1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Trong vòng 10 năm trở lại đây, ngành du lịch thế giới tăng trưởng khoảng 25%.
Hiện tại du lịch chiếm khoảng 10% hoạt động kinh tế toàn cầu và một trong những
ngành tạo ra công ăn việc làm chính trên thị trường lao động thế giới [37]. Ngành du
lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều
quốc gia. Từ nay đến năm 2020 theo UNWTO, dự báo du lịch còn tăng trưởng ồ ạt
hơn nữa, tạo ra các cơ hội kinh tế lớn lao song mang lại những thách thức gay gắt và
những mối đe dọa tiềm ẩn đối với môi trường và các cộng đồng địa phương nếu không
được quản lý tốt [87,28]. Trước những nguy cơ đó, con người bắt đầu nhìn nhận, chuyển
hướng nhận thức và cách tiếp cận trong hoạt động du lịch, họ mong muốn đóng góp
trách nhiệm cho một thế giới phát triển bền vững hơn. Theo đó, xu thế phát triển du
lịch dựa vào thiên nhiên nói chung và DLST nói riêng đang trở thành xu thế của thời
đại và có ý nghĩa quan trọng không những về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa đặc biệt
đối với sự phát triển bền vững của du lịch trên khía cạnh trách nhiệm đối với tài
nguyên và môi trường.
Vùng duyên hải cực Nam Trung bộ là vùng được thiên nhiên ưu đãi về tiềm năng du
lịch nói chung và DLST nói riêng. Trong những năm qua đã đón bắt nhiều cơ hội để
phát triển du lịch và DLST, qua đó nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên như các bãi biển
(Mũi Né, Ninh Chữ, Cà Ná, Hàm Tân,…) các VQG, các khu bảo tồn thiên nhiên đã và
đang được khai thác sử dụng để phát triển du lịch. Tuy với thế mạnh vượt trội về tài
nguyên du lịch, là cơ sở để phát triển DLST nhưng cho đến nay việc khai thác tiềm
năng này trên cả lĩnh vực tự nhiên lẫn nhân văn còn ở mức nhỏ lẻ, tự phát, chưa có
được những nghiên cứu mang tính bài bản, khoa học để tạo nền tảng cho việc khai
thác có hiệu quả những nguồn tiềm năng to lớn này.
Hiện nay, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế du lịch với quy mô lớn, tốc độ
nhanh, làm cho các địa phương đối phó với nhiều vấn đề nan giải, tồn tại mâu thuẩn
ngày càng gay gắt: một bên cần phải bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt là môi
trường sinh thái vùng khô hạn ven biển, một bên là phát triển kinh tế du lịch để mang
2
lại nguồn lợi kinh tế cho địa phương. Kinh nghiệm từ các nước đã có quá trình phát
triển du lịch lâu dài trên thế giới cho thấy để dung hoà hai lợi ích mang tính đối nghịch
nêu trên chỉ có con đường lựa chọn đó là đẩy mạnh phát triển DLST một cách khoa
học và bền vững dựa trên không gian các vùng địa lý đặc thù này mới đảm bảo được
tính cân bằng và phát triển bền vững cho các địa phương.
Các năm qua, việc nghiên cứu trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn về du lịch sinh
thái ở nước ta nói chung chỉ mơi bước đầu, dưới dạng những nghiên cứu nhỏ lẻ, thiếu
tính hệ thống, chủ yếu ở tầm quốc gia. Đặc biệt những nghiên cứu về phát triển du lịch
sinh thái trên vùng duyên hải cực Nam Trung bộ là chưa có gì. Vì vậy việc nghiên cứu
sâu hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm phát triển DLST ở vùng DHCNTB là
hết sức quan trọng và cần thiết.
2- Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý thuyết có liên quan về DLST, DLST bền vững,
đặc biệt DLST bền vững đối với một vùng biển – hải đảo và DLST trên các
vùng nhạy cảm về môi trường khác.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu bao gồm: Nhóm giải pháp bảo vệ môi trường
sinh thái và tài nguyên nhân văn liên quan đến DLST; Nhóm giải pháp tổng hợp
phát triển DLST vùng .
Đề xuất tổ chức phân vùng quy hoạch một cách có hệ thống và khoa học không
gian DLST cho hai tỉnh vùng DHCNTB.
3- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu và hệ thống lại các cơ sở lý thuyết về phát triển DLBV, DLST,
DLST biển - đảo bền vững.
Nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển DLST của các nước và rút ra các bài học
kinh nghiệm, làm cơ sở cho tác giả đề xuất giải pháp ở chương 3.
Tổ chức khảo sát thực tế các địa bàn vùng DHCNTB để hỗ trợ đánh giá thực
trạng khách DL-DLST, qua đó phác họa bức tranh về DLST đang có nhiều
mãng sáng tối, chưa phối hợp hài hòa và thiếu tính bền vững.
3
Đề xuất hệ thống các nhóm giải pháp hợp lý nhằm xây dựng kế hoạch hành
động phát triển DLST của vùng DHCNTB
4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
* Đối tƣợng nghiên cứu: đối tượng chính tập trung nghiên cứu là các hoạt động liên
quan đến tổ chức quản lý phát triển DLST, là chủ thể gắn với yếu tố cung. Ngoài ra
các đơn vị lữ hành, các công ty dịch vụ, khách DL-DLST, cộng đồng địa phương tham
gia vào hoạt động DLST cũng là những đối tượng được nghiên cứu bổ trợ để so sánh
đối chiếu, suy diễn.
* Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên không
gian thuộc tiểu vùng DHCNTB (gồm hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận). Về mặt
thời gian luận án giới hạn thời gian từ 1995 đến 2010, đây là khoảng thời gian mà hoạt
động DLST tại Ninh Thuận–Bình Thuận đã có những bước khởi đầu đáng ghi nhận.
5- Phƣơng pháp nghiên cứu: Có 2 phương pháp được sử dụng nghiên cứu gồm:
5.1 Phƣơng pháp định tính:
5.1.1 Phƣơng pháp phân tích thống kê: tác giả sử dụng các nguồn số liệu thứ cấp
đáng tin cậy được thu thập từ các Sở VHTT-DL, Sở NN &PTNT, Sở Kế hoạch & Đầu
tư, Cục Thống kê của 2 tỉnh, từ Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch, Tổng Cục DL.
Bên cạnh đó còn sử dụng các nguồn dữ liệu chính thức của các tổ chức Du lịch thế
giới (UNWTO), Hiệp hội DLST quốc tế (TIES), Hội đồng Du lịch Lữ hành quốc tế,
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Với các nguồn dữ liệu này tác giả đã sử
dụng phương pháp phân tích thống kê để phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động
DLST tại vùng DHCNTB.
5.1.2 Phƣơng pháp chuyên gia:
-Thông qua các đợt hội thảo quốc gia về du lịch được tổ chức tại Bình Thuận, Ninh
Thuận, tác giả đã tiếp cận với các chuyên gia du lịch đến từ TW, các tỉnh, thành phố,
đặc biệt là các lãnh đạo ngành Du lịch ở hai tỉnh để trao đổi và xin ý kiến nhận xét
đánh giá của chuyên gia để bổ sung cho các nghiên cứu, và giúp cho phần phân tích
thực trạng ở chương 2 và nêu giải pháp cũng như đề xuất quy hoạch tổ chức không
4
gian DLST liên kết giữa hai tỉnh ở chương 3 mang tính thực tiễn, sát đúng và khoa học
hơn.
-Thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề hẹp mà tác giả chủ động tham gia, phối hợp
tổ chức (Hội thảo phát triển DLST tỉnh Bình Thuận, 2009; Hội thảo về Môi trường
nông nghiệp-nông thôn với Đa dạng sinh học ở Việt Nam, 2009) các nhà khoa học
chuyên ngành, các chuyên gia quản lý du lịch và môi trường đóng góp ý kiến cho bản
báo cáo của tác giả nhằm nâng cao tính phù hợp với thực tiễn của nội dung luận án.
-Tác giả đã gặp trực tiếp, phỏng vấn trao đổi với 26 chuyên gia là những nhà quản lý
du lịch cao cấp của hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, các nhà quản lý công ty Du
lịch lữ hành, các cơ sở dịch vụ du lịch, các Hiệp hội để xin ý kiến đánh giá kiểm định
về tính thực tiễn, tính khả dụng của bảng câu hỏi dùng để khảo sát khách DL-DLST,
đồng thời còn lấy ý kiến cho điểm về các yếu tố về điểm mạnh, điểm yếu, đe dọa,
thách thức đối với hoạt động DLST của vùng DHCNTB từ bảng phân tích SWOT.
5.1.3 Phƣơng pháp suy diễn quy nạp: qua các tài liệu của UNWTO, TIES, PATA,
của Tổng cục Du lịch VN (Viện Nghiên cứu và Phát triển DL), các công trình khoa
học đã được công bố nghiên cứu về phát triển DLST, về các mô hình DLST bền vững,
các kết quả thành công từ thực nghiệm các nước, từ đó tác giả rút ra những mô thức
chung vận dụng để suy diễn, hệ thống lại các nội dung từ thực tiễn cũng như lý luận
của các nước làm cơ sở cho việc phân tích, suy đoán, diễn giải, xây dựng các giải pháp
và lập kế hoạch hành động với các bước đi thích hợp.
5.2 Phƣơng pháp định lƣợng:
A/. Sử dụng mô hình phi tuyến dạng hàn mũ để thực hiện dự báo lƣợng du khách
đến: Khác với trước đây, các dự báo thường dùng các mô hình tuyến tính giản đơn để
dự báo. Trong chương 3, với đặc điểm số liệu của lượng khách du lịch (quốc tế và nội
địa) là số liệu chuỗi thời gian (Time series), thường diễn biến theo xu hướng phi tuyến.
Do đó tác giả sau khi chạy thử 2 dạng hàm bậc 2 và hàm mũ, đã quyết định sử dụng
mô hình hồi quy phi tuyến dạng hàm mũ theo mô hình kinh tế lượng Holt-Winter là
hàm thích hợp nhất. (đây là dạng mô hình mà Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch
đã ứng dụng trong dự báo- Tạp chí Du lịch VN số 10/2011). Tác giả đã sử dụng phần
5
mềm kinh tế lượng chuyên dụng Eviews 7.0 để giải quyết bài toán định lượng dự báo
nói trên. Sai số mô hình cho thấy rất thấp, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật cho dự báo (xem phụ
lục C)
B/ Sử dụng phƣơng pháp phân tích định lƣợng để khảo sát nhu cầu và yêu cầu
của du khách đối với DLST ở vùng DHCNTB: Tác giả đã sử dụng số liệu sơ cấp
được thu thập khi khảo sát trực tiếp 883 du khách (144 khách quốc tế, 739 khách nội
địa) với phần mềm PASW-SPSS 20.0 để tính toán tần suất, phân tích, phân loại theo
nhóm gắn với tính chất, hành vi để làm cơ sở cho các phân tích tích định lượng khác
trong chương 2.
6- Phƣơng pháp luận trong nghiên cứu luận án: Luận án “Phát triển DLST các tỉnh
vùng DHCNTB đến năm 2020”. Tác giả muốn nghiên cứu làm rõ các nội dung lý luận
về DSLT, về các nguyên tắc, điều kiện để hoạch định sự phát triển DLST bền vững
trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Tác giả sử dụng các phương pháp định tính và
định lượng trong phân tích đánh giá thực trạng về tổ chức hoạt động DLST trong các
năm qua, thống kê phân tích nguồn tài nguyên DLST của 2 tỉnh, cùng với dự báo khả
năng phát triển. Tác giả vạch ra các định hướng mục tiêu phát triển, định hướng tổ
chức không gian DLST của vùng và đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát
triển DLST của vùng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Qua đó ở chương 1, tác giả trình bày cơ sở lý luận về DLST bền vững, các nguyên
tắc và điều kiện để phát triển DLST. Tuy nhiên, sẽ đi sâu hơn trong lý luận về phát
triển DLST bền vững, các giai đoạn phát triển của loại hình này và nguyên tắc quy
hoạch phát triển bền vững DLST biển, đảo. Thêm vào đó, những bài học kinh nghiệm
về quản lý DLST của các nước có điều kiện phát triển tương đồng ở Đông Nam Á
cũng được đưa ra để tham khảo vận dụng (kinh nghiệm của Thái Lan, của Indonesia,
Malaysia, Philippines). Trong nội dung chương 2, tác giả đã phân tích một cách toàn
diện hoạt động DLST đang diễn ra ở 2 tỉnh, phân tích diễn biến số lượng, đặc điểm và
nhu cầu của du khách quốc tế, nội địa, phân tích các tuyến-điểm cũng như các loại
hình DLST đang được khai thác. Đúc kết rút ra những thuận lợi, khó khăn, những
thành công đạt được, những cơ hội sắp đến cùng những thách thức thông qua phân tích
6
SWOT. Trong chương 3, để xây dựng các giải pháp và khung kế hoạch hành động, tác
giả đã dựa trên việc thiết lập, định hướng cho việc tổ chức không gian DLST, trình
bày các quan điểm phát triển cụ thể và đưa ra các cơ sở bao gồm: cơ sở mang yếu tố
quốc tế, cơ sở mang yếu tố quốc gia, và cơ sở từ việc dự báo quy mô phát triển. Ngoài
ra để việc thực hiện các giải pháp phát triển đồng bộ và hiệu quả hơn tác giả cũng trình
bày những kiến nghị hỗ trợ thực hiện với các cấp liên quan như với Chính phủ, với các
tỉnh, với các doanh nghiệp, và với người dân và cộng đồng.
7- Tổng quan về tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài:
a- Giới thiệu tổng quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Từ thực tiển phát triển mạnh mẽ của DLST trên thế giới. Tác giả luận án trong suốt
4 năm qua, đã có điều kiện tiếp cận với hơn 100 tài liệu liên quan đến lĩnh vực DL và
DLST trong và ngoài nước. Trong số đó tác giả tâm huyết các tài liệu sau đây: “ Cơ
sở khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam” và “Nghiên cứu và
đề xuất tiêu chí khu DLST Việt Nam” do Viện Nghiên cứu và PT Du lịch soạn thảo;
“Du lịch sinh thái những vấn đề về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” do PGS.TS.
