Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tiểu luận: Hội đồng vàng thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.52 KB, 17 trang )







Tiểu luận


Hội Đồng Vàng Thế Giới


Hội Đồng Vàng Thế Giới là tổ chức phát triển thị trường cho ngành công nghiệp vàng.Hoạt động
trong lĩnh vực đầu tư, đồ trang sức và các ngành kỹ thuật, cũng như những vấn đề của chính phủ, mục
đích nhằm dẫn dắt thị trường, trong khi vẫn kí ch thích va duy trì nhu cầu vàng.
Chúng tôi phát triển những giải pháp hỗ trợ, dịch vụ và thị trường, dựa trên cái nhìn sâu sắc v ề thị
trường.Kết quả là chúng ta đã tạo ra s ự chuyển dịch cơ cấu trong nhu cầu vàng thông qua những nhân
tố chính của thị trường.
Chúng tôi đưa ra cái nhìn sâu về thị trường vàng quốc tế, giúp hiểu rõ hơn v ề khả năng bảo quản tài
sản bằng vàng và vai trò của nó trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội.
Có t rụ sở tại Vương quốc Anh, với các tổ chức ở Ấn Độ, Viễn Đông, Thổ Nhĩ Kỳ, châu Âu và Mỹ,
Hội đồng Vàng T hế giới là một hiệp hội mà các t hành viên b ao gồm những công ty hàng đầu thế giới
và suy nghĩ trước hầu hết các công ty khai thác vàng.
Nội dung
Tóm tắt
Cách tiếp cận: tăng cường phân bổ hàng hóa
Danh mục đầu tư tối ưu
Bài học lịch sử: vàng là yếu tố cốt lỗi của một danh mục đầu tư.
Bản chất của vàng: hành vi riêng biệt
Cung và cầu
Thị trường vàng thỏi


Thị trường phái sinh
Vai trò của vàng: tài sản ti ền t ệ
Giảm thiểu rủi ro đối tác
Các quy tắc vàng: hiệu suất t ối ưu trong giai đoạn tốt và xấu
Sự đa dạng hóa tốt
Mối quan hệ nghịch biến khi cần thiết nhất
Contango và backwadation
Kết luận
TÓM TẮT
Phân bổ hàng hóa đã trở nên phổ biến hơn đối với các nhà đầu tư như một phương tiện được tăng
cường để đa dạng hóa danh mục đầu tư. Trên toàn cầu, tài sản hàng hóa thuộc quyền quản lý t ăng hơn
gấp đôi từ năm 2008 đến năm 2010 l ên gần US D 380bn.
Trong khi đó, vàng thường được xem là một phần l ớn của một tập hợp hàng hóa đối với những nhà
đầu t ư, nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong những chỉ số hàng hóá. Trong n hững chỉ số như S&P Goldman
Sachs Commodity Index™ hoặc chỉ số Dow Jones-UBS Commodity Index™, ví dụ, tỷ trọng vàng
thường chiếm khoảng 3% đến 7%. Vì vậy, có một vài rủi ro đối với vàng khi sử dụng một trong
những chỉ số, những nhà đầu tư trong những rổ hoàng hóa khai thác lợi ích đầu tư vàng để đạt hiệu
quả tốt nhất.
Trong các nghiên cứu trước đó, Hội đồng Vàng Thế giới cho thấy rằng việc t hêm vàng vào một danh
mục đầu tư có xu hướng làm tăng trở những thu nhập rủi ro hiệu chỉnh và bảo vệ hiệu quả. Nói cách
khác, bằng cách thêm một phần vàng từ 2% đến 10%, một nhà đầu t ư có thể có đượ mong muốn lợi
nhuận kỳ vọng nhiều hơn t rong khi phải gánh chịu ít rủi ro hơn nhiều so với một danh mục đầu tư
tương đương mà không có vàng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét vai trò của vàng trong danh mục đầu tư đối với các n hà đầu
tư đa dạng, những người có t hể đã có phân bổ cho những hàng hóa.
Kết quả là, phân tích của Hội đồng vàng t hế giới cho thấy rằng nếu một phần phân bổ hàng hóa được
giao trực tiếp cho vàng, hiệu quả danh mục đầu t ư không chỉ được cải thiện, mà các nhà đầu t ư cũng
sẽ giảm khả năng mất mát trong một danh mục đầu tư, bằng cách giảm cái gọi là gi á trị gia tăng tại rủi
ro (VAR)
Nhà đầu tư có phân bổ tài sản tương t ự như một danh mục đầu tư chuẩn đơn giản (50% cổ phần, 40%

thu nhập cố định, 10% hàng hóa) trong năm 2008 sẽ giảm tổn thất danh mục đầu tư t rong khoảng từ
200.000 USD đến 400.000 USD trên một đầu tư $ 10 triệu bằng cách phân bổ 5% đến 10% danh mục
đầu tư trực tiếp vào vàng. Hơn nữa, trong vòng 20 năm qua, các nhà đầu t ư sẽ tăng lợi nhuận danh
mục đầu t ư trung bình hàng năm khoảng từ 100.000 USD đến 200.000 USD bằng cách phân bổ vào
vàng. Những phát hiện này cho thấy rằng các nhà quản lý danh mục đầu tư và nhà đầu tư đã có tiếp
xúc với các mặt hàng trong danh mục đầu tư của họ được hưởng lợi t ừ bao gồm cả vàng như một loại
tài sản chiến lược riêng biệt, không ảnh hưởng đến lợi nhuận dài hạn.
Để hiểu lý do tại sao vàng hoạt động theo cách này, rất quan t rọng để thảo luận về thị trường toàn cầu
thực sự của nó. Điều này bắt đầu với sự hiểu biết sự năng động của thị trường vàng: một thị trường
mà cung và cầu rất đa dạng và bổ sung cho nhau, trường hợp một thị trường t oàn cầu đã sẵn sàng, sâu
và tính l ỏng của t hị trường toàn cầu tồn t ại, và nơi vàng thường đ ược xem như một tài sản tiền tệ thay
thế không có rủi ro m ặc định.
Chúng tôi thấy rằng thuộc tính vật lý của vàng và đặc điểm chức năng đặt nó ngoài phần còn lại của
hàng hóa. Vàng là ít bị ảnh hưởng với biến động trong chu kỳ kinh doanh, thường thể hiện biến động
thấp hơn, và có x u hướng tốt hơn đáng kể ở thời gian suy kiệt tài chính. Đến lượt nó, điều này gây ra
mối tương quan vàng của các mặt hàng khác l à thấp.
Hạn chế, phân tích của chúng tôi cho thấy những ảnh hưởng của vàng trên một danh mục đầu tư đa
dạng không thể được nhân rộng bởi một giỏ hàng hóa không được đa dạng -vàng thực sự là một loại
hàng hóa như các hàng hóa khác.
Cách tiếp cận: tăng cường phân bổ hàng hóa
Những chỉ số như S & P Goldman Sachs Commodity Index (S & P GSCI) hoặc chỉ số Dow Jones-
UBS Commodity Index (DJ-UBSCI) được sử dụng rộng rãi bởi các nhà đầu t ư như các ti êu chuẩn đối
với sự phân bổ cho hàng hóa của họ. Các chỉ số này đại diện cho một mẫu toàn diện về hàng hóa tiêu
dùng nhiều nhất, có ý nghĩa kinh tế, có tính lỏng và gi ao dịch cao, và được dựa trên chiến l ược đầu tư
thụ động sử dụng chủ yếu những hợp đồng tương l ai.
Chỉ số S & P GSCI l à một chỉ số sản xuất bao gồm hợp đồng tương lai với khoảng 20 mặt hàng vật lý
và được cân đối lại vào cuối mỗi tháng. Tái cân bằng được thực hiện để phù hợp những thay đổi t rong
tỷ trọng sản xuất (được dựa trên 5 năm trung bình từng mặt hàng của t hế giới sản xuất) và việc lựa
chọn các hợp đồng tương lai hoạt động t rên các hàng hóa t ương ứng. Bởi vì chỉ số này là dựa vào sản
xuất, nó có xu hướng được t ập trung chủ yếu trên các lĩnh vực năng l ượng, chiếm gần hai phần ba của

