Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích các nguyên tắc chọn luật áp dụng để xác định hiệu lực pháp lý của hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.42 KB, 12 trang )

Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 02
Nội dung 03
Nguyên tắc xác định luật áp dụng đối với tư cách chủ thể giao kết
hợp đồng
03
Nguyên tắc xác định luật áp dụng đối với hình thức hợp đồng 04
1. Khái niệm hình thức hợp đồng 04
2. Đối với hợp đồng xác định theo nơi giao kết 05
3. Hợp đồng giao kết vắng mặt 06
4. Hợp đồng điện tử 06
Nguyên tắc xác định luật áp dụng đối với nội dụng hợp đồng. 07
1. Khái niệm nội dung hợp đồng 07
2. Trong trường hợp các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng 07
3. Nguyên tắc chọn luật áp dụng với nội dung hợp đồng trong trường
hợp các bên không thỏa thuận luật áp dụng
10
Kết luận 11
Phụ lục 12
Danh mục tài liệu tham khảo 12
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự Toàn cầu hóa của nhân loại, sự mở cửa của các nền
kinh thế trên thế giới thì các giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài ngày càng
phổ biến và phức tạp hơn. Trong quá trình thực hiện kí kết hợp đồng, để xác
định hiệu lực pháp lý thì dù hợp đồng có yếu tố nước ngoài hay hợp đồng trong
nước đều phải đảm bảo được tư cách chủ thể giao kết, hình thức hợp đồng và
nội dung hợp đồng. Đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài, việc xác định hiệu
1
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2


lực pháp lý của hợp đồng ở mỗi nước có những quy định riêng vì vậy không
tránh khỏi những mâu thuẫn, những xung đột xảy ra trong quá trình kí kết, thực
hiện hợp đồng; chính vì vậy, việc chọn luật áp dụng để đảm bảo quyền và nghĩa
vụ của các bên là rất quan trọng.
Từ những nhận thức trên, nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Phân tích các
nguyên tắc chọn luật áp dụng để xác định hiệu lực pháp lý của hợp đồng có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam” để tìm hiểu, nghiên cứu.
Bài viết còn có thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Quý
Thầy Cô giáo và các bạn.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TƯ CÁCH CHỦ
THỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG.
Để xác định tư cách chủ thể giao kết hợp đồng thường căn cứ vào năng
lực pháp luật và năng lực hành vi ( đối với cá nhân nước ngoài) và căn cứ vào
năng lực pháp luật ( đối với pháp nhân nước ngoài) của các bên chủ thể trong
hợp đồng được quy định trong các văn bản pháp luật.
2
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
Đối với cá nhân nước ngoài, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của
các bên chủ thể trong hợp đồng thì hầu hết luật pháp của các nước quy định việc
xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các bên chủ thế của hợp
đồng có yếu tố nước ngoài sẽ căn cứ vào luật nhân thân của họ ( Việc áp dụng
luật quốc tịch hay luật nơi cư trú sẽ được xem xét trong từng trường hợp cụ
thể).
Theo đó, Luật quốc tịch ( Lex Nationalis) hay còn gọi là luật bản
quốc( Lex patrie) được hiểu là luật của quốc gia mà đương sự là công dân.
Khi có xung đột pháp luật về xác định tư cách chủ thể tham gia kí kết hợp
đồng, thì các bên sẽ áp dụng luật của quốc gia mà đương sự là công dân. Pháp
luật Việt Nam quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của

các nhân là người nước ngoài như sau:
Theo khoản 1 Điều 761 BLDS 2005: “Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó
có quốc tịch”.
Theo pháp luật Việt Nam, việc xác định năng lực pháp luật dân sự của
người nước ngoài được quy định tại Điều 761 Bộ luật dân sự : “ Người nước
ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam”.
Và Điều 762 BLDS Việt Nam 2005 quy định: “ 1.Năng lực hành vi dân
sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó
là công dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
quy định khác
2.Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định
theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Về năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của họ được xác định
theo pháp luật Việt Nam.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam ( tùy theo từng trường hợp) năng lực
hành vi ký kết hợp đồng của các bên chủ thể được xác định theo luật quốc tịch
của họ ( Lex Nationalis) hoặc theo luật nơi thực hiện hành vi ( Lex Loci Actus).
Còn đối với luật nơi cư trú ( Lex domicilii) được hiểu là luật của quốc gia,
mà ở đó đương sự có nơi cư trú ổn định ( cư trú ổn định là nơi thường trú).
3
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
Đối với pháp nhân nước ngoài, Điều 765 BLDS 2005 quy định: “
1.Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo
pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều này.
2.Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác

định theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Cũng giống như đối với cá nhân nước ngoài , pháp luật Việt Nam quy
định năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài cũng được xác định dựa trên
hệ thuộc luật quốc tịch (luật nơi pháp nhân thành lập) và luật nơi thực hiện hành
vi (nơi pháp nhân thực hiện các giao dịch dân sự).
II. NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI HÌNH THỨC
HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm hình thức hợp đồng.
Hình thức hợp đồng là cách thức biểu đạt sự thoả thuận, ý chí của các bên.
Hay nói cách khác hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên
ngoài dưới hình thức nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức
biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của giao dịch kinh doanh đã
xác lập. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 chưa đưa ra khái niệm hính thức
hợp đồng, nhưng đã đưa ra được các loại hình thức hợp đồng có thể được sử
dụng gồm có lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể (Khoản 1 Điều 401). Ngoài ra
các hình thức có giá trị pháp lý tương đương bao gồm điện báo, telex, fax, thông
điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Điều đó đồng
nghĩa với việc Việt Nam đã thừa nhận những hợp đồng ký theo hình thức số hoá,
mua bán qua mạng, bản fax, thư điện tử, có giá trị pháp lý như ký bằng văn
bản.
Hiện nay Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế của Liên hợp quốc là một trong những công ước quốc tế quan trọng nhất
về thương mại đa phương, được áp dụng rộng rãi với 80 quốc gia thành viên
tham gia, điều chỉnh khoảng 2/3 giao dịch thương mại quốc tế. Như vậy nếu Việt
Nam tham gia vào Công ước Viên năm 1980 thì Việt Nam được quyền bảo lưu
4
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
không áp dụng Điều 11 của Công ước
1
, vì pháp luật Việt Nam quy định hợp

đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được ký kết bằng văn bản.
2. Đối với hợp đồng xác định theo nơi giao kết.
Đây được coi là một nguyên tắc chung trong tư pháp quốc tế để giải quyết
xung đột về hình thức hợp đồng. Theo đó hính thức của một hợp đồng chỉ được
công nhận có hiệu lực nếu nó được lập phù hợp với pháp luật nơi giao kết hợp
đồng đó. Khoản 1 Điều 770 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 cũng quy
định “Hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết
hợp đồng”. Điều này xuất phát từ việc cho rằng hành vi giao kết hợp đồng là
một dạng hành vi pháp lý nên hành vi pháp lý luôn phải tuân thủ pháp luật nước
nơi thực hiện hành vi (locus regit actum). Tuy nhiên, không phải trong mọi
trường hợp đều áp dụng nguyên tắc luật nơi giao kết hợp đồng để xác định hiệu
lực hình thức hợp đồng. Có hai trường hợp đặc biệt sẽ không áp dụng nguyên
tắc này, đó là:
Hợp đồng liên quan đến việc xây dựng hoặc chuyển giao quyền sở hữu
công trình, nhà cửa và các bất động sản khác trên lãnh thổ Việt Nam thì hình
thức hợp đồng phải tuân theo pháp luật Việt Nam (Khoản 2 Điều 770 Bộ luật
Dân sự Việt Nam).
Hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam
thì cũng phải tuân theo pháp luật Việt Nam (Khoản 1 Điều 769), dù tính chất
của các hợp đồng này có thể có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó quy chế Rome I cũng đưa ra những trường hợp ngoại lệ của
luật nơi giao kết hợp đồng
2
.
3. Hợp đồng giao kết vắng mặt (không xác định được nơi giao kết hợp đồng).
Trong thực tiễn hiện nay, các hình thức giao kết hợp đồng gián tiếp diễn ra
ngày càng phổ biến như việc giao kết hợp đồng thông qua chào hàng hoặc chấp
nhận chào hàng. Hình thức của hợp đồng chào hàng sẽ tuân theo pháp luật của
nước nơi cá nhân cư trú hoặc nơi pháp nhân có trụ sở chính là bên đề nghị giao
1Xem Điều 11 Công ước Viên năm 1980 quy định “Hợp đồng mua bán không cần phải được

ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức
của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của
nhân chứng”.
2Xem Khoản 4, 5 Điều 11 Quy chế Rome I năm 2008 quy định “4. Khoản 1, 2 và 3 của điều
này sẽ không áp dụng cho các hợp đồng thuộc sự điều chỉnh của điều 6-hình thức của
những hợp đồn này sẽ chịu sự điều chỉnh của luật quốc gia nơi người tiêu dùng cư trú.
5. Bất kể khoản 1 đến 4 trên đây, một hợp đồng có chủ thể là quyền tài sản đối với bất
động sản hoặc quyền thuê bất động sản sẽ phải tuân theo các yêu cầu về hình thức của hợp
đồng theo luật quốc gia nơi có tài sản nếu như theo luật đó.”
5
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
kết hợp đồng
3
. Khi đó sẽ này sinh hai vấn đề: hiệu lực về hình thức hợp đồng và
thời điểm hợp đồng được giao kết xác định như thế nào. Tuy nhiên việc xác định
hiệu lực hợp đồng phụ thuộc chủ yếu vào xác định thời điểm hợp đồng được
giao kết hợp pháp, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác (Điều 405 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005).
Đối với xác định thời điểm chào hàng và chấp nhận chào hàng, pháp luật các
nước khác nhau cũng có những quy định khác nhau về vấn đề này. Pháp luật
Việt Nam còn quy định khá ít và chưa rõ ràng. Khoản 2 Điều 18 Công ước
Viên năm 1980 quy định khá cụ thể về hiệu lực của chào hàng và chấp nhận
chào hàng “Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận
được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp
nhận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã
quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được quy định như vậy,
thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch, trong đó có
xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một
chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc
ngược lại”.Bên cạnh đó các điều khoản khác của Công ước Viên cũng quy định

khá rõ ràng về các vấn đề liên quan đến chào hàng và chấp nhận chào hàng
4
.
4. Hợp đồng điện tử.
Giữa pháp luật và công nghệ thông tin có nhiều tác động qua lại. Có ý kiến
cho rằng, một trong những lý do dẫn đến cần phải cải cách pháp luật nói chung
là khi có sự ra đời của công nghệ mới mà pháp luật hiện hành không đủ khả
năng điều tiết. Hợp đồng điện tử là hợp đồng được giao kết thông qua việc sử
dụng phương tiện điện tử. Nói đến hợp đồng điện tử là nói đến một phương thức
thiết lập hợp đồng chứ không phải là một loại hợp đồng dựa trên một đối tượng
cụ thể nào. Công nghệ thông tin không làm thay đổi về mặt bản chất của hợp
đồng.Tuy nhiên, thực tế giao kết hợp đồng tử cũng cho thấy sự phức tạp mà hợp
đồng điện tử mang lại đối với luật hợp đồng hiện có và những vấn đề có thể nảy
sinh khi áp dụng quy định hiện tại đối với hợp đồng điện tử như vấn đề về xác
định năng lực chủ thể của các bên, bảo vệ quyền lợi nguời tiêu dùng, xác thời
điểm và địa điểm giao kết hợp đồng, vấn đề bản gốc, công chứng hợp đồng điện
tử Pháp luật hợp đồng truyền thống chưa đề cập đến những vấn đề như thông
điệp dữ liệu, giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, trao đổi dữ liệu điện tử, chữ
ký điện tử, chứng thực chữ ký điện tử và vì vậy, chưa thể giải quyết những đề
rất đặc thù phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Do đó, ngày
3XemĐiều 771 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.
4 Xem Điều 15 đến điều 22 Công ước Viên năm 1980.
6
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
nay, nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh các đạo luật hợp đồng truyền thống,
người ta đã phải sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp
luật để điều chỉnh những giao dịch đuợc tiến hành bằng phuơng tiện điện tử.
Việt Nam cũng đã có nhiều văn bản điều chỉnh đến các vấn đề liên quan
đến hợp đồng điện tử như Luật giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định số
57/2006/NĐ-CP của Chính phủ về Thương mại điện tử, Thông tư số