Phạm Trung Lương chủ biên; “Du lịch sinh thái – Ecotourism” do GS-TSKH. Lê
Huy Bá biên soạn; “Du lịch bền vững” do Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu đồng
biên soạn; “ Du lịch sinh thái những nguyên tắc- thực hành và chính sách để phát
triển bền vững” của tác giả M.Epler Wood, “ Phát triển DLST tại Malaysia – Có thật
sự bền vững ?” của M. Badaruddin; “ DLST ở Australia-Sự kết nối của năng suất
xanh” của Tsung –Weilai; “DLST ở Indonesia” của Ricardo Manurung; “ DLST ở
Philippines” của A.M. Alejandriino. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu nêu
trên, tôi nhận thấy chưa có tài liệu nào trên đây đề cập đến nội dung đề tài mà mình
đang nghiên cứu, thêm vào đó những lý luận mà các tài liệu đã nêu ra chỉ là bước đầu
mang tính khái quát, chưa đề cập được những đặc trưng về các loại hình DLST
chuyên sâu về biển và hải đảo trên địa bàn vùng duyên hải Việt Nam. Nhìn chung
qua các công trình nghiên cứu ở trong nước về DLST trong thời gian qua, tác giả đề
tài có một số nhận xét như sau:
7
* Ƣu điểm: Nhiều công trình nghiên cứu khá công phu về lý luận, có sự tiếp cận của
các thành tựu về lý luận lẫn thực tiển nghiên cứu DLST của các nước Asean và trên
thế giới; bước đầu đã thống kê khá bài bản các nguồn tài nguyên DLST thiên nhiên và
nhân văn trên phạm vi quốc gia hoặc vùng lớn, định hướng được những nội dung khai
thác DLST trên một số khu vực đặc trưng, các VQG và các khu bảo tồn thiên nhiên ở
nước ta.
* Tồn tại: Các công trình nghiên cứu còn thiên về lý luận, chỉ dừng lại mức độ
nghiên cứu tổng quát, hàn lâm chưa có nhiều nội dung sáng tạo thể hiện dựa trên đặc
thù DLST của Việt Nam; chưa đi sâu vào nghiên cứu các vùng miền và các tỉnh có
tiềm năng phát triển DLST; số lượng nghiên cứu còn ít, đặc biệt nội dung phát triển
DLST văn hóa, DLST cộng đồng; nghiên cứu và đề xuất về sản phẩm DLST còn rất sơ
sài, nghèo nàn, chỉ tập hợp những sản phẩm đã có sẳn và lại trùng lập trên nhiều tour,
tuyến du lịch chung của cả nước; khi đề cập đến các tuyến điểm DLST đang khai thác
về DLST biển, hầu hết chỉ nói chung đến các hoạt động khai thác DLST tuyến bờ và
mép nước (nghỉ dưỡng, tắm biển, ) còn tuyến trên và dưới mặt nước ít được đề cập,
đặc biệt nội dung DLST biển và đảo chưa thấy đề cập đến; nghiên cứu về DLST chỉ
nghiên cứu tổng thể chung cho Việt Nam, cho các VQG, khu bảo tồn, đặc biệt không
có tài liệu nào nghiên cứu về DLST cho vùng duyên hải cực Nam Trung bộ, là vùng
DLST biển đặc thù nhất, đa dạng các tài nguyên DLST ở miền Trung, đang là điểm
đến mới nổi về DLST được du khách biết tiếng.
b- Tính mới của đề tài nghiên cứu:
Về lý luận:
- Thứ nhất: tác giả đã bổ sung và đưa ra khái niệm DLST có tính toàn diện hơn, nêu
bật được những đặc điểm chính của DLST.
- Thứ hai: kết hợp các nội dung chung về phát triển DLBV ở vùng biển, tác giả đã
vận dụng tổng hợp xây dựng thành chuyên mục phát triển DLST bền vững ở vùng bờ
biển và hải đảo. Qua đó tác giả đã bổ sung khái niệm về DLST biển đảo, trong đó đề
cập chi tiết và sâu hơn các loại hình DLST đang khai thác trên bờ, trên mặt biển, dưới
đáy biển và trên các hải đảo xa bờ giàu tài nguyên DLST.
8
- Thứ ba: tác giả đã nghiên cứu vận dụng lý thuyết về địa lý kinh tế du lịch để hoạch
định phân vùng tài nguyên, quy hoạch tổ chức không gian DLST theo địa giới lãnh thổ
vùng DHCNTB (tức là địa bàn tỉnh Thuận Hải trước đây).
-Thứ tư: trong vận dụng các mô hình tính toán lý thuyết, tác giả mạnh dạn đề xuất áp
dụng mô hình kinh tế lượng phi tuyến Holt-Winter với dữ liệu chuỗi thời gian (Time
series) cho dự báo khách DL đến trên địa bàn một vùng lãnh thổ.
Điểm mới về thực tiễn và khả năng ứng dụng của luận án:
-Thứ nhất: sự chia cắt theo địa giới hành chính tỉnh, huyện, cùng với phương thức
quản lý có xu hướng “khép và đóng” đã làm cho các nhà quản lý du lịch ở địa phương
không thấy hết được những mối liên hệ nội tại vốn có về các khía cạnh kinh tế-xã hội,
về sự nối kết do truyền thống lịch sử, tính chất thúc đẩy khai thác tài nguyên liên
vùng,… Luận án đã phân tích đứng trên bình diện vùng lãnh thổ thống nhất, xuyên
suốt với nguyên tắc hướng đến tối ưu trong gắn kết khai thác tài nguyên DLST, tận
dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để xây dựng mối liên hệ phát triển DLST bền
vững.
-Thứ hai: lần đầu tiên một luận án với đề tài phát triển DLST trên một vùng duyên hải
giàu tiềm năng DLST được xây dựng. Ngoài những yếu tố được đề cập về nội dung về
khái niệm mang tính học thuật, phân tích thực trạng, nội dung kinh doanh DL,…Tác
giả luận án còn hướng đến ứng dụng về lĩnh vực địa lý kinh tế du lịch trong việc đi sâu
phân định, tổ chức không gian, lãnh thổ DLST để thiết kế phân khu chức năng hoạt
động và phân vùng tài nguyên DLST. Từ đó đã đề xuất xây dựng trên 30 tour, tuyến,
điểm DLST liên vùng cụ thể, xuyên suốt tạo nên một mạng lưới hoạt động DLST hợp
lý.
-Thứ ba: định hướng phát triển du lịch sinh thái của vùng DHCNTB giai đoạn 2008-
2020. Trên các cơ sở tính toán và phân tích, tác giả đã đề xuất các giải pháp thực hiện
nhiệm vụ phát triển, các khung kế hoạch hành động ngắn hạn cho các thời kỳ 2012-
2015, và 2016-2020.
-Thứ tư: qua việc phân tích và đánh giá thực trạng về tài nguyên du lịch, về tổ chức
quản lý hoạt động DLST của vùng DHCNTB, tác giả phát hiện việc quản lý theo địa
9
giới hành chính hiện nay đã làm “đứt mạch” Các dòng giao lưu hoạt động văn hóa
Chăm vốn có trên giải đất Ninh Thuận – Bình Thuận trước đây là lãnh địa có tên
“Panduranga” của các vương triều Chăm Pa, là cơ sở để phát triển loại hình du lịch
sinh thái văn hóa Chăm đặc sắc của vùng DHCNTB. Từ đó tác giả ngoài việc đề xuất
các tour DLST chung, đã đề xuất tổ chức xây dựng các tour DLST chuyên đề mới đặc
thù, phù hợp với thực tiễn (trong mỗi tour đều được nêu rõ chi tiết về kết nối địa điểm,
cách thức tổ chức khai thác theo các loại hình DLST đặc thù, thời gian phù hợp để tổ
chức,…) đó là:
+ Chủ đề du lịch văn hoá bản địa:
“Con đường di sản văn hoá Chăm miền Panduranga-2 tỉnh một điểm đến”.