chỉ số.Tỷ trọng của vàng trong chỉ số thường là khoảng 3% sản lượng khai thác vàng là tương đối
nhỏ, đặc biệt là khi so sánh với gi á trị sản xuất các mặt hàng năng lượng có liên quan. Điều này có xu
hướng nhân tạo ra một sự phân bổ dưới chuẩn đối với vàng, như vàng tái chế cung cấp một nguồn
thay thế nguồn cung mới.
Như một sự thay thế ngành năng lượng lớn, các nhà đầu tư sử dụng chỉ số S & P Goldman S achs
Light energy Commodity Index (S & P GSLE), bao gồm các hợp đồng tương lai tương tự nhau như
chỉ số S & P GSCI, nhưng trong đó có một rủi ro nhỏ hơn nhiều với dầu và các mặt hàng năng lượng
khác có liên quan. Đặc biệt, tỷ trọng năng lượng ban đầu được chia theo hệ số bốn, trong khi tỷtrọng
hàng hóa khác được tăng l ên đến 100%. Trong trường hợp này, vàng có tỷ trọng xấp xỉ 7%.
Tương tự như vậy, các nhà đầu tư cũng sử dụng các DJ-UBSCI được thiết kế như một chuẩn mực
thanh khoản và đa dạng hóa cho việc đầu tư hàng hóa. Nó cung cấp cái nhìn rộng rãi với các mặt hàng
như một loại tài sản, vì không có bất kỳ hàng hóa hoặc nhóm hàng hóa thống trị chỉ số. Để tìm các
trọng số phù hợp, nó thể hiện bốn nguyên tắc chính: ý nghĩa kinh t ế, đa dạng hóa, tính liên tục và tính
thanh khoản. Nó được cân đối lại mỗi năm một lần, và thanh khoản có tỉ lệ 2:1 so với sản xuất. Điều
này cho phép vàng có tỷ trọng trung bình trong chỉ số khoảng 6,5%. Đối với DJ-UBSCI, ngành năng
lượng là có tỷ lệ trung bình ổn định hơn khoảng một phần ba.
Vì vậy, trong khi các nhà đầu tư thường nhận được một số tiếp xúc với vàng khi sử dụng một t rong
những chỉ số như điểm chuẩn, tổng trọng lượng của nó khá nhỏ. Ví dụ, đối với một nhà đầu tư với
một nhà đầu tư với s ự phân bổ 10% cho các mặt hàng, tỷ lệ hiệu quả với vàng thấp nhất là 0,3% bằng
cách sử dụng S & P GSCI và chỉ cao bằng 0,7% khi sử dụng S & P GSLE hoặc DJ-UBSCI. Hơn nữa,
nếu một nhà đầu t ư chỉ nắm giữ một phân bổ 5% với các mặt hàng dựa trên một chỉ số chuẩn, tỷ trọng
vàng hiệu quả sẽ là rất nhỏ.
Trong các nghiên cứu trước đó, phân tích được thực hiện bởi Hội đồng vàng thế giới đã chứng minh
rằng việc thêm vàng vào một danh mục đầu t ư có xu hướng làm tăng thu nhập rủi ro có điều chỉnh.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào các nhà đầu tư có thể đã có một phân bổ được xác định
trước với các mặt hàng t rong danh mục đầu t ư của họ. Các phân tích cho thấy nếu một phần của phân
bổ này được giao trực tiếp cho vàng, việc thực hiện danh mục đầu tư không chỉ là "tối ưu" trong ý
thức sản xuất thu nhập rủi ro được điều chỉnh tốt hơn, m à còn làm giảm khả năng thua lỗ trong một
danh mục đầu tư.
Danh mục đầu tư hiệu quả

