Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Mô hình phát triển kinh tế nhật bản, hàn quốc, singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.54 KB, 33 trang )

Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Chương 1: Mơ hình tăng trưởng của các nước.
Sản xuất hàng hóa và sau đó tiền tệ ra đời, đánh dấu sự phát triển về chất của kinh
tế nhân loại. Đồng thời, dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, của lực lượng sản
xuất; sản xuất, lưu thông trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển và kéo theo đó là sự xuất
hiện ngày càng đa dạng các loại thị trường; cơ chế thị trường hoạt động ngày càng linh
hoạt, rộng khắp. Khi nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì gọi là nền kinh tế thị
trường hoặc mơ hình kinh tế thị trường, hay kinh tế thị trường. Đến nay, dù kinh tế thị
trường vẫn có những khuyết tật bản chất của nó, nhưng đây vẫn là mơ hình kinh tế ưu
việt nhất.
Lịch sử phát triển kinh tế thị trường nhân loại, tới hôm nay, ở góc độ tổng quát có
thể phân thành hai mơ hình: mơ hình kinh tế thị trường “cổ điển” và mơ hình kinh tế thị
trường “hiện đại”.
Đặc trưng cơ bản của mơ hình kinh tế thị trường “cổ điển” là duy trì, và khuyến
khích rộng rãi tự do cạnh tranh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh trên cơ sở tín hiệu và sự điều tiết của thị trường. Do vậy, hoạt động của mọi
chủ thể kinh tế, sự vận động của giá cả đều chịu tác động trực tiếp của hệ thống quy luật
kinh tế thị trường, mà A.Smith gọi là “Bàn tay vơ hình”. Trong giai đoạn vận động, phát
triển của kinh tế thị trường “cổ điển”, Nhà nước chỉ đóng vai trị “giữ nhà”, nghĩa là Nhà
nước can thiệp rất hạn chế và mang tính gián tiếp vào các hoạt động kinh tế. Tiêu biểu
của mơ hình này là nền kinh tế Tây Âu từ thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XIX.
Ưu điểm nổi bật của mô hình kinh tế thị trường “cổ điển“ là nền kinh tế phát triển
năng động, linh hoạt. Nhưng sự tồn tại và vận động của nền kinh tế theo mơ hình này đến
một giai đoạn nhất định, khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất cao, thì những
khuyết tật của thị trường lại bộc lộ một cách mạnh mẽ, mâu thuẫn nội tại trong phát triển
ngày càng gay gắt, khủng hoảng kinh tế bột phát với sức tàn phá nặng nề. Mà cuộc khủng
hoảng 1929-1933 là một minh chứng.
1



Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Khuyết tật và mâu thuẫn trong phát triển kinh tế thị trường “cổ điển” đã đặt ra yêu
cầu khách quan về sự can thiệp, điều tiết sâu, rộng hơn của Nhà nước vào nền kinh tế. Và
mơ hình kinh tế mới xuất hiện – mơ hình kinh tế thị trường hiện đại, hay còn gọi là nền
kinh tế “hỗn hợp”. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại là có “hai người”
tham gia điều tiết nền kinh tế, đó là thị trường điều tiết ở tầm vi mơ, Nhà nước điều tiết ở
tầm vĩ mơ; có “hai người” thực hiện các hoạt động đầu tư là Nhà nước và tư nhân. Khó
khăn lớn nhất trong kinh tế thị trường hiện đại là xác định giới hạn sự can thiệp, điều tiết
giữa thị trường và Nhà nước với tính khoa học, khả thi trong những cơng cụ mà Nhà
nước sử dụng để điều tiết kinh tế. Vì giới hạn sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước cũng
như của thị trường ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế không phải là
bất biến. Trong khi đó, nếu Nhà nước can thiệp quá sâu, chính sách của Nhà nước khơng
khoa học và thiếu khả thi thì sẽ làm triệt tiêu những ưu thế, những động lực của thị
trường. Ngược lại, nếu Nhà nước can thiệp khơng đủ liều lượng thì sẽ tạo điều kiện cho
những khuyết tật của thị trường phát sinh tác động tiêu cực mạnh mẽ. Tương tự, trong
lĩnh vực đầu tư, nếu kinh tế Nhà nước và phạm vi độc quyền của kinh tế Nhà nước quá
rộng, sẽ hạn chế tính năng động, sáng tạo và khả năng thu hút nguồn lực của kinh tế tư
nhân. Ngược lại, nếu tiềm lực kinh tế của Nhà nước quá yếu, cũng sẽ hạn chế hiệu quả
can thiệp, điều tiết của Nhà nước khi cần thiết và sự thiếu hụt hàng hóa cơng cộng sẽ trầm
trọng.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử kinh tế thị trường
nhân loại rất đa dạng, phong phú. Dưới đây xin điểm qua một số mơ hình với những nét
cơ bản nhất của nó.

1. Nhật Bản
1.1 Khái qt q trình phát triển
2



Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nhật Bản là một quốc đảo nằm ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương của châu Á. Đất
nước Nhật Bản do Hockaido, Honshu, Shigoku, Kyushu và hơn 3900 đảo hợp thành. Bờ
biển dài quanh co, khúc khuỷu, có nhiều cảng tự nhiên tốt, giao thông trên biển rất thuận
lợi. Nhật Bản về cơ bản là một nước rất nghèo về tài nguyên khoáng sản. Sau chiến tranh
thế giới lần thứ hai, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản càng phụ thuộc nghiêm trọng vào
tài nguyên nguyên liệu của nước ngoài. Nguyên liệu và nhiên liệu chủ yếu cần cho sản
xuất công nghiệp, tuyệt đại bộ phận phải nhập khẩu. Điều kiện tự nhiên đặc biệt đã tạo
tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế Nhật Bản, có ảnh hưởng lớn thậm chí quyết định
trực tiếp tới chính sách và đường lối phát triển nhiều mặt về kinh tế xã hội, chính trị, văn
hóa trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.

1.1.1 Lần cất cánh lần thứ nhất của kinh tế Nhật Bản
a.Giai đoạn cận đại hóa:
Giai đoạn cận đại hóa của Nhật Bản bắt đầu từ sau phong trào Minh Trị duy tân
năm 1868. Nhật Bản về cơ bản đã thực hiện cuộc cuộc cách mạng công nghiệp từ sản
xuất thủ công nghiệp đến sản xuất công nghiệp máy móc lớn; tốc đọ sản xuất cơng
nghiệp vượt qua nhiều nước mạnh, từ đó bước vào hàng ngũ các nước đế quốc. Ngun
nhân chủ yếu đó là:
1.Chính sách cận đại hóa tích cực của chính phủ. Phong trào duy tân Minh Trị đã lật
đổ ách thống trị của bọn quân phiệt, xây dựng nên nhà nước tư bản chủ nghĩa chuyên
chính liên hợp của địa chủ và giai cấp đại tư sản.
2.Thu hút kỹ thuật và chế độ của các nước tiên tiến Âu Mỹ. Chính phủ đã đầu tư
một lượng vốn lớn để thu hút một loạt chuyên gia kỹ thuật và quản lý tổ chức từ nước
ngồi. Đồng thời tích cực cấp học bổng cho người Nhật Bản du học ở phương Tây. Đối
với người học xong trở về nước, chính phủ rất trọng dụng.