+ Chủ đề thiên nhiên biển:
“Du lịch về với thiên đường mây trắng- biển xanh–nắng vàng-cát đỏ”
+ Chủ đề thiên nhiên hoang dã:
“Du lịch lên rừng xuống biển khám phá các VQG và KBTTN vùng DHCNTB”
8/ Kết cấu Luận án:
Luận án được xây dựng có 161 trang với 24 bảng, 31 sơ đồ, biểu đồ và 4 bản đồ.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án kết cấu gồm 3 chương :
- Chương 1: Cơ sở khoa học về phát triển du lịch sinh thái: nêu bật những khái
niệm tổng quan trọng và ngoài nước về DLST, các nguyên tắc, mục tiêu và điều
kiện để phát triển DLST nói chung và biển đảo nói riêng, phần bổ sung lý luận
DLST của tác giả, những khái niệm về sản phẩm du lịch và DLST, khái niệm về
tài nguyên DLST, những kinh nghiệm của các nước Asean về phát triển DLST
làm bài học thực tiễn cho Việt Nam và vùng DHCNTB.
- Chương 2: Thực trạng phát triển du lich sinh thái ở vùng duyên hải cực Nam
Trung bộ: phân tích hiện trạng các hoạt động du lịch và DLST đang diễn ra tại hai
tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận trong thời kỳ 1995-2010, phân tích đánh giá về
tài nguyên DLST, dựa vào tài liệu khảo sát của tác giả đã tiến hành để đi sâu phân
tích đặc điểm và hành vi của khách DLST đến vùng DHCNTB, phần cuối tác giả
10
đi sâu phân tích những thành công cũng như những thất bại của thực trạng nêu
trên đồng thời đúc kết các nội dung qua phân tích SWOT cho toàn vùng.
- Chương 3: Định hướng chiến lược và một số giải pháp phát triển du lịch sinh
thái vùng duyên hải cực Nam Trung bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030:
nội dung chính đề cập đến những quan điểm phát triển DL và DLST của cả nước,
của vùng và của 2 Tỉnh, các quan điểm - định hướng-mục tiêu phát triển của tác
giả, các cơ sở kinh tế-xã hội cho việc đề xuất các giải pháp. Dự báo các chỉ tiêu
kinh tế du lịch của vùng, cuối cùng là các nhóm giải pháp đồng bộ cho chiến lược
phát triển gắn với khung kế hoạch hành động cụ thể của vùng về phát triển DLST
cho từng thời kỳ.
11
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
1.1 Khái niệm về du lịch bền vững và du lịch sinh thái:
Trong thập kỷ qua, ngành du lịch đạt được những thành tựu to lớn, tăng trưởng
khoảng 25%. Hiện tại du lịch chiếm 10% hoạt động kinh tế thế giới, du lịch đã góp
phần trong việc tạo ra thu nhập, nguồn ngoại tệ và việc làm, trở thành một ngành kinh
tế mũi nhọn tại nhiều nước [88, 23].
Bên cạnh mặt tích cực đạt được, du lịch đại chúng cũng tạo ra những thách thức
và rủi ro to lớn, nếu không được kiểm soát và định hướng phát triển theo lộ trình bền
vững và khoa học thì hậu quả mang đến sẽ không lường được.
Phát triển du lịch bền vững (DLBV) là xu hướng tất yếu của thời đại ngày nay. Vì
phát triển DLBV được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp của ba yếu
tố tương tác lớn là tự nhiên, kinh tế và môi trường.
1.1.1 Khái niệm về du lịch bền vững:
Theo Hội đồng Du lịch Lữ hành Thế giới (WTTC) và Tổ chức Du lịch Thế giới
(UNWTO): “Du lịch bền vững là loại hình du lịch đáp ứng được nhu cầu hiện tại
của du khách và của những điểm đến mà vẫn bảo đảm và cải thiện nguồn lực cho
tương lai. Du lịch bền vững dẫn tới một phương thức quản lý tất cả các nguồn lực
sao cho thỏa mãn nhu cầu kinh tế, xã hội, thẫm mỹ và vẫn giữ gìn được sự trọn vẹn
của văn hóa và môi trường sống”[11,25].
1.1.2 Khái niệm DLST:
DLST được quan niệm là một loại hình du lịch bền vững gắn với môi trường thiên
nhiên. Các khái niệm phổ biến về DLST mà các nhà nghiên cứu về du lịch đã đưa ra
và được đa số các diễn đàn quốc tế về DLST thừa nhận như:
Ban đầu, có một khái niệm DLST tương đối đầy đủ bao hàm cả du lịch thiên nhiên
lẫn du lịch văn hóa, do nhà bảo vệ môi trường người Mêhicô Hector Ceballos-
Lascurain đưa ra: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị
thay đổi với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan vớí ý thức trân trọng thế
giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [23,33]
12
Năm 1993 Allen đưa ra một định nghĩa đề cập sâu sát đến lĩnh vực họat động trách
nhiệm của du khách, đó là: “DLST được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên
khác về mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh thái, thông qua những hướng
dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. DLST tạo ra mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên hoang dã đã cùng với ý thức giáo dục để biến bản thân khách du lịch thành
những người đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường. Phát triển DLST sẽ làm giảm
thiểu tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường đảm bảo cho địa phương
được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp
tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên” [23,10]
Đối với các tổ chức quốc tế, định nghĩa về DLST do Hiệp hội du lịch sinh thái quốc
tế (TIES) đưa ra hiện được sử dụng khá phổ biến như sau:
“Du lịch sinh thái là việc đi lại của có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà
bảo tồn được môi trường và cải thiện được phúc lợi cho người dân địa phương” [10,31]
Sơ đồ 1.1: Sự tiếp cận của phát triển bền vững là nền tảng của DLST (UNWTO, 2009)
1.1.3 Một số định nghĩa về DLST ở Việt Nam:
Luật Du lịch Việt Nam 2005, định nghĩa về DLST: “là hình thức du lịch dựa vào
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm
phát triển bền vững” [27,23]
Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra một định nghĩa tương tự về DLST:
“ DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục
môi trường có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích
cực của cộng đồng địa phương” [25, 35]
13
Sơ đồ 1.2: DLST là một khái niệm của phát triển bền vững (UNWTO, 2009)
Hay một dạng mở rộng khác của DLST về văn hóa bản địa: “Du lịch văn hóa là hình
thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhắm bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [10,20]
“DLST là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi
trường, có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại
các lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn”
[10,21]
“DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng
để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những
cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ,
hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia
cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường và tài nguyên thiên
nhiên một cách bền vững” [23,25]
Nhìn chung các khái niệm về DLST đang sử dụng tại Việt Nam đều có sự thống
nhất trên quan điểm về nội dung đề cập là: thiên nhiên, bản sắc văn hóa, trách nhiệm
và lợi ích của cộng đồng, và phát triển bền vững, tuy nhiên còn đề cập chung chung và
chưa toàn diện.
1.1.4 Một số đề xuất bổ sung của tác giả luận án về lý luận DLST:
+ Về khái niệm DLST chung:
“DLST là dạng du lịch thay thế tích cực (alternative) của du lịch đại chúng (mass
tourism), đây là loại hình du lịch chú trọng đến việc phát triển tình cảm và trách
14
nhiệm của người tham gia đối với vẻ đẹp thiên nhiên hoặc giá trị văn hóa bản địa.
