LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa
họcvà công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ
cao trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của
nó trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng
của sự phát triển trong trời đại ngày nay đang đòi hỏi con người phải bộc lộ
đầy đủ hơn nữa “ sức mạnh bản chất người ” của mình một cách hiện thực
và sinh động hơn, phong phú và đa dạng hơn, văn hoá và trí tuệ hơn với
những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng động, sáng tạo của con
người hiện đại. Do vậy, trong thời đại ngày nay, khi nói con người là nguồn
lực quan trọng nhất của sự phát triển xã hội,đặc biệt là sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Với tư cách ấy, con người đã được đặt ở
vị trí cao nhất của sự phát triển x ã hội, tiến bộ lịch sử, thế giới tinh thần của
con người được coi là tinh hoa của lịch sử văn minh,văn hoá, là giá trị của
mọi giá trị, là cội nguồn của mọi sự phát triển.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới hơn lúc nào hết chúng ta cần phải
hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con
người. Do vậy để tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
một nước đang ở trình độ thấp, kém phát triển như nước ta không thể không
xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của
người lao động, phát huy được nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương 1: Tìm hiểu chung về sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
nguồn nhân lực.
1.Khái niệm và vai trò của công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong sự vận động và
phát triển đời sống xã hội
• Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cho đến nay có nhiều cách diễn giải khác nhau về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của liên hợp quốc ( UNID) đã đưa
ra định nghĩa như sau: CNH là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này
một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kĩ thuật hiện đại. Đặc điểm
của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra
những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền
kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển
với nhịp độ ca, bảo đảm đạt đến sự tiến bộ về kinh tế, xã hội. Hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lí kinh tế xã hội theo những quy trình công nghệ, phương tiện,
phương pháp hiện đại dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kĩ thuật tạo ra
năng suất lao động có hiệu quả.
Ở nước ta, tại NQTW7 Khoá VII( tháng 1-1994) Đảng ta đã có bước đột phá
mới trong nhận thức về khái niêm CNH, HĐH như sau: “ CNH, HĐH là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
• Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự vận động và phát triển
đời sống xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu đối với mỗi quốc gia. Nước ta
từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển muốn vươn tới
trình độ phát triển cao về mọi mặt kinh tế, chính trị văn hóa, xã hội,đồng thời
nâng cao vị trí trên trường quốc tế thì CNH,HĐH có một vai trò vô cùng to lớn.
Thứ nhất: CNH,HĐH làm phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động, tăng trưởng kinh tế từ đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân
dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của CNXH. Bởi sở dĩ CNH,HĐH là cuộc
cách mạng về lực lực lượng sản xuất làm thay đổi căn bản kĩ thuật, công nghệ
sản xuất.
Thứ hai: CNH, HĐH tạo tiền đề về vật chất để không ngừng củng cố và tăng
cường vai trò kinh tế nhà nước, nâng cao năng lực tích lũy, tạo công ăn việc làm
nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của
con người- nhân tố trung tâm của của nền sản xuất xã hội. “ Để đào tạo ra
những người phát triển toàn diện cần phải có một nền kinh tế phát triển cao, một
nền khoa học phát triển hiện đại, một nền văn hóa tiên tiến, một nền giáo dục
phát triển. Muốn đạt được điều đó phải thực hiện tốt CNH, HĐH
Thứ ba: CNH. HĐH góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Kimh tế có phát
triển thì mới có đủ điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh, quốc
phòng. CNH, HĐH còn tác động đến việc bảo đảm kĩ thuật, giữ gìn bảo quản và
từng bước cải tiến vũ khí, trang bị hiện đại cho lực lượng vũ trang.
Thứ tư: CNH, HĐH góp phần tăng nhanh quy mô thị trường. Bên cạnh thị
trường hàng hóa còn là thị trường vốn, thị trường lao động vì vậy việc sử
dụng tín dụng, ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác tăng mạnh. CNH, HĐH
cũng tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức
tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
2)Khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa.
• Khái niệm nguồn nhân lực.
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con
người hoạt động. Sức lực đó làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ
nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động – con người có
sức lao động.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lưc đó được xem xét ở hai
khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.
Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác biệt cơ bản
giữa nguồn lực con người và nguồn lực khác. Thứ hai nguồn nhân lực được hiểu
là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là nguồn lực của
quá trình tái phát triển nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng
tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất
lượng nhất định tại thời điểm nhất định.
Liên hợp quốc định nghĩa : nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kĩ
năng và năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế , xã hội của đất
nước.Ở nước ta khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi bắt đầu
công cuộc đổi mới. Theo giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người
được thể hiện qua số lượng dân cư, chất lượng con người( bao gồm thể lực, trí
lực và năng lực phẩm chất)
Tóm lại, ở dạng khái quát có thể hiểu nguồn nhân lực là một phạm trù dùng
để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình
tạo ra của cải, vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong
tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chât
lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất lượng con người có đủ điều
kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
• Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu
tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản có một vai trò to lớn.