09/2008/TT-BCT của Bộ công thương hướng dẫn nghị định thương mại điện tử
về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử,
Nghị định về Chữ ký số và chứng thực điện tử: Quy định về việc sử dụng chữ ký
số và dịch vụ chứng thực điện tử và một số nghị định về giao dịch điện tử trong
các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, Có được những quy định tương đối cụ thể và
chính xác như vậy là nhờ một phần không nhỏ từ việc UNCITRAL thông qua
Luật mẫu về Thương mại điện tử đã tạo điều kiện giúp đỡ tất cả các quốc gia
trên thế giới hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình về sử dụng các phương tiện
truyền và lưu giữ thông tin mới thay thế cho các tài liệu bằng giấy và ban hành
các đạo luật còn thiếu trong lĩnh vực thương mại điện tử
5
. Bên cạnh đó
UNCITRAL cũng ban hành văn bản hướng dẫn việc chuyển hoá các quy định
của Luật mẫu vào hệ thống nội dung luật của các quốc gia.
III. NGUYÊN TẮC CHỌN LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NỘI DUNG CỦA HỢP
ĐỒNG.
1. Khái niệm nội dung hợp đồng.
Nội dung hợp đồng là toàn bộ sự thoả thuận của các bên được quy định
trong hợp đồng, thể hiện ý chí và lợi ích của các bên, thông thường đó là các
điều khoản trong hợp đồng.
6
2. Trong trường hợp các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng.
Pháp luật các nước đều cho phép các bên tự do thỏa thuận về nội dung hợp
đồng, kể cả chọn luật áp dụng điều chỉnh nội dung hợp đồng tư pháp quốc tế
thừa nhận việc xác định luật áp dụng đối với nội dung hợp đồng dựa trên nguyên
tắc do các bên tự thoả thuận lựa chọn.
Nguyên tắc các bên tự do thoả thuận được xây dựng dựa trên cơ sở học
thuyết tôn trọng tự do ý chí trong lĩnh vực hợp đồng. Học thuyết này cho rằng
pháp luật thể hiện ý chí chung của xã hội nên các quy định của pháp luật có giá
trị đảm bảo cho lợi ích chung. Như vậy, bản chất của việc lựa chọn luật áp dụng

đối với hợp đồng cũng là một hình thức thể hiện các nguyên tắc tự do ý chí.
5Xem Luật mẫu của UNCITRAL về Thương mại điện tử năm 1996 (sửa đổi năm 1998), từ Điều 5
đến Điều 15.
6 Viện Đại học mở Hà Nội, giáo trình Tư Pháp Quốc Tế, NXB Tư Pháp – 2013, tr.113
7
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
Hiện nay, tự do hợp đồng đã trở thành một nguyên tắc trung tâm của hợp đồng
của nhiều quốc gia và trong các điều ước quốc tế cũng như thực tiễn pháp lý các
nước và pháp luật Việt Nam
7
. Cụ thể:
• Theo điều ước quốc tế.
- Các điều ước song phương mà Việt Nam tham gia kí kết không có nhiều quy
định về vấn đề này, và cũng có ít điều ước có quy định. Trong đó, theo Điều 36
Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam kí kết với Nga quy định: “ Nghĩa vụ phát
sinh trong hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước do các bên lựa
chọn, nếu điều đó không trái với pháp luật của các bên kí kết.”
8
. Như vậy, Hiệp
định này cũng ghi nhận nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa các bên chủ thể của
hợp đồng, đồng thời cũng quy định luật của các bên kí kết cũng có vai trò xác
định tính hợp pháp về nội dung của hợp đồng.
- Điều 3 của Quy chế Rome I năm 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp
đồng cũng ghi nhận nguyên tắc tự do thỏa thuận (freedom of choice)
9
theo đó,
hợp đồng được điều chỉnh bởi pháp luật được lựa chọn bởi các bên. Sự lựa chọn
phải được thể hiện hoặc chứng tỏ một cách chắc chắn hợp lý theo các điều
khoản của hợp đồng và các bên có thể lựa chọn pháp luật áp dụng cho toàn bộ
hoặc một phần của hợp đồng.

• Theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Pháp luật Việt Nam cũng cho phép các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật
áp dụng đối với quan hệ hợp đồng tại khoản 1 Điều 769 BLDS nêu rõ: “Quyền
và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng dân sự được xác định theo pháp luật của
nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thoả thuận khác”. Theo đó, các bên
chủ thể được phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ
trong hợp đồng của mình.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật thương mại 2005; Luật trọng tài thương
mại năm 2010 cũng quy định Điều 14: “Đối với tranh chấp có yếu tố nước
ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn ”
a. Cách lựa chọn luật áp dụng.
Để lựa chọn luật áp dụng các bên phải thể hiện điều đó một cách minh
bạch rõ ràng hoặc thông qua một điều khoản riêng, điều khoản chọn luật áp
7 Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 quy định tại Điều 1.1 “các bên được
tự do giao kết hợp đồng và thỏa thuận nội dung của hợp đồng và thỏa thuận nội dung của hợp đồng”; Hay
BLDS 2005 của Việt Nam quy định tại Điều 4, Điều 389 “Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội”
8 Khoản 1 Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ngày 25 tháng 8 năm 1998.
9 Phụ lục
8
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
dụng hay thông qua chính các điều khoản nội dung trong hợp đồng. Điều khoản
riêng về chọn luật áp dụng có ý nghĩa trong việc đảm bảo an toàn về mặt pháp
lý, tránh những rủi ro.
- Điều khoản chọn luật áp dụng. Trong hợp đồng quốc tế có xây dựng điều khoản
riêng về chọn luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng thì sẽ giúp đảm bảo sự an
toàn về mặt pháp lý, tránh các rủi ro không liệu trước. Thực tiễn và pháp luật các
nước đã thừa nhận quyền tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp
đồng rất rộng. Cụ thể:

+ Luật do các bên thoả thuận là chính các điều khoản trong hợp đồng.
+ Luật do các bên thoả thuận là pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế hay
tập quán quốc tế.
Như vậy có thể thấy, luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế không chỉ giới
hạn là hệ thống pháp luật của các quốc gia trong hợp đồng quốc tế mà còn có thể
là các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế như bộ các Điều kiện thương mại quốc
tế INCOTERMS, các nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế UNIDROIT
(PICC) hay UPC 600 quy tắc để thực hành thống nhất về thư tín dụng trong hoạt
động thanh toán quốc tế,
- Thời điểm lựa chọn pháp luật áp dụng: Về thời điểm lựa chọn pháp luật áp dụng
hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng, tuy nhiên thực tiễn giao
kết và giải quyết tranh chấp về hợp đồng các bên có thể lựa chọn luật áp dụng
đối với hợp đồng vào mọi thời điểm từ khi xây dựng điều khoản hợp đồng hoặc
trong giai đoạn thực hiện hợp đồng và cả sau khi phát sinh tranh chấp.
10
b. Phạm vi áp dụng của luật do các bên thỏa thuận.
Hệ thống pháp luật được các bên lựa chọn chỉ có hiệu lực pháp lý đối với
chính bản thân các vấn đề pháp sinh từ nội dung của hợp đồng, nó loại trừ các
vấn đề về hình thức và xác định tư cách chủ thể của các bên. Luật áp dụng điều
chỉnh nội dung của hợp đồng để xem xét các vấn đề:
- Pháp luật áp dụng điều chỉnh các vấn đề về nội dung hợp đồng: giải thích pháp
luật, thực hiện hợp đồng, hậu quả vi phạm một phần hay toàn bộ hợp đồng, hậu
quả của hợp đồng vô hiệu, các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng, thời
hiệu.
- Các bên có thể lựa chọn luật áp dụng đối với một phần hoặc toàn bộ hợp đồng
(có thể áp dụng nhiều luật nhưng phải thống nhất với nhau).
Ngoài ra cần có một số lưu ý về phạm vi áp dụng luật do thỏa thuận của các
bên. Pháp luật quốc gia và quốc tế đều có các quy định giới hạn phạm vi của
nguyên tắc tự do ý chí. Trong một số trường hợp các bên không được thỏa thuận
10 Xem giáo trình Tư Pháp Quốc Tế, Viện Đại Học Mở Hà Nội, tr.115