Gắn hoạt động với giáo dục môi trường tự nhiên-xã hội để nâng cao hiểu biết cho du
khách về thiên nhiên-sinh thái, về các giá trị lịch sử-văn hóa truyền thống của điểm
đến. Từ đó đề cao trách nhiệm của người tham gia và góp phần bảo vệ và phát triển
nguồn tài nguyên thiên - tài nguyên nhân văn và lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa
phương một cách bền vững”[11,10].
+ Bổ sung của tác giả về khái niệm DLST liên quan đến vùng DHCNTB:
*Khái niệm DLST biển-đảo: là một loại hình DLST cụ thể, dựa vào môi trường
biển, bờ và hải đảo, có trách nhiệm hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn môi trường thiên
nhiên, các giá trị văn hóa của cộng đồng cư dân đang sinh sống ở vùng duyên hải và
hải đảo. DLST biển- đảo chú trọng đề cao sự tham gia tích cực của người dân địa
phương vào việc hoạch định quản lý và khai thác một cách có hiệu quả các nguồn tài
nguyên du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát triển bền vữn, tạo điều kiện mang lại lợi ích
kinh tế - xã hội cho toàn cộng đồng.
DLST biển-đảo có thể chia làm 3 khu vực không gian hoạt động cơ bản: khu vực bờ
và mép nước; khu vực mặt nước và hải đảo; khu vực dưới mặt nước và đáy biển.
Khu vực bờ và mép nước: phân bố không gian từ mép nước trở vào là nơi thiết
lập các cơ sở hạ tầng dịch vụ cho toàn hoạt động DLST biển-đảo (xây dựng
các khu nghỉ dưỡng sinh thái, resort, khách sạn, các băng rừng cây xanh tạo
sinh cảnh và chắn gió cát, đường sá, bến cảng, nhà hang,…). Các loại hình
khai thác tổng hợp bao gồm: du lịch khám phá đồi cát di động và rừng Savan,
tham gia nghỉ dưỡng biển, tham gia các hoạt động thể thao biển và giải trí trên
bờ, kết hợp tham gia các loại hình DLST văn hóa với cộng đồng ngư dân sống
ven biển (lễ hội Cầu Ngư, lễ hội Nghinh Ông Nam Hải, lễ tế tại các vạn chài,
homestay ở các làng chài ven biển và các làng chài nông ngư kết hợp…)
Khu vực mặt nước và hải đảo: đây là vùng có không gian địa lý rộng lớn, toàn
bộ mặt biển và các hải đảo. Đối với khu vực mặt nước có thể tổ chức khai thác
các loại hình: thưởng ngoạn, câu cá bằng du thuyền; tham gia đánh bắt hải đặc
sản trên biển cùng với ngư dân, đua thuyền vượt đại dương, các môn thể thao
15
mạo hiểm trên biển, Đối với các hải đảo, đặc biệt với những đảo lớn có cư
dân hình thành lâu đời với các làng cá, vạn chài thì khai thác các loại hình
DLST tự nhiên và văn hóa như ở đất liền. Đối với các đảo hoang, cảnh quan
thiên nhiên hoang sơ và đẹp có thể tổ chức tham quan cảnh đẹp, khám phá,
cắm trại, câu cá, lặn biển, du lịch mạo hiểm,
Khu vực dưới mặt nước và đáy biển: để có thể tiếp cận đối tượng, đòi hỏi phải
có thiết bị chuyên dụng, hiện nay chỉ mới khai thác có mức độ, các loại hình
khai thác phổ biến gồm: lặn khảo sát khám phá, nghiên cứu khoa học, xem săn
bắt hải sản ở các rạn đá san hô, hang động biển, lặn khám phá các quần thể san
hô, cá,
+ Những nét mới theo nhận định của tác giả:
- Dựa trên chu trình biện chứng phát triển: nêu rõ khái niệm DLST là loại hình du
lịch thay thế với yếu tố tích cực hơn du lịch đại chúng đang bộc lộ nhiều mâu thuẩn
trong việc khai thác-phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên.
- Mở rộng đối tượng tham gia trong hoạt động DLST không những chỉ những du
khách mà còn đề cập đến những người tham gia tổ chức hoạt động du lịch sinh thái
(sketholders)
- Nêu rõ những du khách DLST là những người thực sự có tình cảm và trách nhiệm
với môi trường thiên nhiên, và họ có tình cảm thực đối với vẻ đẹp của thiên nhiên
cũng như tích cực đề cao giá trị của văn hóa bản địa.
- Khẳng định tính bền vững không những về mặt bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên
mà còn bảo tồn và phát triển một cách bền vững những giá trị văn hóa bản địa, cân
bằng về nguồn thu nhập cho người dân địa phương.
- Tác giả đã tổng hợp đưa ra khái niệm DLST đặc thù cho vùng biển và các hải đảo
với sự phân tích và tổ chức phân bổ hoạt động DLST cụ thể, theo trình tự có hệ thống
không gian địa lý liên quan: Du lịch sinh thái biển-đảo.
1.1.5 Tổ chức lãnh thổ DL- DLST:
Khái niệm: tổ chức lãnh thổ du lịch nói chung là sự phân vùng quy hoạch không gian
của du lịch căn cứ trên các điều kiện tài nguyên du lịch, hiện trạng các cơ sở hạ tầng,
16
cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động ngành cùng các mối liên hệ với điều kiện phát sinh
của ngành với các ngành khác, với các địa phương [22,45]
Tổ chức lãnh thổ DLST là môt bộ phận không thể tách rời của du lịch, trong DLST
việc tổ chức phân vùng tổ chức lãnh thổ được tổ chức chuyên môn hóa và chú trọng
nhiều hơn đến đặc điểm phân bố các tài nguyên DLST, đến lợi ích thụ hưởng của cộng
đồng, đến sự bảo tồn và phát triển tài nguyên này để đạt mục tiêu phát triển DLBV.
1.2 Những nguyên tắc và điều kiện cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
1.2.1 Những nguyên tắc của DLST bền vững:
Các cơ sở nền tảng ban đầu làm kim chỉ nam cho hoạt động DLST bao gồm:
- Nghiên cứu và bảo tồn các giá trị thiên nhiên, giá trị văn hóa.
- Tăng cường nội dung giáo dục môi trường.
- Tổ chức đồng bộ và chuyên nghiệp về nghiệp vụ du lịch và lữ hành nhằm
giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường.
- Hướng mọi khả năng đến việc góp phần bảo vệ môi trường.