Các nguồn lực khác như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí tự nó chỉ tồn tại
dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực với
xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức
của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và
có ý thức, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo
thành một sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Các nguồn lưc khác là hữu hạn, còn nguồn lực con người về mặt sinh học
có thể tự đổi mới và phát triển, về chất nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác
hợp lí nó cũng sẽ không ngừng được nâng cao. Đó là cơ sở làm cho năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô
tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy con người đã từng bước
làm chủ, sáng tạo và khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ
sản xuất tiên tiến, hiện đại
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể
hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của
các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí thức. Với
những công nghệ kĩ thuật hiện đại do chính con người sáng tạo ra đã và đang
làm nên những bước tiến thần kì trong lịch sử loài người.
Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự
thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào sự hoạch
định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào
năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Thật vậy, trong cơ chế
quản lý, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp của nước ta thời kỳ
trước đổi mới đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời tạo ra
những mối quan hệ sản xuất không phù hợp dẫn đến tình trạng trì trệ, kém phát
triển, kinh tế đời sống của người lao động không đảm bảo trong khi nhu cầu của
con người ngày càng phát triển do đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có
một cơ chế quản lý mơí, một môi trường xã hội mới để đáp ứng nhu cầu, lợi ích
và các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển của con người và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là bước đi tất nhiên và mang tính khách quan để tạo ra một
nền sản xuất hiện đại vì một cộng đồng ngày mai.
Qua đây có thể kết luận rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ xuất
phát từ yếu tố con người mà do con người tạo nên và chỉ khi nào có nguồn nhân
lực mới thành công . Do vậy cần phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho
các ngành khoa học, văn hóa, giáo dục,y tế nhằm phát triển nguồn lực con
người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3)Quan điểm và chủ trương của Đảng về phát huy nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa –hiện đại hóa.
Trong tiến trình của các cuộc cải biến cách mạng xã hội theo hướng tiến bộ,
con người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình đó. Như vậy vai
trò của nhân tố con người được xem như chủ thể của toàn bộ tiến trình cách
mạng. Quan niệm này xuất phát từ một nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Marx:
Con người là chủ thể của các quan hệ xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng do con người, vì con người. Chính vì mục tiêu cao cả của cuộc
cách mạng đó mà khi hình dung trên những nét đại thể về xã hội tương lai, Mác
và Ăngghen đã đặt con người vào vị trí trung tâm. Con người là chủ thể xây
dựng, đồng thời là kết quả của sự phát triển xã hội đó. Công cuộc đổi mới theo
định hướng XHCN hiện nay ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
cũng là nhằm đạt tới mục tiêu cao cả trên. Để đạt tới mục tiêu đó, nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ là thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Tức là phải bằng mọi cách phát huy vai trò tích cực của con người Việt
Nam cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải tìm
những giải pháp tốt nhất nhằm phát huy nhân tố con người –chủ thể của toàn bộ
tiến trình đó. Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố đó, trong các nghị
quyết ban chấp hàng trung ưng đảng khóa VII, VIII, IX, X đảng ta luôn đánh
giá cao sự phát huy nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.
- Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: Cùng với
khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực
thúc đẩy. Như vậy, giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự nghiệp giáo dục đao tạo có tính xã hội hóa
cao. Nền giáo dục và đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức
mạnh, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là
sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ
của các nước trên thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.
- Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần
kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng
trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”
- Tiếp theo đến đại hội thứ IX đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục và đào
tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao
chất lượng giáo dục toàndiện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá", thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một
xã hội học tập". Thực hiện phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.”
- Đại hôi X xác định: Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế
quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước
nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; Xây dựng nền giáo
dục của dân, do dân và vì dân. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo;
từng bước xây dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước
Chương 2: Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa –hiện đại
hóa
1.Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH.
1.1 Số lượng nguồn lực con người
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thống kê về Điều tra biến động dân số và
kế hoạch hóa gia đình (thời điểm chốt số liệu là 1-4-2012), dân số Việt Nam tại
thời điểm điều tra đang có 88.526,883 người (tăng trên 915.000 người so với 1-
4-2011). Trong đó, hơn 61 triệu người (chiếm 69% tổng dân số) đang ở độ tuổi
lao động là một nguồn nhân lực khổng lồ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Nước ta đang trong thời kỳ CNH-HĐH nguồn nhân lực dồi dào là một
trong những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển đất nước. Trên phạm vi cả
nước, cấu trúc dân số biến đổi tạo cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, tuy
nhiên do hoàn cảnh địa lý và tình hình kinh tế - xã hội khác nhau giữa các vùng
miền, nên ở các tỉnh đồng bằng do mức sinh sống thấp trong nhiều năm qua và
"cơ cấu dân số vàng" đã bắt đầu phát huy tác dụng, tạo ra nhiều thách thức lớn
về việc làm cho địa phương vốn đất chật người đông. Tại các tỉnh vùng Tây
Nguyên, miền núi Tây Bắc, do mức sinh ở những vùng này vẫn còn cao nên cấu
trúc dân số còn trẻ. Luồng di cư tự phát rất lớn đổ từ các vùng nông thôn, miền
núi đến các thành phố, Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Trong một số
doanh nghiệp ở các vùng này, số lao động ngoại tỉnh chiếm đến 80%.