3. Ra sức phổ cập giáo dục.
4. Phát huy vai trò của xí nghiệp lớn cận đại. Như xí nghiệp của một số tài phiệt
Mitsui, Sumitomo, Mitsubisi, chiếm vị trí ưu thế các ngành khai khoáng, ngành dệt,
3


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ngành máy móc, ngành bn bán và cả ngân hàng thương nghiệp. Về khách quan họ đã
tạo cơ sở vật chất lớn mạnh cho việc phát triển kinh tế của thời đại Minh Trị.
5.Quân sự hóa nền kinh tế quốc dân. Giai cấp thống trị của Nhật Bản đã lợi dụng bộ
máy nhà nước, dùng vũ lực thi hành chủ nghĩa quân phiệt, dựa vào chiến tranh xâm lược
nước ngoài để tiến hành tích lũy tư bản nguyên thủy, thực hiện cận đại hóa kinh tế quốc
dân.
a.Sự phục hưng tồn diện của kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh (1945-1955)
- Tuy toàn bộ nền kinh tế lâm vào cảnh tan rã, song thực lực của nó lại chưa bị phá
hủy hoàn toàn. Kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai, của cải còn lại của Nhật Bản
bằng 101,4% so với năm 1935. Trong đó tư liệu sản xuất bằng 163% năm 1935, máy
công cụ dùng cho công nghiệp bằng 180,6% năm 1935. Ngành chế tạo máy tuy bị phá
hủy ở một mức độ nhất định, song khi ngừng chiến tranh, ngành chế tạo máy cái còn 75%
và thiết bị ngành chế tạo máy hơi nước còn 72,5% được lưu giữ. Công nghiệp điện tử do
nhu cầu về quân sự trong chiến tranh được phát triển khá nhanh, đồng thời sau chiến
tranh phần lớn được giữ nguyên. Thiết bị tàu thuyền, chế tạo xe hơi, công nghiệp điện
lực… tuy bị phá hủy tương đối lớn, song thiết bị cơ bản, lực lượng kỹ thuật của nó vẫn
được bảo tồn. Xét về nguồn vật lực, bốn tập đoàn tài phiệt lớn như Mitsui, Mitsubishi,
Sumitomo, Yasuda chiếm 48% tổng số vốn của tồn bộ ngân hàng, 544 cơng ty lớn của
họ chiếm 24,5% tổng số vốn của xí nghiệp cả nước, trong chiến tranh họ không hề bị phá
hủy, mãi tới năm 1946 vẫn giữ được tỷ lệ cao như vậy. Ngoài ra, chiến tranh đã làm hàng
triệu người chết, nhưng độ ngũ kỹ thuật được bồi dưỡng trước chiến tranh vẫn còn, họ là

những người tiếp thu kỹ thuật mới nhất trên thế giới sau chiến tranh, đã phát huy vai trò
quan trọng cho việc phục hưng nền kinh tế Nhật Bản.
- Dưới sự can dự trực tiếp của Mỹ sau chiến tranh, Nhật Bản đã triển khai một
phong trào cải cách từ trên xuống dưới gồm 3 nội dung: cải cách ruộng đất thu mua bắt
buộc đất dư thừa của địa chủ đem bán cho nơng dân khơng có ruộng hoặc ít ruộng, giải
tốn tập đồn tài phiệt, xây dựng luật lao động. Ba cái lớn về cải cách dân chủ kinh tế đã
4


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

loại bỏ một cách có hiệu quả nhân tố phong kiến của Nhật Bản, làm cho thể chế kinh tế
của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản được một lần cải tổ lớn mở ra con đường phát triển thêm
một bước cho sức sản xuất.
Từ năm 1946 đến năm 1955 do Mỹ áp dụng chính sách nâng đỡ trực tiếp đối với
Nhật Bản, trải qua nỗ lực của 10 năm, đặc biệt là 5 năm cuối, đã hoàn thành nhiệm vụ
phục hưng nền kinh tế. Chiến lược mà chính phủ Nhật Bản thực hiện chủ yếu đó là:
1.Tổ chức xây dựng và phát triển tập đồn tài chính tư bản tiền tệ hiện đại. Các
xí nghiệp của hệ thống tài phiệt vốn thuộc Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo bị phân tán
trước 1950 được tập trung và hợp nhất lại với nhau, đồng thời sáp nhập với các ngân
hàng tư bản hình thành các tập đoàn tư bản tiền tệ, bất động sản lớn. Ngồi ra Nhật Bản
cịn tổ chức các cơng ty tổng hợp kiểu công ty xuyên quốc gia.
2.Thực hiện phương thức sản xuất lệch, ưu tiên sản xuất loại tư liệu phát triển
sản xuất. Nhật Bản sau chiến tranh đứng trước cục diện sản xuất bị thu hẹp, vật phẩm
thiếu thốn, giá cả tăng vọt, do thiếu than nên gang thép, điện, phân bón, máy nơng nghiệp
cũng khơng có cách nào khơi phục sản xuất bình thường. Than chính là nguồn nguyên
liệu cơ sở mà Nhật Bản đang nắm duy nhất. Việc tăng sản lượng than và thép đã trở
thành nhiệm vụ trọng tâm của kinh tế Nhật Bản lúc đó. Khoản tiền chênh lệch giữa giá
xuất xưởng với giá nhà nước quy định đối với sắt thép và than được đảm bảo để ngành

nghề trọng điểm thu được lợi nhuận ổn định, đồng thời thông qua việc phục hưng phát
hành kho bạc thực hiện khoản tiền mua hàng trọng điểm đối với các ngành này. việc thực
hiện cách thức sản xuất này (từ năm 19471949) đã thu được hiệu quả kinh tế rất lớn.năm
1950 so với năm 1946, sản lượng thép tăng 2,9 lần, điện tăng 3,1 lần. Sản xuất ngành mỏ
cũng có bước phát triển dài, làm tăng việc cung cấp phân bón và cơng cụ máy móc cho
nơng nghiệp. Sản xuất nông nghiệp được khôi phục.
3.Đáp ứng nhu cầu đặc biệt cho chiến tranh xâm lược Triều Tiên của Mỹ, coi
đây là một thời cơ kích thích phát triển kinh tế khi Mỹ coi Nhật Bản là căn cứ cung
cấp cho chiến tranh của mình. Thu nhập từ nhu cầu đặc biệt của 5 năm trung gian gấp
5