Để tìm t rọng số tối ưu cho vàng và các hàng hóa khác, chúng tôi tập trung vào một danh mục đầu tư
đơn giản với một thành phần tương t ự như một phân bổ chuẩn điển hình, điều này làm giảm phương
sai và đơn giản hóa việc phân tích. Trong t rường hợp này, chúng tôi đã chọn một phân bổ 50% cho thị
trường chứng khoán, đưa ra bởi một trọng lượng 30% vào chỉ số MSCI thị trường Mỹ Vốn chủ sở
hữu và trọng lượng 20% đến chỉ số MSCI cũ của Mỹ Index Vốn chủ sở hữu, một thu nhập cố định
40% (bao gồm cả phân bổ 1% tiền mặt), được đưa ra bởi Barclays Capital Chỉ số tổng hợp và chỉ số
tiền toàn cầu, tương ứng, và cuối cùng, một xác định trước phân bổ 10% cho hàng hóa và / hoặc vàng.
Chúng tôi sử dụng chỉ số S & P GSLE như nó là chỉ số với sự đa dạng lớn nhất trong ngành hàng
khác nhau, nhưng với một lịch sử dữ liệu dài hơn so với các DJ-UBS CI. Sau đó, chúng tôi sử dụng
một optimizer để tìm ra t rọng lượng thích hợp giữa m ột chỉ số hàng hóa và vàng. Để tìm các t rọng số
tối ưu, chúng tôi sử dụng hiệu quả resampled (RE) tối ưu hóa được phát triển bởi Michaud và
Michaud.
Những tỷ trọng được xác định dựa trên l ợi nhuận dự kiến dài hạn thực tế, phù hợp với ghi chú nghiên
cứu t rước đây, để loại bỏ sự chệch giai đoạn ti ềm năng, và biến động và ước tính tương quan dựa t rên
lợi nhuận hàng tuần trong suốt 20 năm qua, từ tháng Giêng năm 1991 đến tháng 12 năm 2010 (Bảng
1). Việc l ựa chọn thời gian dựa trên dữ liệu sẵn có cũng như đảm bảo dữ liệu lịch sử đủ để bao gồm
nhiều hơn một chu kỳ kinh doanh.
Bắt đầu từ một phân bổ tối đa cho hàng hóa và / hoặc vàng, chúng tôi thấy rằng việc phân bổ chiến
lược tối ưu đối với vàng có thể cao tới 9,5% danh mục đầu tư tổng thể cho nhiều nhà đầu tư không
thích rủi ro (để lại 0,5% các mặt hàng khác) hoặc một trung bình 4,5% (5,5% các mặt hàng khác) cho
những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao hơn. Hơn nữa, kết quả tối ưu hóa tìm t hấy rằng việc t hêm
vàng vào một danh mục đầu tư có xu hướng luôn luôn là có lợi, trong khi phân bổ cho vàng bằng
không, dựa trên các thông số được sử dụng, không bao giờ là tối ưu, ngay cả khi các nhà đầu tư đã
nắm giữ một giỏ hàng hóa đa dạng trong danh mục đầu tư của mình.

Bài học lịch sử: vàng là yếu tố cốt lỗi của một danh mục đầu tư.
Trong khi hiệu suất trong quá khứ không đảm bảo một kết quả trong tương lai, người ta có thể sử
dụng phân tích các giai đoạn khác nhau để hiểu được những lợi thế của việc sử dụng vàng như một
phần của một danh mục đầu tư.
Khi nhìn vào kết quả trong vòng 20 năm qua của những tài sản khác nhau thường được nắm giữ bởi

một nhà đầu tư, người ta ghi nhận tầm quan t rọng của việc có một danh mục đầu tư đa dạng hóa vàrất
khó khăn trong việc đạt được nó. Đa dạng hóa thường làm tăng lợi nhuận điều chỉnh rủi ro và làm
giảm thiệt hại cao nhất.
Phân tích này cho thấy rằng việc t hêm vàngvào một giỏ hàng hóa được sản xuất thông thường không
chỉ làm tang lợi nhuận trung bình hàng năm mà tỷ lệ thông tin còn trở nên cao hơn (lợi nhuận trên một
đon vị rủi ro) là tốt, và có lẽ quan trọng hơn, làm giảm thiệt hại kinh nghiệm trong thời gian suy t hoái
kinh tế và giảm VAR của một danh mục đầu t ư (Bảng 2).

Chúng tôi kết luận rằng những danh mục được quản l ý và nhà đầu t ư đã đặt vào danh mục đầu t ư hàng
hóa của họ có thể được hưởng lợi từ việc bao gồm cả vàng như một loại tài sản chiến lược riêng biệt
mà không làm ảnh hưởng đến lợi nhuận dài hạn. Hơn nữa, việc đưa vàng vào danh mục đầu tư tạo tính
thanh khoản và cho phép một chiến l ược quản lý rủi ro hiệu quả hơn. Thật vậy, kể từ khi cuộc khủng
hoảng tài chính gần đây đã bắt đầu d iễn ra vào năm 2007, nhiều nhà đầu tư và quản lý tiền (bao gồm
cả quản l ý tài sản ngân hàng trung ương dự trữ) đang gia tăng sự chú ý của họ đến chiến l ược quản lý
rủi ro, được thúc đẩy một phần bởi sự gia tang các tần số rủi ro đuôi, điều này trước đây chưa từng có,
dường như xảy ra.
Sự thay đổi này bắt nguồn từ chiến lược chỉ tập trung vào l ợi nhuận không có nghi ngờ gì t ỏ ra là một
chất xúc t ác quan trọng cho việc t ái khám phá vàng như một công cụ quản lý rủi ro khả thi và có hiệu
quả và là một tài sản nền tảng.Nhưng, tại sao cho rằng vàng làm tăng hiệu suất danh mục đầu tư một
cách độc đáo và mạnh mẽ như vậy?Nó không phải là sản phẩm của m ột y ếu tố duy nhất nhưng sự kết
hợp của nhiều tính năng của vàng, đặc điểm và động lực thị trường mà làm cho nó trở thành một tài
sản độc đáo như vậy.
Bản chất của vàng: hành vi riêng biệt
Có m ột số đặc tính đặc biệt khiến vàng tách biệt với phần còn lại của những hàng hóa khác, chẳng hạn
như vai trò của nó trong quản lý t ài s ản dự trữ ngân hàng trung ương và các tính chất vật lý và hóa học
xuất sắc mà làm cho nó lý tưởng để sử dụng trong các ứng dụng công nghệ. Sự kết hợp của những
điều này và nhiều tính năng khác gây ra vàng để nổi bật so với các hàng hóa khác.
Vàng, bằng nhiều cách, đồng nghĩa với sự sang trọng và giàu có. Một nửa số vàng trong cổ phiếu t rên
mặt đất vẫn tồn tại dưới dạng đồ trang sức, nhưng nó cũng là một tài sản t ài chính quan trọng và được
nhiều người xem như một loại tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Nó được chứng minh như một cửa hàng