Tuy nhiên, nó cũng gây ra khó khăn nếu nền sản xuất xã hội không đáp ứng đủ
việc làm cho người lao động. Tính đến thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1
triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, trong đó 984.000 người
thất nghiệp và 1.369.000 người thiếu việc làm.Nguyên nhân của tình trạng trên
là do trong nhiều thập kỷ nước ta có tốc độ tăng dân số cao, trong khi đó nền
sản xuất xã hội lại kém phát triển không đáp ứng được phân công lao động xã
hội. Mặt khác, ngoài số lao động gia tăng tự nhiên hàng năm, những người
ngoài lực lượng lao động như người về hưu, trẻ em, học sinh đang học tại các
trường chuyên nghiệp cũng có nhu cầu việc làm khá lớn. Mỗi năm có thêm
hàng triệu lao động mới, vấn đề việc làm càng trở nên khó khăn và cấp thiết. Do
đó sức ép việc làm nên nước ta là rất lớn.
Bên cạnh đó Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những khó khăn không
nhỏ. Hiện nay, phụ nữ sinh con muộn hơn so với 10 năm trước nhưng lại có xu
hướng kết thúc thời kỳ sinh đẻ khá sớm trước 35 tuổi, sinh sớm nông thôn và
sinh muộn hơn ở thành thị. Điều này cho thấy phụ nữ có xu hướng kết hôn
muộn hơn và có ít con hơn. Mức sinh ở khu vực nông thôn giảm mạnh từ 2,57
con/phụ nữ năm 1999 xuống còn 2,14 con/phụ nữ năm 2009.So với năm 1999
tuổi thọ trung bình dân số Việt Nam đã có thay đổi đạt 72,8 tuổi, tăng 4,3 tuổi
đăc biệt tuổi thọ phụ nữ cao hơn so với nam giới và tăng 5,5 tuổi. Với thực trạng
trên Việt Nam đã bắt đầu bước vào thời kỳ già hóa dân số. Đây là một thách
thức không hề nhỏ bởi hiện tại nước ta vẫn đang trong quá trình CNH-HĐH.
Với quy mô dân số đông, lực lượng lao động dồi dào là điều kiện quan trọng
là sức mạnh phát triển đất nước. Phải đối mặt với tình trạng dân số đông gây áp
lực lên xã hội là một thách thức cần tháo gỡ với nước ta. Trong thời gian gần
đây chúng ta còn phải đối mặt với tình trạng dân số bắt đầu già hóa. Đây là
những thách thức lớn đối với đất nước và cần phải có các giải pháp kịp thời để
tháo gỡ nhằm đạt được mục tiêu CNH-HĐH đất nước.
1.2 Cơ cấu nguồn lực con người
Việt Nam đang nắm trong tay "cơ hội vàng" về dân số khi đang ở trong thời
kỳ "cơ cấu dân số vàng" (số người trong độ tuổi lao động cao hơn số người phụ
thuộc). Số liệu năm 2012 cho thấy, số người trong độ tuổi lao động (từ 15- 64
tuổi) chiếm 68,9%, trong khi số trẻ em từ 0 đến 14 tuổi giảm mạnh xuống còn
24,1%, số người trên 65 tuổi chỉ chiếm 7%. Thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" chỉ
xảy ra duy nhất một lần trong lịch sử nhân khẩu học của mỗi quốc gia
Hình 1. Tháp dân số Việt Nam, 1/4/2012
Đây sẽ là cơ hội tốt để phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ CNH-HĐH
ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, cơ cấu lao động theo nhóm ngành trong năm 2012 có sự
chuyển dịch tích cực, tỷ trọng lao động trong nhóm ngành dịch vụ tăng từ
30,3% lên 31,4%, số lao động tăng 974 nghìn người. Đây là một trong những
kết quả tích cực mà lĩnh vực lao động, lĩnh vực có vai trò quan trọng về nhiều
mặt với nền kinh tế – xã hội, đạt được trong năm 2012.