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

2,5 lần tổng kim ngạch viện trợ của Mỹ 7 năm sau chiến tranh. Dự trữ ngoại hối từ 200
triệu USD vào cuối năm 1949 lên 1,14 tỷ USD cuối tháng 11/1952. Sự kích thích của nhu
cầu đặc biệt cho chiến tranh đối với sản xuất, tiến tới chuyển thành sự kích thích của tiêu
dùng. Tiêu dùng phồn vinh ngược lại thúc đẩy sự phát triển của sản xuất.
4.Cấu tạo thể chế vận hành tương đối với kinh tế thế giới, thu hút kỹ thuật tiên
tiến của nước ngoài, thực hiện cải tạo kỹ thuật kinh tế quốc dân. Chính phủ Nhật Bản
đã tìm cách thu hút kỹ thuật và thiết bị tiên tiến, kinh nghiệm quản lý nhằm cải tạo và
thay thế công nghệ sản xuất lạc hậu, thiết bị củ kỹ nâng cao việc hợp lý hóa ngành nghề
và hợp lý hóa đầu tư năng lực cạnh tranh quốc tế của sản phẩm.
Nhận xét:
- Xét từ nhiệm vụ khôi phục nền kinh tế, chiến lược phục hưng của Nhật Bản có
hiệu suất cao. Trong 10 năm ngắn ngủi, hệ số tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản 19461951 là 10%, 1952-1955 là 8,2%, hệ số tăng trưởng ngành công nhiệp sản xuất mỏ năm
1946-1951 là 29,1%, 1951-1955 là 11,3%.
- Xét từ góc độ tăng trưởng kinh tế: chiến lược phục hưng của Nhật Bản khi mới bắt
đầu đã mang tính tuần hồn tốt. Sự phát triển kinh tế Nhật Bản từ đầu đến cuối có lợi cho

chiến lược trọng điểm phát triển cơng nghiệp hóa học nặng trên cơ sở ưu tiên phát triển
nguồn năng lượng, giao thông và nguyên vật liệu cơ sở cho sản xuất công nghiệp.
Phục hưng kinh tế sau chiến tranh là lần cất cánh thứ nhất trong lịch sử kinh tế hiện
đại của Nhật Bản. Lần cất cánh ngày đã tạo cơ sở trực tiếp cho Nhật Bản đứng vào khối
các nước mạnh mẽ về kinh tế.

1.1.2 Tái cất cánh của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh
a.Sự cất cánh của nền kinh tế Nhật bản sau đại chiến thế giới lần thứ hai (từ
sau năm 1955)
-Về tốc độ và qui mô của cất cánh kinh tế:

6


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Sau đại chiến thế giới lần hai, tốc độ và qui mô phát triển của kinh tế Nhật Bản đã
đạt kỳ tích. Trong thời gian 55 năm từ 1885-1940, hệ số tăng trưởng kinh tế bình quân
năm của Nhật bản đạt khoảng 4 %, tổng giá trị sản lượng quốc dân thực tế tăng gấp 4 lần.
Trong thời gian 18 năm từ 1955-1973, Nhật Bản đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bình
quân năm là 9,8%. Tổng giá trị sản lượng quốc dân thực tế tăng 5,2 lần, vượt gấp 2 lần.
- Thay đổi cơ bản kết cấu lại ngành nghề:
Trước đại chiến thế giới lần thứ hai, kết cấu ngành công nghiệp của Nhật Bản lấy
công nghiệp nhẹ là chính. Thời kỳ chiến tranh, tỷ trọng cơng nghiệp hóa học nặng có liên
quan đến cơng nghiệp qn sự nhanh chóng tăng lên. Từ 1955-1973, sản xuất của ngành
cơng nghiệp mỏ tăng trưởng 10 lần, sản xuất của ngành cơng nghiệp chế tạo tăng trưởng
11 lần, cịn tỷ trọng của cơng nghiệp hóa học nặng trong ngành chế tạo năm 1955 là
44,8%, đầu những năm 70 tăng lên đến 62%. Việc nâng cao tỷ suất cơng nghiệp hóa học
nặng đã trực tiếp kéo theo sự phát triển của ngành nghề thứ hai, khiến cho sản lượng sản

phẩm công nghiệp chủ yếu của Nhật Bản lấy sản phẩm hóa học nặng làm trung tâm đứng
hàng đầu thế giới. Năm 1936 sản lượng gang chỉ đạt 436 vạn tấn, thép đạt 704 vạn tấn;
đến năm 1975 sản lượng sắt thép của Nhật Bản đã tăng lên đến 10,9 lần (sản lượng thép
thế giới tăng 2,4 lần). Cuối những năm 70 đã đạt gần 100 triệu tấn. Sản lượng gang thép
của Nhật Bản chiếm 15% sản lượng gang thép của thế giới, trong đó trên 1/3 tiêu thụ trên
thị trường quốc tế.
Hóa dầu là ngành mới được xậy dựng và phát triển từ những năm 50. Nhật Bản đã
có 18 trung tâm cơng nghiệp hóa học loại lớn lấy gia cơng dầu mỏ làm chủ đạo, trong đó
qui mơ tương đối lớn là Xuyên Kỳ, Thị Nguyên, Lộc Đảo, Tứ Nhật Thị, Thủy Đảo…
Ngoài ra, ngành sợi dệt của Nhật Bản, làm giấy, in, xi măng, gốm sứ và công
nghiệp thực phẩm cũng được phát triển tương đối nhanh, chiếm vị trí nhất định trên thế
giới.
- Cải thiện mức sống của nhân dân Nhật Bản

7


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Chất lượng và mức sống của quốc dân Nhật Bản là chỉ tiêu cụ thể hóa mức độ phát
triển kinh tế của một nước. Tăng thu nhập của người lao động, tổng mức độ tiêu dùng
cũng được nâng cao ở diện rộng. Do sự thay đổi kết cấu ngành nghề đã dẫn đến sự thay
đổi của sản phẩm. Kết cấu tiêu dùng của cư dân và chất lượng tiêu dùng được nâng cao
một bước.
Tóm lại 20 năm sau đại chiến thế giới lần thứ hai là thời kì phát triển cao độ của nền
kinh tế Nhật bản, đã thu được thành tích to lớn. Đây khơng chỉ là một thành tích ở châu Á
mà cịn là một kì tích của thế giới. Sự tăng trưởng mang tính kỳ tích của kinh tế Nhật Bản
đã thu hút sự chú ý rất lớn của toàn thế giới. Bất luận là các nước phát triển hay các nước
đang phát triển, đều coi kinh tế Nhật Bản là điều huyền bí.