Từ đó DLST khi hướng đến mục tiêu bền vững đã xây dựng các nguyên tắc cơ bản sau
đây:
a. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên một cách bền vững: bao gồm tài nguyên tự
nhiên, tài nguyên nhân văn. Cân đối hài hòa trong việc sử dụng một cách bền
vững nguồn tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất của việc phát triển DLST .
b. Bảo tồn tính đa dạng về tự nhiên, văn hóa,… (chủng loài các hệ động thực vật,
bản sắc văn hóa dân tộc,…) vì DLST lấy bảo tồn là tiêu chí hàng đầu trong
hoạt động, khai thác du lịch chỉ là hoạt động thứ yếu.
c. Thúc đẩy chương trình giáo dục và huấn luyện để cải thiện, quản lý di sản và
các loại tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả. Tác động giảm thiểu mức
tiêu thụ tài nguyên hiện có, giảm thiểu lượng chất thải một cách triệt để nhằm
nâng cao chất lượng môi trường.
d. Trong quá trình khai thác họat động DLST, cần phối hợp mục tiêu hỗ trợ phát
triển kinh tế địa phương, vì trách nhiệm của DLST là đóng góp vào phúc lợi
17
của cộng đồng địa phương như là một sự đầu tư gián tiếp cho bảo tồn, góp
phần tạo tính tương tác bền vững cho hoạt động DLST từ địa bàn sở tại.
e. Phối hợp lồng ghép hài hòa giữa chiến lược phát triển du lịch của địa phương,
vùng và của quốc gia.
f. Tạo điều kiện thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương.Với sự tham gia
tích cực của cộng đồng sở tại không chỉ đem lại lợi ích cho riêng cộng đồng,
cho môi trường sinh thái mà còn góp phần tăng cường khả năng đáp ứng tính
đa dạng sản phẩm của DLST.
g. Triển khai các họat động tư vấn các nhóm lợi ích và công chúng. Tư vấn giữa
công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan nhằm
đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy
sinh.
h. Marketing du lịch một cách trung thực và có trách nhiệm. Phải cung cấp cho
du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn
trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa khu du lịch,
qua đó góp phần thỏa mãn nhu cầu của du khách.
i. Tổ chức đào tạo các thành viên quản lý, chuyên nghiệp hóa các nhân viên
phục vụ trong họat động kinh doanh du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch. [10,34]
1.2.2 Các điều kiện cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
Xuất phát từ nguyên tắc và mục tiêu của DLST, có thể tổng quát hóa các điều kiện
để phát triển DLST theo năm nội dung cơ bản sau đây:
- Điều kiện thứ nhất: để có thể tổ chức tốt được loại hình DLST tại một điểm đến điều
kiện trước tiên là ở đó phải tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa
dạng sinh học cao, có sức hấp dẫn du khách. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng
sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu khu vực và các động thực vật bao gồm: Sinh thái
tự nhiên (Natural Ecology); Sinh thái động vật (Animal Ecology); Sinh thái thực vật
(Plant Ecology); Sinh thái nông nghiệp điển hình (Agricultural Ecology); Sinh thái khí
hậu (Ecoclimate); Sinh thái nhân văn (Human Ecology) [10,32]
18
Các yếu tố sinh thái đặc thù nêu trên góp phần nêu bật tính chất DLST là loại hình
du lịch dựa vào thiên nhiên. Tuy nhiên ngày nay DLST cũng còn phát triển hoạt động
dưới nhiều loại hình khác như: du lịch sinh thái vùng nông thôn (Rural tourism), du
lịch trang trại điển hình (Farm tourism), DLST văn hóa (Cultural Ecotourism).
- Điều kiện thứ hai: nói lên tính chất quản lý tổ chức của con người nghĩa là:
+ Đòi hỏi tính chuyên nghiệp của nhân viên tác nghiệp trong hoạt động DLST. Vì
để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người
hướng dẫn viên du lịch ngoài khả năng về ngôn ngữ truyền đạt, còn là người có am
hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hóa cộng đồng sở tại. Yếu tố này rất quan
trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến đến hiệu quả của hoạt động DLST. Trong nhiều
trường hợp, cần thiết phải có sự cộng tác của người địa phương để có những hiểu biết
tốt nhất truyền đạt đến cho du khách.
+ Đòi hỏi người quản lý điều hành phải có nguyên tắc cụ thể. Trước đây các nhà
điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có bất kỳ
cam kết nào cho việc bảo tồn hoặc quản lý các khu thiên nhiên, họ chỉ đơn giản là tạo
cho du khách cơ hội để nhận biết những giá trị tự nhiên và văn hóa mặc cho sau này
những giá trị này suy giảm hay vĩnh viễn biến mất. Ngược lại các nhà điều hành và
quản lý DLST luôn có sự cộng tác chặt chẽ giữa với các nhà quản lý của những khu
bảo tồn thiên nhiên và cả cộng đồng địa phương để thiết lập những nguyên tác quản lý
với mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn
hóa bản địa, cải thiện cuộc sống và nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa
phương và khách du lịch.
- Điều kiện thứ ba: mục đích hạn chế đến mức tối đa các tác động có thể có do hoạt
động DLST gây ra cho tự nhiên và môi trường, do đó DLST phải tính đến điều kiện
“sức chứa” hoặc “sức tải”. Khái niệm sức chứa được hiểu ở 4 khía cạnh: vật lý, sinh
học, tâm lý học và xã hội học. Sức chứa về khía cạnh vật lý được hiểu là lượng khách
tối đa mà điểm đến DLST có thể tiếp nhận, điều này liên quan đến những tiêu chuẩn
tối thiểu về không gian đối với mỗi du khách cũng như đối với nhu cầu sinh hoạt của
họ. Công thức chung để xác định sức chứa của một điểm du lịch như sau:
19
AR
CPI =
a
Trong đó: CPI: sức chứa thường xuyên (Instantaneous carrying capacity)
AR: Diện tích của khu vực du lịch (Size of Area )
a: Tiêu chuẩn không gian tối thiểu cho một du khách.[30,24]
Hoặc công thức liên quan đến sức chứa hàng ngày:
CPD = CPI x TR =
a
TR
Trong đó: CPD: Sức chứa hằng ngày (Daily Capacity)
TR: Công suất sử dụng mỗi ngày (Turnover rate of users per day)
- Điều kiện thứ tư: thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của khách DLST. Việc thỏa
mãn những mong muốn của khách DLST với những kinh nghiệm, hiểu biết mới về tự
nhiên, văn hóa bản địa là một công việc rất phức tạp nhưng nó lại là yêu cầu thực sự
cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của DLST. Vì vậy những dịch vụ để làm hài lòng du
khách phải là ưu tiên hàng đầu chỉ đứng sau công tác bảo tồn những giá trị sinh thái tự
nhiên và giá trị xã hội.
- Điều kiện thứ năm: vì khách DLST luôn có nhu cầu và tư duy cao trong việc
thưởng ngoạn, đã biến loại hình du lịch này thành loại du lịch trí thức, tư duy tiên tiến.
Do đó phải xây dựng mẫu khách du lịch sinh thái điển hình, họ là những du khách
quan tâm thực sự đến giá trị tự nhiên và nhân văn ở khu vực thiên nhiên hoang dã.