Theo số liệu thống kê những năm gần đây cơ cấu dân cư và lao động ở
nước ta đã có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng lao động trong nhóm ngành
nông, lâm, thủy sản giảm từ 48,4% xuống còn 47,5% (nhưng vẫn tăng 182,4
nghìn người), nhóm ngành công nghiệp- xây dựng giảm từ 21,3% xuống còn
21,1% (nhưng vẫn tăng 181,6 nghìn người), nhóm ngành dịch vụ tăng từ
30,3% lên 31,4% (số lao động tăng 974 nghìn người).
Cơ cấu lao động theo loại hình kinh tế có sự chuyển dịch nhẹ. Lao động
trong khu vực nhà nước chiếm 10,4% (số lao động vẫn tăng khoảng 125 nghìn
người); lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tỷ trọng giảm nhẹ từ 3,4%
xuống 3,3% (nhưng số lao động vẫn tăng khoảng 5,1 nghìn người); lao động
khu vực ngoài nhà nước tỷ trọng tăng từ 86,2% lên 86,3% (số lao động tăng
trên 1,2 triệu người). Điều đó chứng tỏ khu vực này vẫn thu hút nhiều lao
động và vẫn là nơi giải quyết chủ yếu với nhiều lao động tăng thêm.
Xuất khẩu lao động mặc dù gặp nhiều khó khăn do tăng trưởng kinh tế
của nhiều nước đối tác chậm lại, nhưng vẫn tiếp tục được thực hiện. Theo tính
toán sơ bộ, với hơn 400 nghìn lao động đang làm việc ở nước ngoài, hàng năm
đã gửi về Việt Nam khoảng 1,8 tỷ USD, bình quân đạt 4,5 nghìn USD/người,
tương đương với trên 90 triệu đồng.
Đây là những chuyển biến tích cực trong cơ cấu lao động. Bên cạnh đó,
vẫn tồn tại những mặt hạn chế cần tháo gỡ.
Thứ nhất, nước ta phải đối mặt với tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Tại các
nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10 thợ, nhưng ở nước ta, bình quân một thầy chỉ
có 0,95 thợ.Trong khi số sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật
giảm dần. Đến năm 2010, mỗi năm cần khoảng 20 ngàn lao động kỹ thuật,
nhưng khả năng đào tạo nghề cũng cung ứng 12.000 người/năm. Hiện nay nhu
cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu như không được đáp ứng đầy đủ, trong khi lao
động phổ thông lại dư thừa quá nhiều. Đây là một trong nhứng lý do chính dẫn
đến hiện tượng sinh viên hiện nay sau khi tốt nghiệp đại học không thể tìm được
việc làm.
Thứ hai, điểm “nghẽn” lớn hiện nay là tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân
bổ không đồng đều giữa các ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao
động kỹ thuật tập trung ở các cơ quan trung ương. Các ngành nông - lâm - ngư
nghiệp, các thành phần kinh tế tập thể , tư nhân, cá thể còn thiếu nhiều lao động
kỹ thuật. Ở khu vực nông thôn, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng thấp
(chỉ khoảng 4%). Đặc biệt vùng miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ thuật
và trí thức trầm trọng, trong khi số tri thức dư thừa giả tạo ở thành phố ngày
càng nhiều. Không những vậy, có những lao động sau khi được đào tạo đã
không làm đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao động giản
đơn.
Ba, năng suất lao động còn thấp. Năng suất lao động thấp là yếu tố cản
trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhất là về chất lượng, là yếu tố tiềm ẩn làm mất
cân đối kinh tế vĩ mô (lạm phát, nhập siêu, thâm hụt cán cân thanh toán,…), là
lực cản của thu nhập. Có nhiều nguyên nhân làm cho năng suất lao động của
Việt Nam thấp. Có nguyên nhân do quy mô GDP còn nhỏ. Có nguyên nhân do
cơ cấu lao động hiện vẫn còn gần một nửa số lao động làm việc trong ngành
nông, lâm nghiệp- thuỷ sản, trong khi năng suất lao động của nhóm ngành này
chỉ bằng 1/5 của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng; năng suất lao động
nhóm ngành công nghiệp- xây dựng cao nhất, nhưng tỷ trọng số lao động còn
thấp…
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, Nghị quyết Đại hội XI đã đề
ra những mục tiêu về lao động và năng suất lao động. Cụ thể, tạo công ăn việc
làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm; giảm tỷ lệ lao động nông
nghiệp (đến năm 2015 còn 35- 40%, đến năm 2020 còn 30%) trên cơ sở tăng
tương ứng tỷ lệ lao động công nghiệp- xây dựng và dịch vụ.