a.Nguyên nhân về kỳ tích tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản:
- Thay đổi môi trường phát triển kinh tế
Nhật Bản lấy thị trường quốc tế làm chỗ dựa, vai trị của mơi trường nổi lên càng rõ
nét.
Hiến pháp của Nhật Bản sau chiến tranh qui định một cách nghiêm ngặt: Từ nay về
sau quyết không cho phép sử dụng chiến tranh để giải quyết tranh chấp quốc tế, cũng
không thể trực tiếp bị cuốn hút vào tranh chấp vũ lực. Về mặt quân sự Mỹ trở thành cái ô
hạt nhân của Nhật Bản. Đến năm 1969, Nhật Bản chỉ riêng thu nhập về nhu cầu đặc biệt
cho chiến tranh đã tới 600 triệu đôla.
Xét từ môi trường kinh tế, sự thay đổi về hành vi quốc tế cũng đã xúc tiến một cách
có hiệu quả sự phát triển của kinh tế Nhật Bản.
Giai đoạn cất cánh của kinh tế Nhật Bản, chính là thời kì tăng cường hợp tác quốc
tế trên thế giới, thời gian này ở lĩnh vực mậu dịch đã thành lập tổng hiệp định quan hệ
mậu dịch quốc tế; ở lĩnh vực tiền tệ, đã tổ chức quỹ tiền tệ quốc tế. Toàn bộ trật tự kinh tế
thế giới được đặt dưới sự khống chế của hai hệ thống lớn, đối với Nhật Bản mà nói, đó
cũng là điều kiện tốt cho việc phát triển kinh tế Nhật Bản.
8


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Điều đặc biệt quan trọng là kinh tế Nhật bản cất cánh đúng vào lúc hình thành cao
trào hiệu ứng cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ ba trên thế giới. Cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật mới lấy năng lượng nguyên tử, vi điện tử và chất bán dẫn làm trung tâm, đã
trực tiếp tạo ra sự thay đổi của kết cấu ngành nghề, đã thúc đẩy sự khai hoa tồn diện của
kỹ thuật mới và cơng nghệ mới trong các lĩnh vực như hóa dầu, sợi hóa học, chế tạo cơ
khí, luyện kim loại…
Nhật Bản có điều kiện tự nhiên tương đối ưu việt, lợi dụng cảng vịnh có điều kiện
tự nhiên tốt, Nhật bản đã phát triển mạnh ngành đóng tàu và ngành vận tải để vận chuyển

về Nhật bản những tài nguyên khoáng sản chất lượng tốt giá rẻ từ các nơi trên thế giới.
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, dưới sự can dự của quân Mỹ chiếm đóng, Nhật
Bản đã tiến hành ba cải cách dân chủ kinh tế lớn: cải cách ruộng đất, giải tán tài phiệt,xây
dựng luật lao động. Tất cả những điều đó đã trở thành điều kiện có lợi cho việc cất cánh
kinh tế của Nhật Bản.
Nhân tố trực tiếp quyết định cất cánh kinh tế
- Nguồn tài nguyên sức lao động phong phú, chất lượng tốt mà giá rẻ
Đầu những năm 50, hệ số lao động sản xuất của Nhật bản tương đối cao, song mức
độ tiền của nhật Bản so với Mỹ lại tương đối thấp. Giá thành thấp, một mặt đã hạ thấp giá
cả tiêu dùng. Năm 1967, nếu coi chỉ số tiền lương thực tế của cơng nhân Nhật Bản là 100
thì Mỹ là 371, Tây Đức 179, Anh Pháp là 107. Năm 1981 nếu coi chỉ số công nghiệp chế
tạo của Nhật Bản là 100 thì Đức là 134, Pháp là 106. Mặt khác đã nâng cao tính cạnh
tranh của sản phẩm, tạo cơ chế kích thích phát triển kinh tế.
- Phát triển khoa học kỹ thuật cao
Nhật Bản đã sử dụng thành quả nghiên cứu cơ sở, nghiên cứu ứng dụng của các
nước Âu Mỹ ,do họ bỏ ra lượng tiền lớn và thời gian tương đối dài mới thu được kết quả.
Họ đã nhanh chóng tiếp thu, tiến hành nghiên cứu khai thác ở trong nước. Nhờ vậy đã rút
ngắn rất lớn thời gian đầu tư nghiên cứu khai thác và tăng nhanh chu kỳ chuyển hóa khoa
học kỹ thuật thành sức sản xuất hiện thực. Đây là chiến lược có hiệu suất rất cao.
9


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Ba chế độ lớn trong quản lý xí nghiệp của Nhật Bản được mọi ngưới mệnh danh là
“ba pháp bảo lớn”. Trải qua sự phát triển lâu dài, nó đã hình thành tinh thần của xí nghiệp
Nhật Bản đặc biệt độc đáo:
 Tinh thần “hòa giữa trời và đất”, “dĩ hịa vi q”. Nhấn mạnh sự hợp tác của nhà tư
bản với người lao động trong nội bộ xí nghiệp, phản đối việc tranh giành lẫn nhau gây

tiêu hao.
 Tinh thần lấy con người làm trọng tâm. Người Nhật Bản đã kết hợp chủ nghĩa
công lợi của giai cấp tư sản lũng đoạn hiện đại phương Tây với chủ nghĩa Nho giáo
truyền thống của Trung Quốc, thống nhất chất lượng quản lý khoa học của Mỹ với hành
vi khoa học nhân tế của phương Đông, nổi bật sự quản lý của con người, đề cao sự quan
tâm đối với con người.
 Tinh thần tính tốn kỹ lưỡng. Thế giới gọi người Nhật Bản hiện đại là “động vật
kinh tế”. Cụm từ này vừa có ý xấu nhưng cũng có nhiều ý tốt. Người lãnh đạo xí nghiệp
của Nhật Bản cũng tự coi họ là dưa vào “luận ngữ” của Trung Quốc cộng với bàn tính mà
đánh khắp thiên hạ.
 Mơi trường thị trường cạnh tranh tự do. Sau chiến tranh, do tập đồn tài phiệt bị
giải thể, chính phủ đã định ra “điều lệ cấm lũng đoạn”, về cơ bản mà hình thành thị
trường cạnh tranh tự do.thời kỳ cuối những năm 70, do sự tăng lên mạnh mẽ của thực lực
kinh tế Nhật Bản, mức độ cạnh tranh tăng lên một bước, đó cũng là nhân tố động lực cho
kinh tế Nhật Bản đi theo hướng kinh tế thế giới.
 Hệ số dự trữ cao. Phát triển kinh tế trước hết được quyết định bởi đầu tư trong
nước, mà đàu tư khơng chỉ quyết định bởi tích lũy nội bộ của xí nghiệp, mà cịn được
quyết định bởi việc tổng tích lũy của một quốc gia. Tổng tích lũy đối với tỷ suất của tổng
giá trị sản lượng quốc dân tức là sự cao thấp của hệ số tổng dự trữ là nhân tố quan trọng
quyết định việc tăng trưởng đầu tư nhanh chậm và quy mô đầu tư lớn nhỏ, từ đó lải là yếu
tố quyết định tăng trưởng kinh tế. Trong thế giới tư bản, hệ số tổng dự trữ của Nhật Bản
đã tăng hơn các nước phát triển phương tây khác một cách rõ rệt
Theo logic thông thường, tăng trưởng dự trữ bị ràng buộc bởi hai mặt:
10