1.3 Phát triển DLST bền vững ở vùng bờ biển-hải đảo:
1.3.1 Khái niệm không gian DLST vùng bờ-hải đảo: có rất nhiều cách xác định
vùng DLST bờ biển hoặc hải đảo (Coastal-Island Zones) dựa trên quan điểm thủy - địa
động lực, hải dương, địa sinh thái, quản lý phát triển, nhu cầu của du khách…Phát
triển DLST vùng biển đảo chú trọng đến không gian hẹp trong phạm vi tương tác biển-
đảo, bờ và đại dương mà tại đó có các tài nguyên DLST thu hút du khách. Cụ thể đó
thường là vùng bờ biển cát có bãi tắm, các vách biển, vách núi trên các bờ hải đảo, các
vùng san hô ngầm, ven đảo và các dải đất hẹp ven biển dùng để phát triển cơ sở hạ
tầng du lịch, rừng ngập mặn, ám tiêu san hô, vùng vịnh, đầm phá, cửa sông, cồn cát,
20
các ngư trường gần bờ dùng cho phát triển du lịch câu cá, lặn khám phá…[Pearce và
Kirk,1986]
1.3.2 Các giai đoạn phát triển của DLST ven biển và hải đảo:
Theo Dobias (1989), trên cơ sở nghiên cứu các khu DL, DLST biển và đảo ở khu
vực Đông Nam Á đã đưa ra mô hình 5 giai đoạn của chu trình phát triển các khu du
lịch biển bờ và hải đảo như sau:
- Giai đoạn lều trại (bulgalow): các lều trại nhỏ được người dân điạ phương xây dựng
tạm thời nhằm thu hút chủ yếu khách du lịch nội địa và một ít khách DLST “ba lô” ít
tiền. thời kỳ này do hiểu biết về môi trường còn thấp nên đa phần lều trại đều xây
dựng ngay trên bãi biển và bờ đảo, hầu như không có hệ thống thu gom chất thải, nước
thải hầu như không được xử lý, tuy vậy tác động xấu đến môi trường còn vẫn không
đáng kể vì mức mức độ phát triển còn thấp (điển hình như ở Hòn Rơm-Mũi Né vào
năm 1995, và Vĩnh Hy năm 2005)
- Giai đoạn nâng cấp hình thành cơ sở nhỏ: người địa phương nâng cấp các lều trại của
họ trên bãi biển để đáp ứng nhu cầu của du khách, người bên ngoài bắt đầu mua đất để
kinh doanh DLST biển. Đường sá và điều kiện cơ sở hạ tầng bắt đầu được cải thiện,
tiện nghi lưu trú bắt đầu được nâng cao, thút nhiều đồi tượng du khách giàu có hơn.
Tác động xấu đến môi trường giai đoạn này vẫn chưa gia tăng. (như Hàm Tiến-Mũi
Né vào năm 2001).
- Giai đoạn phát triển các resort, khách sạn sang trọng, các khu DLST biển đảo tiện
nghi: giai đoạn này ngày càng có nhiều nhà đầu tư bên ngoài mua đất và bất động sản
của người địa phương để kinh doanh DL-DLST, các tài nguyên DLST ven bờ và vùng
hải đảo được quan tâm khai thác như các vùng sinh thái ven biển, các rạn san hô, vùng
ngư trường gần bờ. Hiện tượng gia tăng giá cả tại chỗ cùng với gia tăng lợi nhuận du
lịch. Bắt đầu xuất hiện suy thoái môi trường (Mũi Né từ năm 2005, đảo Cù lao Câu
2009)
- Giai đoạn phát triển mạnh khó kiểm soát: đa phần các cơ sở khách sạn, resort, khu
du DLST là do người bên ngoài sở hữu, họ đẩy mạnh khai thác. DL-DLST phát triển
21
mạnh vượt tầm kiểm soát của địa phương, suy thoái mô trường diễn ra nghiêm trọng.
(Hòn Rơm –Mũi Né, Đồi Dương –Phan Thiết 2009)
- Giai đoạn suy thoái trầm trọng: suy thoái trầm trọng môi trường và tài nguyên dẫn
đến các quy chế kiểm soát môi trường chặt chẽ hơn. Nhiều hành động kiểm soát
nghiêm ngặt được tiến hành nhằm kiểm soát tình trạng suy thoái (Mũi Né 2011, Vĩnh
Hy 2012, Tuy Phong 2011).
1.3.3 Tác động môi trƣờng của DLST ven biển:
Hoạt động DLST mặc dù cốt lõi là dựa vào thiên nhiên nhưng cũng gây nên những
tác động đến các phân hệ tự nhiên, kinh tế xã hội. Tuy nhiên tác động lên phân hệ tự
nhiên thường dễ phát hiện hơn lên các phân hệ còn lại. Các tác động ngắn hạn thường
liên quan đến các giai đoạn phát triển của điểm DLST, gồm các hoạt động san ủi mặt
bằng và xây dựng, lập cầu cảng ngăn dòng chảy biển, cải tạo cảnh quan…Các tác động
dài hạn liên quan đến hoạt động của điểm DLST như biến đổi sử dụng đất,xả thải, hoạt
động của du khách, chỗ làm việc, suy thoái cảnh quan, xâm hại đa dạng sinh
học…Hoạt động DLST thường rất mâu thuẫn với hoạt động kinh tế địa phương vì cả
hai đều sử dụng chung không gian môi trường nhưng phương hướng khách nhau.
1.3.4 Quy hoạch phát triển bền vững cho DLST biển đảo:
Theo Odum (1976) chia vùng bờ biển- hải đảo thành 3 đới chính: đới dành cho phát
triển DL-DLST; đới vùng đệm hạn chế phát triển; đới phải bảo tồn nghiêm ngặt. Trong
quy hoạch DLST biển đảo khả năng tải được hiểu là cường độ sử dụng tối đa môi
trường và tài nguyên nhưng không làm suy thoái. Theo Pearce và Kirk (1986) đề xuất
khả năng tải thich hợp cho các đới DLST biển đảo gồm:
Bảng 1.1 : Các loại khả năng tải ưu tiên của các đới DLST ven biển
Không gian
DLST
Môi trƣờng vùng bờ và hải đảo
Khả năng tải ƣu tiên
Đới dịch vụ và
tiện nghi DLST
Vùng đất phía trong bờ và đảo
Khả năng tải kinh tế
Đới đệm
Cồn cát và các đồi đá ven đảo
Khả năng tải sinh thái
22
Đới hoạt động
nghỉ dưỡng
………………………………………
………………
Biển
Khả năng tải xã hội
Khả năng tải sinh thái
(Nguồn: Pearce và Kirk, 1986)
Một số tiêu chuẩn quy hoạch DLST được áp dụng ở một số nước Đông Nam Á và lân
cận:
Ở Indonesia (Bali): kể từ mép nước trở vào 100m không được xây dựng bất cứ
công trình nào; nhà không cao quá 15m; mật độ phòng nghỉ không quá 85/1ha;
mật độ cây xanh trong khu du lịch phải từ 45% tổng diện tích, các khu DLST,
các resort , khách sạn tối thiểu cách nhau 30m.
Ở ThaiLand (Phukhet): mật độ phòng tối đa 32,5 phòng/ 1 ha; nhà không quá
4 lầu; diện tích xây dựng không quá 10% diện tích mặt bằng; các khu DL-
DLST, khách sạn nhà hàng phải có công trình xử lý nước và rác…
Ở Mandives: cứ hai đảo nhỏ mới được xây dựng một khu DL hoặc DLST; các
công ty du lịch có trách nhiệm xử lý toàn bộ chất thải của họ; khu DLST nhỏ
hơn 20% diện tích của đảo; nhà xây không quá 2 lầu và phải bị che khuất bởi
cây xanh (không cao quá ngọn cây); dọc bờ biển đảo phải ưu tiên để trống
12% chiều dài, 20% dành cho tiện nghi du lịch chung; mỗi điểm DLST không
đón quá 200 du khách.
Như vậy tổng hợp lại, để phát triển DLST bền vững vùng bờ biển và hải đảo, cần
được lồng ghép vào chiến lược quản lý tổng hợp vùng bờ và hải đảo của địa phương.