1.3 Chất lượng nguồn lực con người
Nguồn lao động dồi dào không có nghĩa là thị trường lao động Việt Nam
đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi trong tổng số 49,2
triệu người trong độ tuổi lao động, chỉ có 7,3 triệu người đã được đào tạo,
chiếm 14,9% lực lượng lao động. Trong số những người đang theo học ở các
trường chuyên nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ người đang theo học trình độ sơ
cấp là 1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5% và Đại học trở lên là 53,3%. Tính
chung cả nước, về chất lượng dân số, có tới 20,8% dân số Việt Nam chưa tốt
nghiệp trung học cơ sở. Phần trăm người tốt nghiệp các bậc cao hơn còn giảm
mạnh. Theo thống kê, chỉ 25,8% dân số Việt Nam tốt nghiệp tiểu học; 26,7%
tốt nghiệp trung học cơ sở; 22,8% dân số tốt nghiệp trung học phổ thông trở
lên…
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số
đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái
thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực
chất lượng cao. Theo số liệu của Viện nghiên cứu phát triển TP. HCM cho biết:
hiện nay, cung lao động tại Việt Nam rất dồi dào và lớn hơn cầu về lao động.
Tuy nhiên, phần lớn lượng cung lao động này là lao động phổ thông, tỷ lệ lao
động chưa qua đào tạo cao và chất lượng lao động không đồng đều giữa các
vùng, miền. Cụ thể là gần 77% người lao động trong độ tuổi lao động chưa
được đào tạo nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp
và chất lượng lao động ở khu vực thành phố cao hơn so với ở khu vực nông
thôn. Về mặt cầu, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay phần lớn được phân
bổ trong khu vực nông nghiệp, nơi kỹ năng, tay nghề và trình độ của người lao
động thường không cần ở mức độ cao. Lực lượng lao động đang làm việc trong
khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và đối với khu vực dịch vụ chỉ chiếm
khoảng 26%.
Theo Bộ LĐ-TB&XH thì hiện tại, chất lượng việc làm vẫn rất thấp. Cụ thể: việc
làm giản đơn, không cần kỹ năng chiếm gần 40% tổng việc làm của cả nước. Ở
khu vực thành thị tỷ lệ này là 18,1% nhưng khu vực nông thôn chiếm gần 50%
tổng việc làm. Trong khi đó, so với những năm trước đây, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, nhu cầu về nguồn
nhân lực có chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp tăng rất
nhanh. Đến các KCX-KCN, khi tuyển công nhân cho các ngành may mặc, điện
tử cũng yêu tiên người có kinh nghiệm, tay nghề, lao động đã qua đào tạo.
Bên cạnh các Doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở nước ta cũng đang rất khát nguồn lao động có tay nghề, chất
lượng cao. Trong khi đó, tỷ lệ lao động có chất lượng của chúng ta lại quá ít,
không đủ để đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc
quan tâm đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề vô cùng quan trọng hiện nay.
Như vậy, có thể thấy rằng chất lượng nguồn lao động của nước ta hiện nay đang
còn rất thấp, trong khi nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề, chất lượng cao
của các DN lại liên tục tăng. Điều này dẫn đến nguồn lao động của chúng ta dồi
dào, nhu cầu việc làm lớn, nhưng các doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng thiếu
lao động. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thất
nghiệp ngày càng gia tăng của nước ta hiện nay.
Để khác phục tình trạng này, Nhà nước cùng các cơ quan ban ngành đã đưa ra
các giải pháp như: Tích cực tổ chức các trường đào tạo ngắn hạn cho người lao
động nhằm trau dồi, nâng cao kiến thức thực tế và kỹ năng nghề nghiệp. Đồng
thời cần quan tâm tới việc chăm sóc cuộc sống của người lao động, tuyên
truyền, khuyến khích, động viên người lao động có ý thức trong việc học tập,
nâng cao kiến thức, tay nghề cho bản thân. Đây là vấn đề vừa giúp người lao
động tìm được nhiều cơ hội việc làm cho chính mình, và dần khắc phục được
tình trạng yếu kém trong chất lượng nguồn lao động của nước ta hiện nay.
2.Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn
yếu kèm
Thứ nhất, chất lượng đào tạo không phù hợp và chưa đáp ứng được nhu cầu
doanh nghiệp.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay chất lượng nguồn nhân lực rất thấp, đào tạo chưa
theo sát thực tế, không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, và kém xa
so với các nước trong khu vực; chất lượng các trường đại học và trường đào tạo
nghề chưa đồng nhất, do cung không đủ cầu nên nhiều trường còn kém chất
lượng nhưng vẫn tồn tại; nhiều trường không quan tâm tới nhu cầu của doanh
nghiệp mà chỉ dạy những điều mình có. Năm 1987, một giảng viên đào tạo bình
quân 6,6 sinh viên, năm 2013 một giảng viên đào tạo tới 28 sinh viên . Sau 22
năm, số sinh viên tăng 13 lần, số trường tăng 3,7 lần, nhưng số giảng viên chỉ
tăng 3 lần. Hơn 20 năm qua, số giảng viên có trình độ tiến sĩ chỉ đạt hơn 10% .
Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam” của UNDP – Hà
Nội cho biết: Các doanh nghiệp Việt Nam cho rằng:
• Các doanh nghiệp phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc –
học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình;
• Các doanh nghiệp không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện
nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; chương trình,
nội dung giảng dạy yếu và lạc hậu; khả năng nghiên cứu thấp; sách vở và
thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực
tổ chức và quản lý thấp…
• Các nghiên cứu về chất lượng lao động theo đánh giá của doanh nghiệp
là bên cạnh sự bất cập và lạc hậu của những kiến thức và năng lực
chuyên môn, kỹ thuật, khả năng giao tiếp ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh
còn kém, các năng lực cốt yếu của người lao động hiện đại như năng lực
truyền đạt, làm việc đồng đội, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, học tập
liên tục, làm việc độc lập, dịch vụ khách hàng, đàm phán, quản lý xung
đột là rất yếu kém.
Thứ hai, thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta còn nhiều
bất cập.
Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát
triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn
CNH-HĐH. Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các
ngành, vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu
các mục tiêu cụ thể. Điều đó, xảy ra tình trạng vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân
lực các ngành, vùng và địa phương.
Thứ ba, Sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân
lực ở VN hiện nay.
Chương trình giáo dục ở các cấp học, bậc học vừa chưa bắt kịp những tri thức
khoa học và công nghệ hiện đại, vừa ít gắn liền với thực tiễn. Phương pháp dạy
và học chậm đổi mới, vẫn nặng về trang bị kiến thức, nhẹ về bồi dưỡng năng
lực tư duy độc lập, năng lực giải quyết vấn đề, tính năng động và sáng tạo, khả
năng thích nghi với sự phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là trang bị thí
nghiệm, thực hành của nhà trường đã thiếu, lại lạc hậu với thực tiễn sản xuất.
Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo
dục. Tình trạng tách rời giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo với cơ quan nghiên
cứu triển khai và các doanh nghiệp còn khá phổ biến.
Thứ tư, Chính sách sử dụng nhân tài
Ở nước ta hiện nay tình trạng chảy máu chất xám đang xảy ra phổ biến, các sinh
viên sau, người tri thức sau khi đi du học ở nước ngoài thường ở lại làm việc và
sinh sống ở đó không trở về quê hương làm việc.Mặc dù có tinh thần yêu nước
muốn cống hiến cho đất nước nhưng do chính sách thu nhân tài của nước ta hiện
nay chưa thực sự tốt và hấp dẫn với những người tài, trong khi đó thì ở các nước
khác chính sách thu hút nhân tài được họ rất quan tâm.Chính sách của nhà nước
chưa có những ưu đãi đặc biệt cũng như chưa tạo ra một môi trường làm việc
thuận lợi để nhân tài có thể hết mình cống hiến cho đất nước. Chúng ta đã mất
đi nguồn nhân lực thực sự chất lượng điều đó làm nguồn nhân lực của nước ta
trở lên yếu kém.
3. Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH,
HĐH
Hiện nay, mục tiêu phát triển của đất nước đã được Đảng và Nhà nước Việt
Nam xác định là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch
định và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
a. Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế
Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội nổi lên với
việc bắt đầu có sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào
tạo nhân lực. Điều này đã cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực trong tư duy
giáo dục, tuy nhiên nhìn ở tầm vĩ mô thì sự hợp tác này còn manh mún, các
thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực quốc gia chưa được thu thập đầy đủ.
Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ
giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế.
Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ, các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ
về nhu cầu nguồn nhân lực (số lượng, kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan
lập chiến lược phát triển nhân lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ
bản để xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực.
Hình 1 Chiến lược nhân lực với thông tin đầu vào từ các chiến lược kinh tế
Nguyên tắc là như vậy, tuy nhiên làm thế nào để áp dụng vào thực tế trong
khi sự liên kết giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các Bộ ngành khác trong công
tác phát triển nguồn nhân lực chưa thực sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này
sự phối hợp đa ngành đóng một vai trò quan trọng, do đó cần thiết phải thành
lập một cơ quan lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia (Human
Resource Development Planning Center-HRDPC) trực thuộc Chính phủ, để tạo
sự liên kết ngang hàng giữa các Bộ, ngành, địa phương với Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Để mô hình này hoạt động có hiệu quả, HRDPC phải là cơ quan có quyền
lực đủ lớn, do đó người đứng đầu nhất thiết phải là Thủ tướng Chính phủ, các
thành viên thường trực bao gồm các đại diện các Bộ, ngành, địa phương và các
cơ sở đào tạo lớn trên toàn quốc.