9
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
lựa chọn luật áp dụng mà phải áp dụng một cách bắt buộc các quy phạm có tính
chất mệnh lệnh
11
.
3. Nguyên tắc chọn luật áp dụng với nội dung hợp đồng trong trường hợp các
bên không thỏa thuận luật áp dụng.
Trong trường hợp khi xảy ra tranh chấp, mà các bên không thỏa thuận
chọn luật áp dụng hoặc việc lựa chọn luật áp dụng không đầy đủ, không rõ ràng
thì các cơ quán tài phán (tòa án, trọng tài) sẽ chọn luật áp dụng dựa trên những
nguyên tắc của tư pháp quốc tế. Cụ thể đối với trường hợp này chủ yếu áp dụng
“Nguyên tắc Luật nước nơi thực hiện hợp đồng”.
• Theo Điều ước quốc tế.
- Các điều ước song phương mà Việt Nam tham gia kí kết không có nhiều quy
định về vấn đề này, và cũng có ít điều ước có quy định. Trong đó, theo Điều 36
Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam kí kết với Nga quy định: “ Nếu các bên
không lựa chọn luật áp dụng thì áp dụng pháp luật của bên kí kết nơi bên phải
thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng thường trú, được thành lập hoặc có trụ
sở”
12
. Như vậy, Hiệp định này cũng ghi nhận nguyên tắc Luật nước nơi thực hiện
hợp đồng đối với trường hợp các bên không có thỏa thuận.
- Quy chế Rome I năm 2008 cũng quy định các trường hợp các bên không lựa
chọn luật áp dụng, thì luật áp dụng đối với nghĩa vụ của hợp đồng là luật của
nước có kết nối chặt chẽ nhất với hợp đồng
13
. Tuy nhiên Việt Nam chưa là thành
viên của Quy chế Rome I năm 2008 nên việc áp dụng Rome I chỉ có thể đặt ra
khi các quy phạm xung đột của Việt Nam dẫn chiếu đến áp dụng Rome I.