quý và một sự đa dạng hóa hiệu quả của rủi ro. Ý nghĩa tôn giáo và văn hóa của vàng trên thế giới làm
cho nó sau khi tốt vì lý do vượt quá giá trị tài chính trực tiếp một tì m kiếm. Nó cũng hoạt động như
một thành phần đáng tin cậy và quan t rọng được sử dụng trong một loạt các thiết bị điện t ử, ứng dụng
y tế và nha khoa và đang tiếp tục chứng minh sự liên quan của nó rộng hơn như một tạo khả năng
sáng t ạo với công nghệ mới.
Hơn thế nữa, qui mô, độ sâu và tính thanh khoản của thị trường vàng không chỉ rất cao so với các
hàng hóa khác mà thậm chí khi so sánh với đến các tài sản khác, bao gồm cả nợ có đảm bảo và cổ
phiếu riêng l ẻ.Đó là sự kết hợp của những yếu tố này và khả năng vàng giảm tín dụng và rủi ro đối tác
mà vàng có thể thêm tính thanh khoản, t ăng sự đa dạng hóa và bảo vệ sự giàu có, ngay cả trong thời
gian kinh tế suy yếu hoặc trong s ự hiện diện của rủi ro hệ thống.
Cung và Cầu
Như đối với bất kỳ hàng hóa trao đổi tự do khác, giá cả hàng hóa bị ảnh hưởng nặng nề bởi cung và
cầu trong dài hạn, thường được gọi là "yếu t ố cơ bản". Họ cũng có t hể phải chịu những cú sốc ngắn
hạn t ừ các sự kiện như cuộc khủng hoảng chính trị, t hời ti ết và bệnh t ật ở những nơi khác.Giá cũng bị
ảnh hưởng, ở một mức độ khác nhau, bởi vị trí đầu cơ t rong t hị trường phái sinh.
Nói chung, các mặt hàng có thể được nhóm l ại t hành bốn loại: 1) năng l ượng, như dầu mỏ, khí t hiên
nhiên và than; 2) kim loại, trong đó bao gồm kim loại quý và kim loại thường; 3) nông nghiệp, chẳng
hạn như ngũ cốc, và 4) chăn nuôi, bao gồm cả trâu bò và l ợn.
Hàng hóa, không phải là vàng cũng có những đặc tính mong muốn, như là đầu vào quan trọng cho nền
kinh tế toàn cầu, đang ngày càng hấp dẫn như các nguồn thay thế đa dạng hóa cho các nhà đầu t ư tổ
chức và cá nhân. Tuy nhiên, hầu hết các mặt hàng có xu hướng chịu ảnh hưởng bởi một phần hoặc
nền kinh tế khác và chịu những rủi ro đặc trưng. Ví dụ, trong khi dầu có tầm quan trọng t oàn cầu như
là một nguồn năng lượng chính l àm cho nó trở thành mặt hàng có tính t hanh khoản cao, thị trường dầu
ít phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh hơn so với vàng vì dầu chủ yếu được sử dụng cho mục đích công
nghiệp. Tương t ự như vậy, sản xuất dầu t ập trung chủ yếu ở một số vùng trên thế giới, ví dụ, hơn 59%
trữ lượng hiện đang nằm ở T rung Đông. Hơn nữa, các nhà đầu tư có xu hướng tiếp cận thị trường dầu
chủ yếu thông qua các hợp đồng phái sinh. Điều này l àm tăng nguy cơ rủi ro đối tác của họ.
Không ngạc nhiên, vàng có nhiều đặc điểm chung với các kim loại khác - đặc biệt là kim loại quý -
hơn là với bất kỳ loại khác. Ví dụ, ngoài những điểm tương đồng rõ ràng về sản lượng khai thác,
nhiều kim loại có thể được tái sử dụng hoặc tái chế cho sự sản xuất mới, vì vậy cung cấp thêm một

nguồn cung. Điều này là hoàn toàn trái ngược với năng lượng, hàng hóa nông nghiệp và chăn nuôi
được chi tiêu, tiêu thụ, hoặc chuyển đổi nhưng h iếm khi thu hồi. Kim loại cũng có xu hướng tồn tại
lâu hơn và ít nhạy cảm với các điều kiện l ưu trữ bất lợi hơn so với các m ặt hàng nông nghiệp.Chúng
cũng có thể được vận chuyển mà không cần điều kiện chuyên môn chẳng hạn như t rong trường hợp
của dầu hoặc khí t ự nhiên.
Tuy nhiên, sự tương tự của vàng với các kim loại khác kết thúc ở đó. Như Bảng 3 cho thấy, những
lĩnh vực công nghệ và công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với nhu cầu đối với hầu hết các
kim loại khác, bao gồm bạc. Như vậy, các kim loại này chịu tác động bởi chu kỳ kinh doanh. Hơn
nữa, vàng là một trong những yếu tố chủ đạo nhất, dễ dàng lưu trữ so với các kim loại khác như đồng,
nó không chỉquý nhất trong các kim loại (khả năng chống ăn mòn và oxy hóa), mà còn dẻo và dễ dàng
uốn nhất. Bởi vì vàng là gần như không t hể phá hủy, tất cả vàng đã từng được khai t hác vẫn còn tồn
tại ở dạng này hay dạng khác. Như vậy, vàng tái chế gồm có một phần lớn nguồn cung hơn so với bất
kỳ kim loại khác, cho phép thị trường hấp thụ những cú sốc sản xuất chính và t hiếu hụt một cách hiệu
quả hơn.
Sản xuất còn là m ột yếu tố khác biệt cho t hị trường vàng.Sự sản xuất nhiều mặt hàng, bao gồm một số
loại giao dịch nhiều nhất, có xu hướng tập trung cao độ trong một vài khu vực cụ thể trên thế giới. Ví
dụ, 47% l ượng dầu được sản xuất ở Trung Đông và Âu Á, bạch kim chủ yếu đến từ Nam Phi (80%)
và Nga (11%), Mỹ là nguồn lớn nhất của sản xuất ngô (39%), và thậm chí cả bạc chủ yếu khai thác ở
châu Mỹ Latinh. Mặt khác, vàng được phân bố đồng đều, không có khu vực nào chiếm hơn 20% s ản
lượng như năm 2009 (Bảng 4). Ngược lại, đa dạng hóa sản xuất góp phần vào mối liên hệ giữa vàng
so với các hàng hóa khác ít thay đổi, vì thế nó ít bị ảnh hưởng bởi rủi ro chính trị và các rủi ro đặc biệt
như sự thay đổi thời tiết do mô hình khí hậu.