Các quốc gia trên thế giới như Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và
thiết lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược
nhân lực. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt
kinh tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này. Đã đến lúc Việt Nam đặt vấn đề
lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông
qua sự kết hợp chăt chẽ các chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát triển
nguồn nhân lực.
b. về chính sách xã hội
Trong thời gian gần đây, việc “chảy máu chất xám”, di chuyển các nhân tài từ
doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp khu vực tư nhân và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng. Đặc biệt, trong thời gian tới, khi nền kinh
tế được phục hồi và trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng hoàn thiện,
cạnh tranh nguồn nhân lực sẽ tiếp tục gắt gao hơn. Do đó, Nhà nước cũng như
các doanh nghiệp cần xây dựng chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nguồn nhân
lực theo mức độ cống hiến và khả năng phát triển tương lai. Trước hết, chính
sách tiền lương cần được xây dựng và thực hiện một cách linh hoạt theo tiêu chí
tài năng. Đồng thời, cần xây dựng chế độ chính sách ưu đãi đối với nhân lực
chất lượng cao để tạo động lực thu hút nhân tài trong và ngoài nước vào làm
việc tại các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách để họ có điều
kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình. Các chính sách này không
chỉ dừng lại ở lương hay cổ phần mà còn là các phương thức khác như cung cấp
nhà ở, hỗ trợ dịch vụ bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, tạo điều
kiện, môi trường làm việc thuận lợi, hỗ trợ phương tiện truyền thông và đi lại,
tín dụng cho nhân viên, du lịch và đào tạo tại nước ngoài, hỗ trợ dịch vụ gia
đình cho nhân viên. Nhà nước và doanh nghiệp cũng cần có chính sách để thu
hút nguồn nhân lực có trình độ kiến thức cao là Việt kiều đang sinh sống tại
nước ngoài về đầu tư tiền bạc và chất xám cho công cuộc xây dựng kinh tế đất
nước.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý phát triển và sử
dụng nhân lực phù hợp với cơ chế và thể chế kinh tế thị trường.
- Đổi mới căn bản và toàn diện chính sách về sử dụng nhân lực trong khu vực
nhà nước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, gồm từ khâu tuyển dụng, bố trí
công việc, trả công lao động, thăng tiến nghề nghiệp và không ngừng cải thiện
điều kiện, môi trường lao động để tạo động lực, kích thích, khuyến khích làm
việc sáng tạo và có hiệu quả cao. Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh giá
nhân lực dựa trên cơ sở năng lực thực tế, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động
thực tế và đãi ngộ tương xứng với trình độ năng lực và kết quả công việc.
c. Về giáo dục- đào tạo.
Mở rộng quy mô giáo dục đào tạo mọi ngành, các cấp học từ mẫu giáo, các
cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đến việc xúc tiến các
trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc
biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực .
Giáo dục phổ thông , đặc biệt là giáo dục tiểu học theo kinh nghiệm của các
nước đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các
cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kĩ thuật
ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát
triển , giảm nguy cơ tụt hậu. Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều
kiện phát triển hơn ở nông thôn , vùng núi, vùng sâu vùng xa. Vì vậy, việc giáo
dục đào tạo con người ở những vùng này rất khó khăn.Để nâng cao trình độ của
nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn , vùng sâu vùng xa, miền núi, Nhà nước
đã có chính sách cấp học bổng , giảm học phí , ưu tiên các học sinh nghèo vượt
khó. Từ đó giúp họ có điều kiện học tập, tìm kiếm việc làm, nâng cao mức sống.
Chính nhờ những chủ trương đúng đắn này mà những bất hợp lí trong cơ cấu
vùng, miền của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực được điều chỉnh phần nào.
Ngoài ra để nâng cao trình độ nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, Nhà nước đã có chính sách cấp học bổng, giảm học phí cho học sinh,
sinh viên nghèo vượt khó.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi mới
mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội
nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng
khả năng cạnh tranh trên thịtrường thế giới, từ đó đòi hỏi phải có trình độ công
nghệ cao và khả năng sử dụng tương ứng các công nghệ đó . Ngoài giáo dục
đào tạo văn hoá chuyên môn , nghiệp vụ về mặt lí thuyết , cần chú ý điều kiện
thực hành, ứng dụng , giáo dục kĩ luật,tác phong lao động công nghiệp , rèn
luyện kỉnăng và những khảnăng thích ứng của người lao động với những đặc
điểm của nền kinh tế thị trường. Song song với vấn đề giáo dục, đào tạo con
người, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, sức khoẻ, để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực , giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục
Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học
cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn
Cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động
một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên
những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng
và phát triển nhân tố con người Song song với vấn đề giáo dục, đào tạo con
người, chúng ta cần quan tâm đến vấn đề dân số, sức khỏe như tăng cường chú
trọng đến các chương trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phòng chống suy
dinh dưỡng các vùng miền, vùng sâu, vùng xa.
CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN không thể không xuất phát từ
tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam toàn
diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công bằng,
nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và
đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại
hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch
hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và
bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ
chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời
những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân
mình trở thành cái bóng của người khác.