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 Tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân. Tốc độ phát triển kinh tế càng nhanh, mọi

người thu nhập càng nhiều, khi bộ phận tiêu dùng chi ra tăng lên tuyệt đối thì hệ số dự trữ
tăng lên ở diện rộng.
 Mức độ dao động của vật giá. Trước khi bùng nổ về vật giá có thể có hiện tượng
tiêu dùng mang tính cạnh tranh nhau mua tạm thời, còn khi giá cả tăng lên biến thành
hiện thực lâu dài phổ biến, nó có thể là một động lực buộc một bộ phận trong thu nhập
chuyển thành dự trữ
Hai nhân tố này không chỉ tác dụng đối với Nhật Bản, mà cịn có thể có tác dụng
tương tự đối với Âu Mỹ. Sự thực nó là một loại phân hóa của tình hình Nhật Bản.
Ngồi ra, nó có quan hệ rất lớn đối với chính phủ Nhật Bản trong thời gian tương
đối dài trước đây, để tăng nhanh tiến trình cận hiện đại, cổ vũ quốc dân tiến hành dự trữ.
Nội dung chủ yếu của chính sách ngành nghề buôn bán:
 Ra sức nâng đỡ bồi dưỡng ngành nghề cơ sở, ngành nghề mới xây dựng và ngành
nghề xuất khẩu, tạo môi trường đầu tư tốt cho việc phát triển của xí nghiệp lớn.
 Hạn chế nghiêm ngặt sản phẩm của nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Nhật
Bản.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng, để nâng đỡ bồi dưỡng và bảo hộ ngành nghề cơ
sở, ngành nghề mới được xây dựng và ngành nghề xuất khẩu, Nhật bản đã định ra một
loạt chính sách ngành nghề tương đối đồng bộ. Những chính sách này đã cấu thành nhân
tố rất quan trọng của việc tăng trưởng nhanh chóng kinh tế Nhật Bản.
1.1.3 Những mâu thuẫn mà nền kinh tế Nhật Bản gặp phải:
- Sau những năm 70, giống như tất cả các nước phương Tây, kinh tế Nhật Bản đang
đứng trước thử thách mới: chế độ tiền tệ thế giới tan rã, chế độ hối suất cố định thay thế
bởi chế độ hối suất thả nổi, các nước xuất khẩu dầu mỏ lợi dụng dầu mỏ làm vũ khí triển
khai đấu tranh với các nước tư bản chủ nghĩa dẫn đến khủng hoảng dầu mỏ.
Song kinh tế Nhật Bản cuối những năm 80 lại đang đứng trước mâu thuẫn gay gắt:
11


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


- Mâu thuẫn trong nước biểu hiện ở chất lượng đời sống, tức là thực lực kinh tế lớn
mạnh mâu thuẫn với việc dừng lại của chất lượng sinh hoạt quốc dân..
- Mâu thuẫn quốc tế chủ yếu từ thu chi quốc tế do xuất siêu mậu dịch đưa đến
không cân bằng.

1.2 Đánh giá chung về nền kinh tế thị trường Nhật Bản
1.2.1. Những thành công
Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu trong số các quốc gia
công nghiệp phát triển ở thế kỷ XX. Thời kỳ thành công nhất của Nhật Bản là những năm
1950-1987, khi tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 7,1%, và tốc độ tăng trưởng
trung bình của GDP thực tế là 6,0%. Đặc biệt trong giai đoạn 1952-1972 tốc độ tăng
trưởng rất cao, trung bình là 9,8%. Trong những năm 60, Nhật Bản đã dần dần mang
nhiều đặc trưng quan trọng của nền kinh tế phát triển như: đạt được mức tồn dụng lao
động, hiện đại hóa cơ cấu công nghiệp, giảm bớt hiệu lực nền kinh tế song hành, tầm
quan trọng của xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng, thặng dư thường xuyên trong tài
khoản vãng lai. Từ năm 1965 trở đi, mơ hình kinh tế Nhật Bản có sự thay đổi. Do bn
bán đã trở nên dư thừa, nên các khoản vay đã được hoàn trả, và các cơng ty cịn đầu tư ra
nước ngồi. Năm 1968, các khoản nước ngoài nợ Nhật Bản dần dần vượt quá các khoản
mà Nhật Bản nợ nước ngoài. Nhật Bản đã trở thành một nước cho vay và năm 1968, tổng
sản phẩm quốc dân của Nhật Bản đã đứng hàng thứ hai trong thế giới TBCN, Nhật Bản
trở thành một cường quốc kinh tế.
- Chúng ta có thấy lĩnh vực thành cơng nhất của Nhật Bản đó là về xuất khẩu; sản
phẩm của Nhật được bán ra toàn thế giới, từ máy nghe nhạc Sony Walkman đến ô tô
Nissan hay Toyota. Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản đứng vị trí 23 xét trên kim ngạch xuất khẩu
so với vị trí thứ 12 của Trung Quốc. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản tại thời
điểm đó chưa bằng 2% của Vương quốc Anh, quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu.
Nhưng đến cuối thế kỷ XX, năm 1997 nước Nhật đã xếp thứ 3 thế giới về phương diện
xuất khẩu, với tổng kim ngạch lớn hơn so với Vương quốc Anh là khoảng 150 tỷ đôla.
12



Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Năm 1992 Nhật Bản đứng đầu thế giới xét trên chỉ tiêu giá trị thiết bị, máy móc, tính bình
qn trên một công nhân, đứng thứ ba thế giới xét trên chỉ tiêu tổng số năm được đào tạo
tính trên một cơng dân bình thường so với các quốc gia công nghiệp phát triển.

1.2.2. Những hạn chế
- Vào những năm cuối cùng cửa thập kỷ 90, tình hình kinh tế Nhật Bản tiếp tục suy
thoái nghiêm trọng. Khi khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á tràn tới, Nhật Bản lại càng
bị nhấn sâu vào khủng hoảng kinh tế toàn diện, kéo dài và trầm trọng nhất trong lịch sử
hiện đại của nước này.
- Trong 2 năm 1997, 1998, tốc độ tăng trưởng là âm ( 0,7% và 2,8%) và năm 1999
nền kinh tế khó khăn lắm mới đạt tốc độ 0,5 – 0,6%. Ngay cả các ngân hàng, các cơng ty
chứng khốn và các tổ chức tài chính khổng lồ cũng không tránh khỏi bị phá sản, buộc
phải sáp nhập hoặc nhường bớt cổ phần cho các đối tác nước ngồi. Tổng lượng nợ của
Chính phủ và chỉ trả lãi suất đã lớn hơn GDP của nước Nhật. Từ những khó khăn trên, số
người mất việc làm cũng tăng mức kỷ lục, khoảng 3,5 triệu, chiếm 4,9%, cao nhất trong
hơn 40 năm qua. Những vụ scandal trong các lĩnh vực chính trị, hành chính và kinh
doanh dấy lên trong thập niên 90 đã cho thấy rằng: Nhật Bản đang mất dần chất keo hàn
gắn xã hội của họ, chất keo có thể đưa họ tiếp tục quãng đường phát triển trong những
thập kỷ tới.
- Nhật Bản là một trong những nước có dân số già nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình
của người dân Nhật Bản thuộc loại cao nhất trong số các quốc gia phát triển và nó vẫn sẽ
tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Đồng thời, Nhật Bản phải đương đầu với hai vấn đề
lớn: thứ nhất, nước Nhật chống lại việc nhập cư và giữ sự đồng nhất về chủng tộc; thứ
hai, người Nhật rất không muốn phụ nữ phải lao động vất vả, họ khơng muốn bóc lột sức
lao động của phụ nữ và do đó càng làm gánh nặng thuế khố đối với dân Nhật Bản tăng