Thị trường vàng
Tính đến năm 2010, chúng tôi ước tính có khoảng 168.300 tấn vàng đã được khai thác trong quá trình
lịch s ử nhân loại (Biểu đồ 1) . Năm mươi phần trăm tồn tại ở dạng đồ trang sức. Vàng được sử dụng
trong các ứng dụng công nghệ, nha khoa và các hình thức khác cho chế tạo khoảng 12%.Tuy nhiên,
thường ước lượng qui mô của thị trường vàng tài chính hoặc thể đầu tư bằng cách nhìn vào đầu t ư tư
nhân và vàng khu vực chính phủ, được xem là hình thức gần thị trường.Cùng với nhau, hai thành phần

chiếm khoảng 36% vàng trên mặt đất hoặc khoảng 60.400 tấn vàng.
Bằng cách sử dụng giá trung bình năm 2010 của vàng là 1,224.52 USD / oz, qui môtài chính của vàng
nắm giữ tương đương với 2.4tn USD.Để đặt điều đó vào bối cảnh, thị trường vàng lớn hơn bất kỳ thị
trường nợ châu Âu duy nhất, nhưng nó không là t rách nhiệm của bất cứ người nào. T hị trường vàng
thậm chí còn so sánh với qui mô nợ có bảo lãnh của Chính phủ(2.7tn USD), hay còn gọi là thị trường
trung gian. B ằng cách so sánh, lượng bạc t rên mặt đất là một thị trường nhỏ hơn.Ước tính ngành công
nghiệp cho rằng việc xác định số lượng vàng bạc vào cuối năm 2009 là khoảng 31.000tấn. Ngay cả với
một giả định bảo thủ rằng số lượng thực tế của bạc có sẵn trên thị trường t rong dưới dạng thỏi và tiền
là hai lần lớn, với giá trung bình của Mỹ 20,25 $ / oz trong năm 2010, quy m ô của thị trường bạc sẽ
tương đương với $ 40.5bn USD (ít hơn 2% của thị trường vàng). Hơn nữa, như năm 2009, tổng dự
toán lượng đồng và bạch kim là nhỏ hơn 7,6 tỉ đô la Mỹvà US $ 3.5 tỷ USD tương ứng.
Hầu hết giao dịch vàng, không chỉ những người đang hướng tới các ứng dụng công nghệ hoặc đồ
trang sức, mà còn cho các m ục đích đầu tư, có xu hướng giao dịch ở dạng vàng t hỏi. Do đó, phần l ớn
các sàn giao dịch vàng diễn ra chủ yếu trên thị trường OTC, thị trường bán buôn toàn cầu đối với
vàng thỏi. Trong khi thị trường OT C l à thị trường sâu nhất và thanh khoản cao nhất trên thế giới,
thông tin về các giao dịch không phải lúc nào cũng truy cập đầy đủ cho công chúng khi chúng được
thực hiện trao đổi không theo những quy định. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy khối lượng giao dịch
trên thị trường vàng thế giới là khá l ớn, tương đương hoặc lớn hơn so với giao dịch tài sản chất lượng
cao khác như nợ quốc gia.
London Bulli on Market Association (LBMA), thông qua các cuộc điều tra của các thành viên, ước
tính giá trị thuần hàng ngày của vàng được chuyển giao giữa các t ài khoản trong năm 2010 trung bình
USD 21bn (dựa t rên mức trung bình giá vàng năm 2010). Tuy nhiên, con số này chỉ đại diện cho sự
chuyển giao vàng chứ không phải tất cả các giao dịch vì những giao dịch đáng kể chỉ đơn giản giao
dịch giữa những người buôn bán vàng và trong một bút toán giao dịch. Vì vậy, trong thực tế, khối
lượng giao dịch giữa các ngân hàng vàng cao hơn đáng kể. Hầu hết các ngân hàng ước t ính rằng
doanh thu thực tế hàng ngày ít nhất bằng ba l ần số lượng đó và có t hể lên đến mười lần.Điều này sẽ
định giá khối lượng giao dịch trên thị trường OTC toàn cầu từ US $ 63 và US $ 211bn.
Thậm chí nếu sử dụng các ước tính bảo thủ hơn của 63bn USD, doanh thu hàng ngày ước tính của
vàng là lớn hơn so với hầu hết nợ các quốc gia, ngoại lệ nợ của chính phủ Mỹ và nợ được hỗ trợ
(government-backed debt)


Thị trường phái sinh
Qui mô và tính t hanh khoản của thị trường vàng giao ngay trong thị trường tài chính đóng vai trò rất
quan trọng không được chia sẻ bởi các hàng hóa khác. Trong khi hàng hóa có một nhu cầu vật chất
hữu hình, khi được xem như là tài sản tài chính, hầu hết các mặt hàng thường được truy cập thông qua
trao đổi, và nhiều giao dịch dựa trên các hợp đồng tương lai và các sản phẩm phái sinh khác. Việc
phân phối, trong thời gian đến lúc hết hạn hợp đồng, hiếm khi được như mong đợivì hầu hết các hợp
đồng được “rolled over”hoặc giao dịch thông qua một khoản t ương đương tiền.
Giá giao ngay cho phần lớn các mặt hàng có sẵn, tuy nhiên, trong t hực tế, chúng thường có nguồn gốc
từ những hợp đồng tương lai ngắn hạn chẳng hạn như giá thanh toán chuyển giao trong một ngày.
Hầu hết các mặt hàng như năng lượng, dầu khí, nông nghiệp, chăn nuôi và thậm chí cả một số kim
loại, chủ yếu dựa vào hợp đồng phái sinh cho các giao dịch tài chính. Có rất ít hoặc không có động cơ
cho các nhà đầu tư thực hiện, ví dụ, cung cấp 1.000 thùng dầu, hoặc 5.000 giạ ngô. Vì vậy, hầu hết
người tham gi a t hị trường sử dụng hợp đồng tương lai, kỳ hạn, quyền chọn và các hợp đồng phái sinh
khác được giao dịch trên sàn giao dịch hoặc thị trường OTC đối với những hàng hóa này. Khi so s ánh
qui mô và tính thanh khoản của thị trường vàng tương lai với những mặt hàng khác, chúng ta thấy
rằng ngay cả ở đó, vàng xếp hạng tương đối rất cao so với những hàng hóa phức tập cả về qui mô và
tính thanh khoản.
Nói chung, t rao đổi hàng hoá là phong vũ biểu thị trường hữu ích của t hanh khoản, độ sâu, qui mô và
sức khỏe của các thị trường hàng hóa cá nhân khác nhau. Một cách đơn giản để phân tích qui mô và
tính thanh khoản của t hị trường là nhìn vào lãi suất mở và khối lượng trên tất cả các giao dịch mà hợp
đồng của một hàng hóa cụ thể được giao dịch. Có rất nhiều sàn giao dịch hàng hóa trên t hế giới. Lớn
nhất trong số này bao gồm Chicago Mercantile Exchange (CME), Intercontinental Exchange (ICE),
sàn Shanghai Futures Exchange (SHF), của T rung Quốc Đại Liên giao dịch hàng hóa, London Metals
Exchange (LME), các hàng hóa Tokyo (TOCOM), và giao dịch hàng hóa nhiều của Ấn Độ (MCX).
Bảng 5 tóm tắt các kết quả cho các hợp đồng tương lai, có xu hướng là các hợp đồng phái có tính
thanh khoản cao nhất. Vàng l à thị trường tương lailớn nhất và thanh khoản cao nhất sau thị trường dầu
mỏ. Hơn nữa, thậm chí có tính đến lãi suất tăng trong đầu tư vàng t rong vài năm qua, các hợp đồng mở
trên vàng chỉ là một phần nhỏ của thị trường vàng giao ngay.Tính đến tháng 12 năm 2010, toàn bộ
lượng hợp đồng vàng được mởg trên sàn giao dịch hàng hóa l à US $ 94.1bn, tương ứng với 4% của

