn lại
làm việc ở trường học, bệnh viện, nghiên cứu (không tính đến lực lượng vũ
trang). Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực công cộng thấp hơn so với các
nước có cùng động thái chuyển đổi từ bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ22
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Do 85% còn lại làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, hợp tác xã và tư nhân, khi
chuyển sang cơ chế thị trường không bị ảnh hưởng bởi các cải cách khu vực
công cộng.
Giảm biên chế là vấn đề bức xúc và là chủ trương của Đảng và Nhà Nước
ta. Ước tính 25% lao động trong xí nghiệp quốc doanh; 20% lao động trong
khối hành chính sự nghiệp là lao động dôi dư. Theo quyết định số 111/HĐBT-
12/4/1991 của hội đồng bộ trưởng về một số chính sách trong việc sắp xếp lại
biên chế, đặt mục tiêu giảm 20% số biên chế hành chính sự nghiệp. Tuy thực tế
chỉ giảm 115 nghìn lao động (chiếm 6- 8% số biên chế hành chính, con số này
nhỏ hơn dự kiến 12%), 1/3 số này là ở thành thị, còn lại ở nông thôn, nhưng dù
sao nó vẫn thể hiện tính đột phá về nhận thức và hành động. Đến nay, việc cắt
giảm biên chế vẫn theo tinh thần tự nguyện. Những người có thu nhập thấp
tìm kiếm cơ may mới ở các khu vực kinh tế khác hoặc chuyển sang khu vực tư
nhân. Phần lớn họ làm việc trong ngành y tế và giáo dục do Nhà Nước nắm giữ.
Tinh giảm số cán bộ đang hưởng lương từ ngân sách là một trong những chính
sách ưu tiên của Nhà Nước.
Một trong những biện pháp mạnh nữa là việc ban hành và thực hiện quyết
định số 176 (năm 1989) về sự cần thiết sắp xếp lại xí nghiệp quốc doanh và số
lao động dôi dư, là một phần của cải cách các xí nghiệp quốc doanh, quyền tự
chủ của các doanh nghiệp được tăng lên, quyền sa thải công nhân và xác định
mức lương làm cho các doanh nghiệp phải đương đầu với áp lực giảm lao động
mang tính cạnh tranh. Mặc dù số thôi việc đạt 50-90% tổng số công nhân hợp
đồng không biên chế nhưng số lao động dôi dư cũng giảm đáng kể. Từ năm
1988-1991, số lao động trong các xí nghiệp quốc doanh đã giảm đi 29% (tức là
794 nghìn người), công nhân được động viên nghỉ sớm và được hưởng lương
hưu trong 5 năm trước khi đến tuổi.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ23
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
Với sự ra đời của luật công ty 1990 và chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần, khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh và ngày càng thu hút
nhiều lao động hơn trong đó có lao động dôi dư. Trong thời kì 1988-1991 số
việc làm trong khu vực tư nhân và hợp tác xã đã tăng trung bình 3,5%/năm, số
lao động trong khu vực thương mại dịch vụ đã thu hút được 410 nghìn lao động
mới. Lao động nông nghiệp chiếm 72% tổng số lao động, tăng chậm
(2,2%/năm) nhưng lại thu hút được một nửa số lao động mới bước vào độ tuổi
lao động. Tuy nhiên khu vực ngoài quốc doanh vẫn không thu hút hết số lao
động dôi dư và số lực lượng vũ trang xuất ngũ, do đó số người thất nghiệp vẫn
ở mức cao: 6-7% (tính chung cho cả nước).
Những năm đầu của quá trình chuyển đổi, trước khi Bộ Luật lao động ra
đời (1994) sự hình thành và phát triển thị trường lao động không tránh khỏi
những hạn chế. Còn nhiều tranh chấp giữa bên liên doanh và công nhân vể tiền
làm thêm giờ, thù lao, thời hạn ngắn thường từ 6-12 tháng để duy trì động cơ
lao động, hạn chế chi phí và sự phức tạp khi thải hồi, sự khác biệt tiền công
giữa các miền, vùng (thường công nhân Miền Bắc được đào tạo nhiều hơn
nhưng lại được tiền lương thấp hơn ở Miền Nam. Vì thế thời gian đào tạo
không giải thích được sự khác nhau về tiền lương).
Những kết quả hình thành và phát triển thị trường lao động đạt được trong
thời gian này là một phần nhờ vào chính sách hỗ trợ (trợ cấp thôi việc: được
nhận khi họ phải thôi việc hoặc tự nguyện thôi việc, số tiền được tính theo thâm
niên và mức lương đã có khi còn làm việc).
Tóm lại, các vấn đề cải cách khu vực Nhà Nước được xử lí hữu hiệu, dù thị
trường lao động còn nhiều việc phải làm để cho thị trường này
ngày càng hoàn thiện và theo sự điều tiết chủ động khách quan theo quy
luật của thị trường.
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ24
Khãa luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ KiÒu Giang
2.1.3. Những hình thức biểu hiện của thị trường lao động Việt Nam
Trong cơ chế cũ, quan hệ lao động được biểu hiện qua hình thức tuyển
dụng vào biên chế suốt đời; chủ yếu ở khu vực Nhà Nước. Khi chuyển sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN, các hình
thức biểu hiện của thị trường lao động ngày càng phong phú, đa dạng và phù
hợp với sự phát triển chung của thị trường lao động. Qua thực tế nghiên cứu, có
thể khái quát các hình thức biểu hiện sau đây:
* Tuyển và thi tuyển:
Đây là hình thức được áp dụng trong các bộ phận hành chính sự nghiệp do
Nhà Nước quản lý và của các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên chủ yếu áp dụng
trong khu vực Nhà Nước. Nhà Nước trực tiếp quản lí việc thi tuyển các chức
danh, theo tiêu chuẩn viên chức. Quan hệ lao động chủ yếu là quan hệ trực tiếp
giữa người lao động và Nhà Nước. Tiền lương chủ yếu lấy từ ngân sách Nhà
Nước.
* Hợp đồng lao động:
Áp dụng chủ yếu trong khu vực sản xuất kinh doanh, tại đó diễn ra quan hệ
giữa những người sử dụng lao động và người lao động. Nhà Nước trở thành
người thứ ba tham gia điều chỉnh quan hệ bằng pháp luật. Trong hợp đồng lao
động bao gồm những quan hệ về công việc phải làm, tiền lương, địa điểm làm
việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện làm việc…Tiền lương hoàn toàn do kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của chính đơn vị mình quyết định. Hiện nay hình
thức này thu hút khoảng trên 8 triệu lao động (khoảng 15 – 16% tổng số lao
động có việc làm), kể cả đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy hợp đồng lao
động là biểu hiện cơ bản của thị trường lao động hiện nay ở Việt Nam, nhưng tỷ
lệ kí hợp đồng còn thấp chứng tỏ mức thị trường hoá chưa cao.
* Quan hệ lao động theo hình thức thầu khoán:
Líp K45 Kinh TÕ ChÝnh trÞ25