Quy hoạch DLST bền vững cần bao gồm những quy chế quản lý và kiểm soát chất
thải, chống xói mòn bờ bãi, duy trì bãi, bảo vệ rạn san hô và các hệ sinh thái nhạy cảm
khác cũng như các khu vực thích hợp cho phát triển DLST. Chính quyền địa phương
và cộng đồng cần tham gia vào việc hoạch định và thi hành quy hoạch DLST để giảm
xáo trộn về văn hóa - xã hội. Cần xây dựng các quy chế công nhận nhãn xanh, nhãn
sinh thái trong quy hoạch.
1.4 Tính tất yếu về sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động DLST:
23
Sự trải nghiệm của du khách tại điểm đến nhìn chung thường chịu ảnh hưởng của
thái độ của người dân địa phương đối với hoạt động DLST và khách du lịch. Sự tiếp
xúc ngắn ngủi giữa du khách và người dân bản địa có thể góp phần làm cho trải
nghiệm DLST trở nên hoàn hảo hoặc ngược lại. Sự tham gia của cộng đồng là một
trong những đặc điểm quan trọng nhất trong quá trình phát triển DLST. Điều này được
xem là thách thức và cũng là cơ hội lớn cho cả cộng đồng địa phương và các bên tham
gia. Do đó, cần xây dựng những định hướng phát triển phù hợp cùng với những hành
động kịp thời nhằm nâng cao năng lực của cộng đồng địa phương và thúc đẩy sự tham
gia của họ vào phát triển DLST [72,45]
* Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động DLST rất cần thiết là vì:
- Cộng đồng địa phương chính là người đầu tiên tiếp xúc khai thác sử dụng và có kinh
nghiệm quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa ở địa phương qua nhiều
thế hệ. Do đó, nếu họ nhận được những lợi ích thiết thực từ việc tham gia trong hoạt
động DLST thì có thể họ sẽ cam kết mạnh mẽ hơn nữa đối với quản lý bền vững các
nguồn tài nguyên này.
- Nếu cộng đồng địa phương được tham gia vào phát triển DLST thì họ sẽ càng có
thiện cảm với hoạt động DLST và những kết quả đạt được từ hoạt động này cũng sẽ
cao hơn.
- Kinh nghiệm và những hiểu biết về các nguồn tài nguyên bản địa của người dân địa
phương sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm DLST.
- Cộng đồng địa phương là những người trực tiếp tiếp xúc với du khách hàng ngày, do
đó nếu người dân có thái độ tích cực với đối với hoạt động DLST thông qua việc cùng
tham gia, hưởng lợi và cùng quyết định thì điều này sẽ mang lại những nguồn lợi đáng
kể cho chính họ, cũng như thỏa mãn được nhu cầu du khách.
1.5 Tài nguyên du lịch sinh thái:
1.5.1 Khái niệm tài nguyên DLST: tài nguyên DLST là một khái niệm rất rộng bao
gồm các yếu tố cơ bản để tạo nên các điểm, các tuyến hoặc khu DLST; có thể bao gồm
các cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, giá trị nhân văn, các công trình do nhân
loại tạo nên có thể được sử dụng để nhằm thỏa mãn cho nhu cầu về DLST.
24
Khái niệm về tài nguyên du lịch, theo Luật Du lịch 2005: “ là cảnh quan thiên
nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử-văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con
người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du
lịch, là các yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô
thị du lịch”. [27,7]
Có hai loại tài nguyên du lịch:
- Tài nguyên du lịch thiên nhiên: bao gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo,
khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ
mục đích du lịch.
- Tài nguyên du lịch nhân văn: bao gồm các truyền thống văn hóa, các yếu tố văn
hóa, văn nghệ nhân gian, di tích lịch sử-cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công
trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể
khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.
Như vậy rõ ràng tài nguyên DLST lấy cơ sở từ nguồn tài nguyên thiên nhiên và
văn hóa – nhân văn bản địa. Tuy nhiên các giá trị tự nhiên thể hiện trong một hệ sinh
thái cụ thể nào đó và các giá trị văn hóa nhân văn bản địa tồn tại và phát triển không
tách rời khỏi hệ sinh thái tự nhiên đó. Cũng như các giá trị thiên nhiên, các giá trị văn
hóa bản địa chỉ trở thành tài nguyên DLST một khi nó được khai thác để tạo ra sản
phẩm phục vụ cho mục đích phát triển du lịch.
Nhìn chung tài nguyên DLST rất đa dạng và phong phú, thông thường người ta đưa
vào khai thác và phục vụ một số dạng tài nguyên DLST chính bao gồm:
Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù và tập trung chú ý đến những nơi có tính đa
dạng sinh học cao với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm (như ở các vườn
QG, khu Bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh quyển…)
Các hệ sinh thái nông nghiệp (vườn cây ăn trái, làng hoa, vườn trang trại…)
Các giá trị văn hóa bản địa hình thành và phát triển có sự gắn kết với sự tồn tại
của hệ sinh thái tự nhiên như các phương thức canh tác truyền thống, các lễ
hội, các sinh họat truyền thống của cộng đồng…
Các di sản văn hoá bản địa truyền thống (gồm văn hoá vật thể và phi vật thể)
25
1.5.2 Môi trƣờng và hệ sinh thái:
1.5.2.1 Khái niệm môi trƣờng:
- Môi trường: “Môi trường là tổng hợp ở một thời điểm nhất định các trạng thái
vật lý, hóa học, sinh học và các yếu tố xã hội có khả năng gây ra một tác động
trực tiếp hay gián tiếp, tức thời hay theo kỳ hạn đối với các sinh vật hay đối với
các hoạt động của con người.” [11,33]
- Định nghĩa môi trường trong Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (1993): “
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
1.5.2.2 Hệ sinh thái môi trƣờng: Hệ sinh thái môi trường (Environmental
ecosystem) là một hệ thống bao gồm các quần xã sinh vật và con người, có cùng các
điều kiện môi trường bao quanh nó với sự tương tác lẫn nhau, liên tục không ngừng
mà kết quả của sự tác động đó quyết định đến chiều hướng phát triển của quần xã và
sinh cảnh của toàn hệ. [10,57] . Các HST chủ yếu bao gồm: HST rừng nhiệt đới; HST
núi cao; HST đất ngập nước; HST sông, hồ, suối thác; HST nông nghiệp (vườn, trang
trại); HST biển, đảo; HST đồng cỏ tự nhiên. Phần lớn các HST này thường tập trung
quanh các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên nên việc khai thác các tiềm năng DLST để
phục vụ phát triển du lịch thường gắn với các khu vực này.
1.5.2.3 Đa dạng sinh học: Công ước Quốc tế về ĐDSH định nghĩa: “ĐDSH là sự
khác biệt trong mọi cơ thể sống có từ mọi nguồn, từ các HST ở đất liền, ở biển, và ở
các HST khác ở nước, và mọi tổ hợp sinh thái mà các cơ thể sống là thành phần hợp
thành; ĐDSH cũng bao gồm sự đa dạng trong loài, giữa các loài và các HST. ĐDSH
bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần của cơ thể, các
chủng quần, hay các hợp phần sinh học khác của HST, hiện đang có giá trị sử dụng
hay có tiềm năng sử dụng cho loài người”.
Nói ngắn gọn, ĐDSH là mức độ phong phú của thiên nhiên sống, là toàn bộ tài nguyên
thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất. ĐDSH có ba mức độ chính: đa
dạng di truyền; đa dạng loài; đa dạng sinh thái.