2.4tn USD lượng vàng trong tư nhân và chính phủ. Trong khi đó, lượng hợp đồng bạc mở vào cuối
năm 2010 là trên 50% tổng l ượng vàng ước tính.
Vai trò tài sản tiền tệ của vàng
Một trong những điểm độc đáo của vàng là tính chất lịch sử và tầm quan t rọng như một tài sản tiền tệ.
Trong khi một số kim loại khác, bao gồm cả bạc và đồng, cũng được sử dụng như tiền t rong một số
thời kỳ khác nhau, vai trò của vàng như một tiêu chuẩn của giá trị trong hệ thống tiền tệ là bao quát và
phổ biến hơn. Trước năm 1971, trong khoảng thời gian hơn một trăm năm, vàng đóng vai trò quan
trọng trong cấu t rúc kinh tế toàn cầu bằng cách đảm bảo phát hành cho một số loại tiền tệ. Vì vàng có
trong nhiều thế kỷ được coi là một tài sản có giá t rị, quý gi á và hiếm, đó l à một sự lựa chọn hợp l ý để
sử dụng vàng như một caineo cho tiền tệ. Vai trò duy nhất nà, trong đó nó đã thống t rị thậm chí hơn
bạc, vàng đã để lại ảnh hưởng lâu dài và phù hợp đối với hệ thống tiền tệ quốc tế hiện hành. Thật vậy,
dù vàng không còn có vai trò trực tiếp trong giai đoạn tiêu chuẩn vàng, ngân hàng trung ương và
chính phủ các nước tiếp t ục giữ dự trữ lượng lớn vàngnhư một phương tiện bảo quản, để bảo vệ chống
lại bất ổn kinh tế. Trong thực tế, vàng là tài sản dự trữ lớn thứ ba, chiếm 13% của tất cả các dự trữ
trên toàn cầu, theo sau đô la và đồng euro Mỹ. Hơn nữa, vàng càng được sử dụng như t ài sản thế chấp
trong các giao dịch tài chính giống như những tài sản chất lượng cao, thanh khoản tốt khác như nợ
chính phủ. Trong một nghiên cứu, tínhthanh khoản trên thị trường vàng t oàn cầu, chúng tôi thảo l uận
về tính t hanh khoản khiến vàng giữ tầm quan trọng một t ài sản tiền tệ.
Giảm thiểu rủi ro đối tác
Cuối cùng, cho dù hầu hết các mặt hàng có xu hướng không phải chịu rủi ro tín dụng như thu nhập cố
định và chứng khoán vốn, chúng có thể vẫn phải chịu rủi ro đối tác (rủi ro mà nhà đầu tư ngắn hạn
không thể thực hi ện hợp đồng) đặc bi ệt l à khi tham gia t hị trường tương l ai. Vàng giao dịch rất nhiều
trên thị trường giao ngay, nhà đầu tư có thể giảm thiểu rủi ro đối tác bằng cách giao hàng hoặc giữ
vàng trong tài khoản hoặc các sản phẩm được nắm giữ chủ yếu trong các tài khoản cấp phát, chẳng
hạn như một số chỉ số vàng của quỹ ETF.

Các quy tắc vàng: hiệu suất t ối ưu trong giai đoạn tốt và xấu
Các thành phần của cung và cầu vàng; chiều sâu, bề rộng, và tính thanh khoản của thị trường và vai
trò đặc bi ệt của nó như một tài sản ti ền tệ không chỉ phân biệt vàng với các hàng hóa khác, mà chúng
còn được xem làtiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của lợi nhuận, sự biến đ ộng và độ tương quan. Hơn nữa,

những đặc điểm này cũng khiến vàng phản ứng rất khác nhau đối với những biến số kinh tế và tài
chính có liên quan so với các mặt hàng khác trong giai đoạn mở rộng và suy thoái kinh t ế.Điều này,
đến lượt nó, hỗ trợ tiền đề rằng vàng không nên được đánh giá chỉ là m ột phần trong phân bổ hàng
hóa rộng lớn hơn, mà còn là một phần riêng bi ệt và tách rời của một danh mục đầu tư đa dạng hóa.
Trong thập kỷ qua, hàng hóa nói chung m ang lại lợi ích từ nhu cầu ngày càng được thúc đẩy bởi tăng
trưởng kinh tế toàn cầu, đặc biệt là vai trò to lớn của nhiều thị trường phát triển hiện nay trong nền
kinh tế thế giới. Các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, và nhiều người khác ở M ỹ Latinh, Đông
Âu, Trung Đông, châu Phi và Đông Nam Á đã trở thành khu vực thúc đẩy xu hướng mười năm của sự
tăng cao giá cả hàng hóa. Vàng đã không có ngoại lệ, với giá của nó t ăng lên trong mười năm liên ti ếp
vừa qua.Tuy nhiên, không giống như nhiều loại hàng hóa khác, vàng không bị kéo trở lại cùng t rong
cuộc suy thoái gần đây. Khả năng cung cấp biện pháp bảo vệ trong thời gian suy thoái kinh tế được
xem l à nhu cầu đầu t ư cao hơn và lợi nhuận khả thi hơn trong năm 2008, một năm được đánh dấu bởi
sự tổn thất rất lớn trong tất cả các t hị trường (chủ yếu l à nợ chính phủ Mỹ).
Trong dài hạn, vàng có xu hướng tốt hơn so với các m ặt hàng khác trên cơ sở điều chỉnh rủi ro. B ảng
6 cho thấy hiệu suất của vàng và một loạt các hàng hóa và chỉ số hàng hóa trong những thời gian khác
nhau. Dù vàng không phải luôn luôn có lợi nhuận tốt hơn so với các hàng hóa khác, nhưng nó có đặc
trưng là luôn biến động thấp. Với tốc độ hàng năm l à 15,9% trong vòng 20 năm qua, biến động của
vàng là thấp hơn s o với tất cả các mặt hàng cá nhân ngoại trừ chăn nuôi. Nó thậm chí còn thấp hơn so
với giỏ hàng hóa đa dạng, chẳng hạn như chỉ số S & P GSCI và chỉ số S & P GSLE. Ngược lại, tỷ lệ
thông tin vàng (một thước đo lợi nhuận trên một đơn vị rủi ro) trong vòng 20 năm qua là một trong
những cao nhất, vượt qua đồng và bạch kim. Hơn nữa, Var biện pháp đo lường tổn thất dự kiến tối đa
trong một thời gian nhất định với một mức đ ộ tin cậy nhất định, là một trong những chỉ tiêu nhỏ nhất
trong số tất cả các mặt hàng và các chỉ số thị trường đã được đa dạng. Ví dụ, dựa trên dữ liệu lịch sử
hơn 20 năm qua, mức giảm tối đa mà một nhà đầu tư có thể kỳ vọng phải chịu trong một tuần trên
một đầu tư vàng là 3,5% (với 95% độ tin cậy). Theo các thông số tương tự, một nhà đầu tư có thể
mong đợi để mất tới 7,5% vào dầu mỏ, 6% vào bạc, và 4,7% bằng cách phân bổ đa dạng cho chỉ số S
& P GSCI.
Biến động của vàng là không chỉ thấp hơn so với hầu hết các thị trường hàng hóa, nó là thấp ngay cả
khi so sánh với các l oại tài s ản khác thường được nắm giữ trong danh mục đầu tư của nhà đầu tư. Ví
dụ, giá v àng có xu hướng biến động nhiều hơn tài sản thu nhập cố định, nhưng ít hơn so với thị trường