lên.
- Mơ hình Nhật Bản một thời được nhiều người ngưỡng mộ, nay đã dần dần trở nên
khiếm khuyết, kìm hãm sự vận động tiến lên của nền kinh tế, vai trò của các chủ thể kinh
tế tiếp tục giảm, nó khơng cịn phù hợp khi chuyển sang giai đoạn xã hội hậu công
13


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nghiệp, cần phải có sự điều chỉnh, tiến hành các cuộc cải cách cơ cấu sâu sắc nhằm biến
đổi chính hệ thống kinh tế.
- Xuất phát từ thực tiễn trên, từ những năm 90, Nhật Bản tiến hành phi điều chỉnh
nền kinh tế nhằm mục đích giảm xuống mức tối thiểu sự can thiệp của Nhà nước, đưa nền
kinh tế trở lại hoạt động theo cơ chế tự điều chỉnh, dựa trên những nguyên tắc của nền
kinh tế thị trường đích thực, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Cụ thể:
- Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước: nhằm tạo cho các công ty hoạt động
năng động và có hiệu quả hơn, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách do phải trợ cấp để bù
lỗ cho những công ty thuộc sở hữu nhà nước.
- Cải cách hành chính: nhằm tăng cường quyền lực của các cơ quan lập pháp,
chuyển dần quyền chủ động vạch chính sách và chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ
tay các quan chức về cho các chính khách. Tăng cường tính minh mạch và hiệu lực của
pháp luật. Thu hẹp bớt quyền lực của Chính phủ trung ương. Xây dựng một cơ cấu bộ
máy nhà nước gọn nhẹ hơn, song tinh nhuệ hơn.
- Tự do hóa tài chính: hệ thống tài chính Nhật Bản vào những năm 90 vẫn đầy
những bê bối, yếu kém, các hoạt động ngân hàng vẫn bị chia cắt và bị đè nặng bởi những
món nợ khó đòi và thua lỗ triền miên. Tháng 11-1996, Thủ tướng R.Hashimoto kêu gọi
phải tiến hành cải cách toàn diện nhằm làm thị trường tài chính “năng động, linh hoạt, tự
do, cơng bằng, minh bạch và tồn cầu hơn”. Và như vậy, kế hoạch Big Bang cải cách đột
biến ra đời, đi vào thực hiện ngày 1-4-1998 với 8 nội dung thực hiện trong 3 năm, đây là

một cuộc đại cải cách tài chính, có tầm cỡ.
- Cải cách hệ thống ngân hàng như: nâng cao tính độc lập của ngân hàng Nhật Bản
(BOJ); tiến hành phi điều chỉnh đối với hệ thống ngân hàng; phi điều chỉnh lãi suất; giảm
bớt tình trạng chia cắt trong hoạt động ngân hàng; giảm bớt các hàng rào ngăn cách giữa
các hoạt động kinh doanh ngân hàng và kinh doanh chứng khoán...
- Điều chỉnh ngân sách và cải cách chế độ thuế:
* Về điều chỉnh ngân sách: để giải quyết tình trạng thiếu hụt ngân sách, nợ quốc
gia, Chính phủ chủ trương cắt giảm các khoản chi tiêu không cần thiết, tận thu các khoản
14


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phí và lệ phí, rà sốt lại các khoản chi tiêu cho các cơng trình cơng cộng quy mơ lớn song
hiệu quả kém. . .
* Về cải cách chế độ thuế: Chính phủ tiến hành đơn giản hệ thống thuế thu nhập
cá nhân và công ty, giảm và bỏ một số loại thuế đánh quá cao.
- Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội theo hướng: cho phép khu vực tư nhân tham
gia rộng rãi hơn vào lĩnh vực bảo hiểm, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa Nhà
nước và tư nhân, giữa các công ty tư nhân với nhau. Giảm dần trợ cấp của Nhà nước như:
cải cách chế độ hưu bổng, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi... nhằm tạo lập một hệ thống
bảo hiểm xã hội đáp ứng các nhu cầu mới của xã hội đang lão hóa.
- Tóm lại, mơ hình kinh tế thị trường Nhật Bản cộng đồng đã đóng vai trị hết sức
quan trọng trong việc thực hiện chiến lược “xây dựng đất nước bằng mậu dịch”, “tất cả
cho xuất khẩu”, tạo ra sự thần kỳ kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Ngày nay, trước sự
phát triển mạnh mẽ của xu hướng tồn cầu hóa kinh tế và kinh tế tri thức, Nhật Bản cần
có sự điều chỉnh và thay đổi thể chế kinh tế mới cho phù hợp với xu thế phát triển. Đến
nay Nhật Bản đã thực hiện các cuộc cải cách thể chế kinh tế nhưng vẫn còn nhiều hạn
chế, tình trạng nền kinh tế cịn trì trệ khó khăn. Nhưng với tiềm lực kinh tế tài chính của

Nhật Bản và tài trí của dân tộc, tính phối hợp hài hoà để giải quyết các vấn đề, hy vọng
Nhật Bản sẽ thực thi mơ hình mới về sự kết hợp Đơng-Tây trong thời đại mới có hiệu quả
cao.