4. Những thành tích đạt được trong việc phát huy nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa –hiện đại hóa ở nước ta
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, với sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin và truyền thông; với sự phổ biến của Internet và sự tiến nhanh đến nền
kinh tế tri thức… thì vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đặc biệt là tài năng trẻ có vai trò cực kỳ quan trọng trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy ngành giáo dục và đào tạo nước ta đã có
những chủ trương, biện pháp quan trọng phát hiện, bồi dưỡng nhân tài và đến
nay đã thu được những kết quả nhất định. Nhiều tài năng trẻ đã được bồi dưỡng
và phát triển nhanh chóng. Hằng năm số học sinh năm cuối của các trường trung
học phổ thông khối năng khiếu thi đỗ đại học đạt tỷ lệ khoảng trên 80%. Khối
trường, lớp chuyên đã có những đóng góp rất lớn trong việc phát hiện, bồi
dưỡng nhân tài, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, đồng thời, góp
phần tích cực nâng cao chất lượng và thành tích của các kỳ thi học sinh giỏi
quốc gia, các cuộc thi Olympic quốc tế về toán, tin học, lý, hoá, sinh và ngoại
ngữ. Số học sinh đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế ngày
càng tăng. Nhiều học sinh được tuyển thẳng đại học hoặc đạt điểm cao trong các
kỳ thi tuyển sinh đại học, đã được lựa chọn vào các hệ đào tạo cử nhân tài năng,
chương trình tiên tiến… và trưởng thành khá nhanh.
Nhiều địa phương đã có những chính sách riêng khuyến học, khuyến tài, tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút, trọng dụng nhân tài. Chẳng hạn, thành phố Hà
Nội đã thông qua“Quy định tạm thời về ưu đãi, khuyến khích các nhà khoa học
đầu ngành, chuyên gia giỏi, người có cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển Thủ đô” và “Quy định tạm thời về thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng tài
năng trẻ và nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Bình
Dương đã ban hành quy định chính sách đào tạo, thu hút nguồn nhân lực trình
độ cao về công tác tại địa phương. Thành phố Hồ Chí Minh có chương trình đầu
tư lớn cho “Vườn ươm tài năng”v.v…
Mặt khác, để đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trình độ cao, nhất là cán bộ
khoa học công nghệ phục vụ các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, trọng điểm, Chính
phủ đã phê duyệt và bắt đầu thực hiện đề án cử người đi học nước ngoài bằng
ngân sách nhà nước từ năm 2000. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các
bộ, ban, ngành liên quan tuyển chọn được trên 1.000 lưu học sinh và thực tập
sinh. Các chương trình đào tạo tài năng, chất lượng cao đã và đang được triển
khai thực hiện có hiệu quả ở các Đại học Quốc gia, Đại học vùng và một số
Trường Đại học trọng điểm trong cả nước. Đây là một mô hình đào tạo tiên tiến,
phù hợp với điều kiện Việt Nam để đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng.
Nhiều Trường Đại học đã xây dựng quỹ khuyến khích tài năng, kêu gọi tài trợ
của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
sinh viên phấn đấu, trưởng thành. Nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh đã
tập trung thời gian, tâm huyết, trí tuệ vươn lên đạt nhiều thành tích xuất sắc trong
học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học.
Tổng cục dạy nghề vừa cử 96 giảng viên ở nhiều trường ĐH, CĐ nghề
sang Malaysia học kỹ năng nghề. Đây là lớp học thí điển đầu tiên của cả nước
thực hiện đào tạo nghề chất lượng cao. Thí điểm này là công việc đầu tiên trong
Bản ghi nhớ thỏa thuận của việc động và Thương binh Xã hợp tác trong các
chương trình đào tạo nghề giữa Tổng Cục dạy nghề - Bộ Lao hội, Tập đoàn giáo
dục quốc tế SEG - Malaysia và Công ty Cổ phần tiến bộ quốc tế (AIC) vừa ký
kết.
Ông Nguyễn Tiến Dũng, Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề, cho biết:
“Mục đích của bản ghi nhớ này là các bên cùng thống nhất tìm kiếm cơ hội hợp
tác với nhau trong lĩnh vực dạy nghề, baogồm: Tư vấn đưa ra các giải pháp dạy
nghề, đáp ứng nhu cầu nhân lực có tay nghề cho phát triển kinh tế xã hội của
Việt Nam; Tư vấn về hệ thống chuẩn giáo viên dạy các nghề đạt tiêu chuẩn quốc
tế và khu vực; xây dựng các chương trình giảng dạy, phần mềm giảng dạy cho
một số nghề đào tạo đầu tư cấp độ quốc tế và khu vực; Tư vấn đầu tư cơ sở vật
chất trang thiết bị cho việc dạy và học nghề tại Việt Nam theo các chuẩn; Đào
tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề như bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy,
bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề, đào tạo ngoại ngữ…”.