chứng khoán (Biểu đồ 2), ngay cả khi nhóm trong chỉ số chính như chỉ số cổ phiếu MSCI toàn cầu,
hãy để một mì nh ngành công nghiệp hoặc các công ty cá nhân.


Sự đa dạng hóa tốt
Ngay cả khi so sánh với các hàng hóa khác, v àng có xu hướng cung cấp sự đa dạng hóa danh mục đầu
tư tốt hơn cho nhà đầu t ư. Điều này chủ yếu là do những điểm đặc biệt và động lực của cung và cầu
vàng. Như chúng ta đã thấy, các thành phần của nhu cầu vàng tự nó thay đổi: nó là một dạng hàng hóa
tiêu thụ xa xỉ, là một yếu tố "ẩn" phổ biến trong công nghệ hiện đại, một tài sản tài chính cung cấp
biện pháp bảo toàn vốn và bảo vệ trước rủi ro, và nó được sử dụng như một tài sản tiền tệ trên t oàn thế
giới. Do đó, nó ít chịu tác động bởi biến động trong chu kỳ kinh doanh và, đáng kể, nó có xu hướng
bảo toàn vốn ở gia đoạn kinh tế suy t hoái. Đến lượt nó, điều này gây ra m ối tương quan của vàng với
các hàng hóa khác là thấp (Bảng 7). Điều này bao gồmcả các kim loại khác, đặc biệt là những loại
đóng góp một phần l ớn vào nhu cầu công nghiệp, chẳng hạn như đồng và thậm chí cả bạch kim.
Không ngạc nhiên, vàng có mối tương quan cao với các kim loại quý khác, đặc biệt là bạc. Vàng có
một số đặc đi ểm giống bạc về phạm viứng dụng t rên đồ trang sức, công nghệ và đầu tư. Tuy nhiên, cơ
cấu nhu cầu bạc làm cho nó dễ bị biến động trong nền kinh tế. Trong năm 2008, ví dụ, bạc đã gi ảm lợi
nhuận là 30,4% t rong khi giá vàng đã tăng 4,3% trong năm này. Nói chung, sự tương quan của vàng
bạc có xu hướng theo chu kỳ kinh doanh, tăng cường khi nền kinh tế mở rộng và nghịch chiều khi nền
kinh tế suy yếu. Tương quan này thậm chí còn gi a tăng khi so sánh vàng bạch kim (Hình 3) t rong đó,
như đã nói ở trên, có một tỷ lệ cao hơn nhiều dành cho nhu cầu công nghiệp.
Đáng chú ý l à, trái với niềm tin phổ biến, không có sự tương quan giữa vàng và giá dầu, trong cùng
giai đoạn, giá của hai mặt hàng này di chuyển theo hướng tương t ự, ở những người khác theo hướng
ngược nhau, nhưng hầu hết t hời gian là không có mối quan hệ phù hợp giữa gi á vàng và giá dầu (Hình
4).



Mối quan hệ nghịch biến khi cần thiết nhất
Trong một nghiên cứu gần đây mang tên Vàng: “ hedging” chống lại rủi ro đuôi, Hội đồng Vàng Thế

giới chỉ ra rằng vàng không chỉ có xu hướng có m ột mối tương quan thấp với nhiều t ài sản khác, bao
gồm cả hàng hóa, nhưng những t hay đổi trong mối tương quan này trong t hời kỳ khủng hoảng kinh tế
thường có lợi cho nhà đầu tư. Vàng có xu hướng bảo vệ chống lại cái gọi là rủi ro đuôi, hoặc các sự
kiện ít có khả năng xảy ra và có t hể không thường xuyên, nhưng khi chúng xảy ra chúng có một tác
động tiêu cực đáng kể đến nguồn vốn của nhà đầu tư. Đây là một tác động phụ của hiệu suất của vàng
trong thời gian rủi ro hệ thống khi những người tham gia thị trường tìm kiếm tài sản thực, chất lượng
cao để bảo toàn vốn và giảm thiểu thiệt hại.
Như Biểu đồ 5 cho thấy, khi giá cổ phiếu giảm hơn hai độ lệch chuẩn, mối t ương quan giữa vàng và
chứng khoán có xu hướng biến động ngược chiều, trong khi mối tương quan của hầu hết các mặt hàng
khác đối với chứng khoán tăng lên đáng kể.Tuy nhiên, khi nền kinh t ế phục hồi và giá cổ phiếu t ăng
mạnh, tương quan của họ với vàng có xu hướng đồng biến. Lý do đằng sau h ành vi này l à, trong một
nền kinh tế mạnh, giá cổ phiếu có xu hướng tăng, nhưng người tiêu dùng cũng l ựa chọn để tăng chi
tiêu của họ, trong đó có thể bao gồm các thiết bị đồ trang sức, công nghệ và điều này, lần lượt, hỗ trợ
tăng giá vàng.