2. Hàn Quốc
2.1 Khái quát quá trình phát triển của Hàn Quốc:
Hàn Quốc có nền kinh tế đứng thứ 3 ở Châu Á và thứ 13 trên thế giới. Sau cuộc
chiến tranh Triều Tiên, nước này đã xây dựng từ một nước nghèo đói thành một trong
những nền kinh tế phát triển hàng đầu, thường được mọi người biết đến như "Kỳ tích
sơng Hàn". Trong q khứ, nền kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp.
Chỉ vào đầu những năm 1960, nền sản xuất công nghiệp mới bắt đầu có những bước
chuyển biến mạnh mẽ. Sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), nguồn trợ cấp kinh tế từ
Hoa Kỳ đã giúp Nam Hàn phục hồi nhanh chóng. Chính phủ ưu tiên phát triển các ngành
15


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

sản xuất để làm động lực kích thích xuất khẩu. Chỉ sau 1 thế hệ, Hàn Quốc đã phát triển
từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành một trong những trung tâm phát
triển công nghiệp tiềm năng nhất.
Trong những năm 70, 80 của thế kỷ XIX nền kinh tế Hàn Quốc tập trung chủ yếu
vào công nghiệp nặng và công nghiệp sản xuất ôtô. Với sự hỗ trợ của nhà nước, POSCO,
một công ty sản xuất thép đã trở thành xương sống của cả nền kinh tế. Ngày nay, POSCO
là nhà sản xuất thép lớn thứ 3 trên thế giới. Hàn Quốc cũng nổi tiếng với ngành đóng tàu
với những tập đồn đa quốc gia như Hyundai, Samsung đang chiếm ưu thế trên thị trường
tàu biển toàn cầu. Sản xuất xe cũng phát triển khá nhanh, tạo nên nhiều nhãn hiệu xe có
tiếng.
Kể từ cuối những năm 80, chính phủ đã cho phép phát triển kinh tế theo cơ chế thị

trường, tự do cạnh tranh. Trước đây, chính phủ thường đưa ra những kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm để thúc đẩy cơng nghiệp hóa. Để đạt được những thành tựu như vậy, chính
phủ đã tác động trực tiếp vào nền kinh tế thông qua những ưu tiên đặc biệt cho một số
ngành nghề kinh doanh, điều chỉnh tỷ giá hối đoái và thực hiện những chính sách tài khóa
mang tính tập trung cao.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997,1998 đã chỉ ra những yếu kém về cơ cấu của
nền kinh tế nước này. Những mối quan hệ mật thiết giữa chính phủ, các ngân hàng và các
tập đoàn lớn đã tạo điều kiện dễ dàng cho các tập đoàn vay 1 lượng tiền lớn từ những tổ
chức tài chính để đầu tư mạo hiểm. Hậu quả là những tập đoàn này đã trở thành con nợ
khổng lồ. Khi chúng sụp đổ, nó đã tạo ra cú sốc lớn cho khu vực ngân hàng. Giá trị đồng
nội tệ giảm xuống quá một nửa vào cuối năm 1997, kéo theo lạm phát và thất nghiệp tăng
nhanh.
Vào tháng 12 năm 1997, Hàn Quốc chấp nhận số tiền viện trợ khổng lồ từ Quĩ tiền
tệ thế giới (IMF). Kèm theo số tiền là những yêu cầu chính phủ Hàn Quốc phải có những
cải cách kinh tế tích cực bao gồm tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp và tài chính. Chính
phủ tiến hành chuyển đổi tài sản nhà nước sang cho khu vực tư nhân, mở cửa thị trường
16


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trong nước cho cạnh tranh với nước ngoài, yêu cầu các tập đoàn kinh tế lớn giảm tỉ lệ nợ
trên vốn. Nền kinh tế đã phục hồi vào năm 1999 và tăng trưởng đều đặn trong thập kỷ
đầu của thế kỷ 21.
Bước vào thế kỷ 21, Hàn Quốc đang tiến hành "Dự án IT toàn quốc" với hi vọng trở
thành nước đứng đầu thế giới về công nghệ thông tin trong vịng 5 năm. Với các nguồn
quĩ cơng, chính phủ bắt đầu có những biện pháp hỗ trợ tích cực cho ngành công nghệ
thông tin (dẫn đầu bới Samsung và LG). Hàn Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ và Nhật Bản để
thành nước dẫn đầu thế giới về sản xuất chất bán dẫn và màn hình kỹ thuật số LCD và

công nghệ Plasma, cũng như những hàng điện tử gia dụng như: Tivi hay điện thoại di
động.
Thêm vào đó, chính phủ cũng đang bắt đầu đầu tư vào công nghệ robot. Với mục
đích trở thành "Nước có cơng nghệ robot hàng đầu thế giới" vào năm 2025, chính phủ đã
có những kế họach tạo ra cho mỗi hộ gia đình ít nhất một con robot vào năm 2020. Ngồi
ra cịn có những kế hoạch tham vọng khác để mở rộng những ngành như tài chính, cơng
nghệ sinh học, vũ trụ và giải trí.
Mơ hình tăng trưởng của Hàn Quốc là kết quả khơng chỉ từ bên ngồi, từ chiến
lược phát triển theo định hướng công nghiệp và tăng trưởng, mà cịn là kết quả của sự lựa
chọn các chính sách kinh tế khác nhau

2.1.1 Sự phát triển thần kỳ nền kinh tế Hàn Quốc vào thập kỷ 60
Vào thập kỷ 60, thế kỷ XX, con sư tử nhỏ Hàn Quốc từ trong cơn ốm yếu, bỗng bắt
đầu khoẻ lên do những nỗ lực của cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nền kinh tế
Hàn Quốc bắt đầu tăng trưởng và phát triển một cách đáng ngạc nhiên. Lúc này, một số
nhà nghiên cứu nước ngồi có chung một nhận định: "Hàn Quốc là một trong số rất ít
nước chậm tiến đã thực hiện được cả sự tăng trưởng kinh tế lẫn dân chủ hoá sau khi
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nước cộng hoà này đã trở thành một mơ hình cho
các nước đang phát triển".

17


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và có tính bột phát lúc ban đầu của
Hàn Quốc, bên cạnh những kết quả, đã đẻ ra một số hậu quả: 1/ Quyền lực kinh tế tập
trung vào một số ít các trùm tư bản kinh doanh, dẫn đến sự phân phối thu nhập ngày càng
xấu đi và sự phân tranh ngày càng gay gắt giữa các vùng của đất nước và các giai cấp,