• Theo pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, việc chọn luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng tại Việt
Nam thuộc về các cơ quan tài phán (chủ yếu là tại tòa án và trọng tài). Nếu
tranh chấp giải quyết tại trọng tài thì trọng tài có thể lựa chọn theo nguyên tắc
sau:“Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, hội đồng trọng tài áp dụng pháp
luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì
hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà hội đồng trọng tài cho là
phù hợp nhất”
14
. Để chọn luật nội dung điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố
nước ngoài, cơ quan tài phán có thể áp dụng các quy phạm của tư pháp quốc tế
11 Phụ lục , mục 2
12 Khoản 1 Điều 36 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ngày 25 tháng 8 năm 1998.
13 Điều 4 Quy chế Rome I năm 2008
14 Khoản 2 Điều 14 Luật Trọng Tài 2010
10
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
theo Điều 769 BLDSVN 2005: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng
dân sự được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu
không có thoả thuận khác”.
Như vậy, nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật pháp luật về nội dung
hợp đồng theo pháp luật Việt Nam hiện nay là “luật nơi nước thực hiện hợp
đồng” sẽ là pháp luật xác định tính hợp pháp về nội dung hợp đồng.
Thực tế cho thấy việc xác định nơi thực hiện hợp đồng hết sức phức tạp,
mỗi loại hợp đồng sẽ có cách xác định nơi thực hiện hợp đồng khác nhau và
một số loại hợp đồng đặc thù sẽ không có nơi giao kết hợp đồng như hợp đồng
thương mại điện tử. Theo quy định Khoản 2 Điều 769 BLDSVN 2005 quy định:
“Trong trường hợp hợp đồng không ghi nơi thực hiện thì việc xác định nơi thực
hiện hợp đồng phải tuân theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Như vậy, khi trong hợp đồng có quy định rõ nơi thực hiện hợp đồng thì luật áp
dụng là luật của nước nơi hợp đồng được thực hiện. Còn nếu không có thỏa
thuận thì xác định nơi thực hiện hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. Bên cạnh
đó lưu ý không có dẫn chiếu ngược trong lĩnh vực hợp đồng bởi lẽ việc chọn
luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng chỉ bao gồm luật nội dung chứ không
bao gồm quy phạm xung đột trong quan hệ hợp đồng. Nói cách khác, việc chọn
luật áp dụng đối với hợp đồng là chọn pháp luật thực chất của quốc gia chứ
không bao gồm các quy phạm xung đột, nên không có dẫn chiếu ngược trong
lĩnh vực hợp đồng
15
.
KẾT LUẬN
Việc hiểu rõ nguyên tắc chọn luật áp dụng để xác định hiệu lực pháp lý
của hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam hay pháp luật các
nước trên thế giới giúp cho các chủ thể giao kết hợp đồng đảm bảo được quyền
lợi thông qua việc tránh được những sai sót không đáng có về tư cách chủ thể,
hình thức hay nội dung khiến hợp đồng không có hiệu lực pháp lý - bị vô hiệu
một phần hay toàn bộ, gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia giao kết khi thực
hiện giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài./.
PHỤ LỤC
1. Khoản 1 Điều 3 Quy chế Rome I năm 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp
đồng: “ Hợp đồng chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật do các bên lựa
chọn. Sự lựa chọn luật phải được thể hiện hoặc chứng tỏ với sự chắc chắn hợp
lý (reasonable certainty) bằng các điều khoản của hợp đồng hoặc hoàn cảnh
15 Xem Đỗ Văn Đại “Tư pháp quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lính vực hợp đồng” Tạp chí nghiên
cứu lập pháp số 10/2003
11
Tư pháp Quốc tế - Lớp NO3. TL2. Nhóm 2
của vụ việc. Các bên có thể lựa chọn luật áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ
hợp đồng”.

2.
- Theo pháp luật Việt Nam sự thỏa thuận cũng bị hạn chế tại khoản 3 Điều 759
BLDSVN năm 2005: “ Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường
hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với
quy định của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”.
- Quy chế Rome I năm 2008 cũng đề cập tới vấn đề có một số hạn chế đối với
nguyên tắc tự do ý chí của các bên khi giao kết hợp đồng tại khoản 4 Điều 3
Quy chế Rome I năm 2008:
“3. Nếu tại thời điểm kí kết hợp đồng, tất cả các yếu tố liên quan đến vụ
việc được xác lập tại một quốc gia không phải là nơi có luật áp dụng, thì luật
của quốc gia đó sẽ được áp dụng bất kể thỏa thuận của các bên
4. Nếu tại thời điểm kí kết hợp đồng, tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc
được xác lập tại một hoặc nhiều quốc gia thành viên, thì bất kể thỏa thuận của các
bên, luật của tòa án
(1)
sẽ được áp dụng”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Dân sự Việt Nam 2005.
2. Quy chế Rome 2008.
3. Công ước Viên 1980.
4. Luật trọng tài Việt Nam 2010.
5. Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học Luật Hà Nội. Nxb Tư pháp.
6. Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học Mở Hà Nội, 2013.
7. Tư pháp quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lính vực hợp đồng.
Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 10/2003
8. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán quốc tế - khóa luận tốt nghiệp, tg Nguyễn
Khánh Linh, hà Nội – 2011.
9. Một số hiệp định tương trợ tư pháp, điều ước quốc tế của Việt Nam với
các quốc gia.

Và một số văn bản pháp luật, bài viết, website có thông tin liên quan.
12

×