Contango và backwadation
Như chúng ta đã thảo luận trước đó, các nhà đ ầu tư tiếp cận nhiều thị trường hàng hóa thông qua hợp
đồng tương lai. Bởi vì hợp đồng t ương lai được dựa trên kỳ vọng của giá tương lai, chi phí và lãi suất,
nhà đầu tư được tiếp xúc với một nguồn bổ sung của biến đổi: hình dạng của đường cong tương lai.
Khi đường cong tương lai là l ên dốc (giá tương lai cao hơn t ại chỗ), nó được cho là t rong hoãn thanh
toán, mà thường phản ánh chi phí thực hiện.Ngược lại, backwardation đề cập đến các trường hợp
trong đó giá tương l ai là thấp hơn so với vị trí. Hình dạng của các đường cong, kết hợp với thực t ế là
hợp đồng tương lai t hường được cán qua hoặc giải quyết bằng tiền mặt, tạo ra sự khác biệt giữa vị trí
trả giá và tổng lợi nhuận có t hể bao gồm chi phí vốn, hình dạng và cái gọi là trượt (hoặc có hiệu lực
trong thời gian qua) trong những thị trường hàng hóa t ương lai.
Như Bảng 8 cho t hấy, sự khác biệt t rong lợi nhuận t hu được trong các vị trí và các t hị trường có thể
trở lại rất lớn và t ương l ai không nhất thiết phải cao hơn s o với l ợi nhuận ngay tại chỗ. Lấy ví dụ, thị
trường năng lượng giữa tháng 1 năm 1991 và tháng 12 năm 2010. Lợi nhuận tích lũy dựa trên giá gi ao
ngay là 224,5% nhưng dựa t rên t hị trường tương lai, họ chỉ có 109,6%. M ặt khác, lợi nhuận vàng có
xu hướng phù hợp bất kể một nhà đầu tư lựa chọn để sử dụng tại chỗ hoặc tương l ai. Trong cùng thời

gian, trở lại vị trí vàng là 258,8% so với 262,8% về tương lai. Đây là một sản phẩm phụ của các hình
dạng của các đường cong t ương lai vàng, mà có xu hướng được căn hộ cho lối vào giao dịch nhiều
nhất của đường cong, và t hực tế là hầu hết các nhà đầu t ư hoặc thương mại t ại chỗ hoặc có khả năng
có thể phân phối vật lý của các hợp đồng tương lai .Tuy nhiên, tập thể dục tùy chọn này sau này có
thể khá tốn k ém và không thường xuyên thực hiện.

Kết luận
Trong khi vàng không phù hợp với những định nghĩa của một hàng hóa - một tốt kinh tế, trong đó có
giá trị và hữu ích và có ít hoặc không có sự khác biệt trong thành phần hoặc chất lượng không phụ
thuộc vào nơi sản xuất - động lực thị trường của nó và sự đa dạng tuyệt đối của ứng dụng của nó l àm
cho nó khác biệt từ các hàng hóa khác. Vàng có một hồ sơ trình diễn độc đáo về lợi nhuận, biến động
và tương quan, và những đặc điểm kết hợp để sản xuất vàng trong một phản ứng rất khác nhau để biến
số kinh t ế và tài chính liên quan đến các mặt hàng khác trong giai đoạn mở rộng và suy t hoái kinh tế
như nhau.
Hàng hóa không phải là vàng cũng có thể được coi là hàng sang trọng hay được sử dụng trong các
ứng dụng công nghệ. Một số hàng hóa cơ bản được sử dụng t rong cuộc sống hàng ngày, những người
khác cũng được sử dụng như hàng rào lạm phát hay để bảo vệ chống mất giá tiền tệ, và t ất cả chúng
nói chung cung cấp một mức độ đa dạng hóa danh mục đầu t ư của nhà đầu tư. Tuy nhiên, vàng có thể
được coi là khác nhau một cách chính xác bởi vì nó thực hiện tất cả các chức năng.
Theo thời gian, hiệu suất của vàng sau một con đường khác với các hàng hóa khác.Tỷ lệ thông tin
vàng (một thước đo l ợi nhuận trên một đơn vị rủi ro) trong vòng 20 năm qua là một trong những cao
nhất. Hơn nữa, VaR cho một vị trí trong vàng, mà các biện pháp tổn thất dự kiến tối đa trong m ột thời
gian nhất định với một mức độ nhất định sự tự tin, là một trong những nhỏ nhất trong số tất cả các mặt
hàng và thậm chí cả đối với các chỉ số hàng hóa đã được đa dạng với.
Chỉ số như Goldman Sachs hàng hóa S & P hoặc chỉ số Dow Jones-UBS Commodit y Index được sử
dụng rộng rãi bởi các nhà đầu tư như các tiêu chuẩn phân bổ hàng hóa của họ.Tuy nhiên, trọng lượng
của vàng trong các chỉ số này là nhỏ, dao động từ 3% và 7%. Trong khi các nhà đầu tư thường nhận
được một số tiếp xúc với vàng khi sử dụng một trong những chỉ số như điểm chuẩn, chúng tôi thấy
rằng hiệu suất danh mục đầu tư vẫn có thể được cải thiện bằng cách làm cho một bổ sung cho vàng.
Một vị trí hoàn t oàn trong vàng gi ảm nguy cơ mà không giảm bớt lợi nhuận kỳ vọng dài hạn.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng trong một danh mục đầu tư chuẩn đơn giản (50% cổ phần,
40% t hu nhập cố định, 10% hàng hóa), phân bổ chiến lược tối ưu để vàng có t hể tăng l ên cao t ới 9,5%
cho các nhà đầu tư không thích rủi ro (với một 0,5% giao cho các hàng hóa khác) hoặc trung bình
4,5% (5,5% các mặt hàng khác) cho những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn. Quan trọng hơn,
chúng ta t hấy rằng những điều kiện này, một nhà đầu tư nắm giữ vàng chỉ thông qua một chỉ số hàng
hóa đa dạng sẽ không đạt được l ợi nhuận tối ưu (trên một đơn vị rủi ro) hoặc giảm t hiểu thiệt hại dự
kiến.
Những đặc điểm này, kết hợp với nghiên cứu của Hiệp hội Vàng Thế giới trước đó, cho thấy chiến
lược phân bổ tương đối nhỏ để vàng dao động từ 2% đến 10% có t hể cải thiện đáng kể và bảo vệ hiệu
suất của một danh mục đầu t ư. Giấy này hỗ trợ tiền đề rằng vàng không nên được xem như một phần
của một phân bổ hàng hóa rộng l ớn hơn, nhưng như là một phần riêng bi ệt và tách rời của một danh
mục đầu tư đa dạng.



×