tầng lớp khác nhau; gây ra hành vi náo loạn nơi công cộng và sự thống trị hỗn độn của
các mánh khoé ranh ma cả trong nền kinh tế và trong xã hội Hàn Quốc. 2/ Kinh tế phát
triển, nhưng văn hoá và những vấn đề xã hội lại tụt hậu, gây nên sự chênh lệch quá lớn
giữa vật chất và tinh thần.
Đến nay, Hàn Quốc đã có 40 năm phát triển kinh tế. Thu nhập bình quân 1 đầu
người là 20 nghìn USD/năm, tăng gấp 6 lần so với 4 năm qua. Từ một quốc gia nông
nghiệp chuyển sang một quốc gia công nghiệp với sự phát triển thần kỳ. Từ sức cạnh
tranh thấp, Hàn Quốc trở thành một quốc gia có sức cạnh tranh rất cao. Nhiều mặt hàng
của Hàn Quốc như vô tuyến, vi tính, điện thoại di động, xe, máy cơng nghiệp,… nổi tiếng
khắp thế giới. Cả đất nước và mọi người dân ni ước mơ thốt khỏi cảnh nghèo nàn.
Năm 1965, Hàn Quốc lập lại quan hệ với Nhật Bản sau một thời gian dài gián đoạn.
Chính phủ Hàn Quốc quyết định vay vốn của Nhật Bản để phát triển kinh tế. Có vốn và
nguồn nhân lực dồi dào trong tay, Hàn Quốc bắt đầu làm hàng xuất khẩu, tìm con đường
đột phá sản xuất hàng hoá ra bán ở nước ngoài. Vấn đề đặt ra một cách rất gay gắt là
quản lý nâng cao chất lượng sản phẩm. Ai làm hàng kém chất lượng sản phẩm bị phạt rất
nặng. Mẫu mã hàng hố được thiết kế đúng mốt. Bao bì được đặc biệt coi trọng. Phong
trào học tiếng Anh được phát động trong cả nước nhằm giới thiệu hàng hoá ra nước
ngồi. Thế là chẳng bao lâu, hàng hố của Hàn Quốc dần dần thâm nhập vào thị trường
thế giới. Các cơng ty, tập đồn kinh tế mạnh lần lượt ra đời.
Để phát triển mạnh hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, Chính phủ Hàn Quốc khuyến
khích thanh niên đi học phổ thông công nghiệp. Ai học phổ thông công nghiệp được ưu
đãi đặc biệt, như phụ cấp cao, không phải đi nghĩa vụ quân sự. Chính phủ khuyến khích
những người học phổ thơng cơng nghiệp có thể học lên thành những thợ lành nghề, hoặc
18


Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trở thành nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ. Nhờ có chính sách này mà cơng nghiệp, cơng

nghệ phát triển nhanh.

2.1.2 Sự tăng trưởng mạnh mẽ trở thành nền kinh tế công nghiệp
Từ năm 1973, Hàn Quốc tập trung phát triển cơng nghiệp hố dầu, cơng nghiệp nhẹ,
nhất là hàng tiêu dùng, trong đó, các hàng mũi nhọn là may mặc, cán thép, ô tô, bán dẫn.
Công nghiệp nặng cũng được chú trọng phát triển. Để công nghiệp, công nghệ phát triển
nhanh, Tổng thống Kim Young Sam chủ trương phải có chính sách khuyến khích phát
triển cả lao động lẫn quản lý. Ngày 9-4-1996, Tổng thống Kim ký sắc lệnh thành lập Uỷ
ban của Tổng thống về cải cách lao động gồm các đại biểu của lao động và quản lý, cơ sở
đại học và các tầng lớp khác trong xã hội.
Bên cạnh việc phát triển công nghiệp, việc phát triển cơng nghệ tin học cũng được
Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt chú ý. Người Hàn Quốc nhận thức về những trào lưu đang
lên của tồn cầu hố và các khả năng tin học xuất hiện đang phá vỡ các ranh giới kinh tế
quốc gia và mở ra một thời đại cạnh tranh quốc tế không giới hạn. Sức cạnh tranh của
một nước được quyết định bởi số lượng và chất lượng nguồn lực con người của nước đó.
Vì vậy, chiến lược then chốt cho sự phát triển quốc gia trong thế kỷ XXI là phát triển một
lực lượng lao động sáng tạo để có khả năng chủ động trong việc tạo ra tin học, tri thức và
động viên các thành viên của mình có tính sáng tạo hơn và nhiệt tình hơn đối với cơng
việc của họ.
Lực lượng phát triển và chi phối đời sống xã hội ở Hàn Quốc chính là các tập đồn,
cơng ty kinh tế rất lớn. Tại Hàn Quốc có 30 tập đồn kinh tế hùng mạnh. Mỗi tập đồn
kinh tế có số vốn từ 10 tỷ đến 70 tỷ USD, nổi bật là các tập đồn Huyndai, Daewoo,Sam
Sung, LG v.v.. Có tài liệu tính về mặt hiệu quả kinh tế, lực lượng chi phối đời sống chính
trị kinh tế xã hội của Hàn Quốc là: 30 tập đoàn kinh tế lớn chi phối 70% đời sống chính
trị kinh tế xã hội (vì 30 tập đoàn này chiếm 70% GDP của Hàn Quốc); Tổng thống chi
phối 2%; Chính phủ chi phối 2%; cịn lại là các cơng ty vừa và nhỏ chi phối. Mỗi tập
đồn kinh tế đều có viện nghiên cứu kinh tế. Viện này làm chức năng tư vấn và tham
19



Mơ hình phát triển kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

mưu cho người cầm đầu tập đồn. Tồn quốc có "Viện Phát triển Hàn Quốc" (Korea
Development Institute ). Đây là Viện nghiên cứu các vấn đề kinh tế lớn nhất của Hàn
Quốc, làm nhiệm vụ nghiên cứu độc lập về kinh tế cơ bản và kinh tế ứng dụng.
Tổng thống Park Chong Hee là một trong những Tổng thống có nhiều đóng góp
trong cải cách và phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Chủ trương của ông là triệt để khai
thác nguồn nhân lực của Hàn Quốc để làm hàng xuất khẩu. Còn Tổng thống Nooh Mo
Huyn chủ trương xây dựng những tập đoàn kinh tế lớn làm đầu tàu. Chính ơng đã góp
phần đưa thu nhập bình qn một đầu người của Hàn Quốc lên từ 17 đến 20.000
USD/năm. Tổng thống Kim Young Sam là một nhà cải cách lớn, người đã đưa ra học
thuyết về chính sách tồn cầu hố của Hàn Quốc.
Chính sách kinh tế ở Hàn Quốc thường gắn chặt với chính sách tài chính. Chính
sách tài chính ở Hàn Quốc phát triển khá đa dạng: thị trường chứng khốn, tín dụng, kết
hợp nhiều loại tiền của các nước để sử dụng vào mục đích kinh tế. Quỹ tiêu dùng xã hội
hoạt động dưới dạng trả bằng tiền gồm nhiều loại khác nhau cùng những khoản ưu đãi và
dịch vụ cơng cộng. Tiền hưu trí, tiền trợ cấp khó khăn được quy định theo thời giá.
Khoản dự trữ ngoại tệ và dự trữ vàng ngày càng tăng cùng với sự phát triển kinh tế. Thị
trường chứng khoán được mở ra ở nhiều thành phố, thị trấn, làm cho đồng tiền trong xã
hội luôn luôn được lưu thông. Người Hàn Quốc rất sợ đồng tiền nằm 1 chỗ. Họ đã đưa
đồng tiền vào cơn lốc xoáy của nền kinh tế. Chính sách tín dụng bảo đảm lợi ích của cả
người cho vay và người vay, nên nó phát triển đồng đều và thuận chiều.

2.2 Đánh giá nền kinh tế Hàn Quốc
2.21 Những thành công
- Cũng giống như các nước phát triển khác, chiếm ưu thế trong nền kinh tế Hàn
Quốc là các ngành dịch vụ, rồi đến các ngành sản xuất và nơng nghiệp. Trong đó: dịch vụ
chiếm 57,6%, công nghiệp chiếm 39,4% và nông nghiệp chiếm 3%.


20



×