Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận khủng hoảng tiền tệ châu á và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.61 KB, 19 trang )

Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
I. Nguyên nhân
Trên khía cạnh tài chính, cuộc khủng hoảng nổ ra do các nguyên nhân sau:
1. Một là duy trì Tỷ giá ổn định quá lâu so với đồng USD
Việc duy trì này của các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn nền kinh tế Mỹ
rất nhiều đã khiến cho các nước này thay vì để đồng tiền của nước mình tăng giảm
theo đúng giá trị của nó lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD để cố gắng duy trì mức cân
bằng giả tạp tới mức k thể kìm giữ nổi.
2. Hai là buông lỏng và bao che những yếu kém trong công tác điều phối kiểm
tra giám sát hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng.
Trong khi các hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân
hàng vẫn dậm chân tại chỗ, thậm chí chính phủ đã can thiệp vào hệ thống tài chính
thông qua ngân hàng quốc doanh hoặc chỉ thị cho những ngân hàng tư nhân cấp tín
dụng với lãi suất thấp cho các công ty được chính phủ ưu đãi. Khắp khu vực tràn lan
tình trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho những ngành công nghiệp có chọn lọc và
những ngành độc quyền được chính phủ bảo hộ. Lơi dụng kẻ hở này các doanh nghiệp
đã tìm cách vay ngắn hạn của nước ngoài (chủ yếu là đầu tư vào bất động sản với ý
định trải các khoản nợ và sự thua lỗ trong sản xuất công nghiệp, nhưng thị trường bất
động sản trong thời gian này lại có nhiều bất lợi) gây ra khoản nợ không có khả năng
thanh toán trong khi thị trường biến động
3. Ba là cán cân vãng lai thâm hụt lớn và cơ cấu đầu tư nước ngoài đổ vào
trong nước không hợp lý.
Đây chính là nguyên nhân gây mất ổn định trong hệ thống tài chính tiền tệ. Sự
suy giảm giá trị hàng xuất khẩu và nền kinh tế giảm sức cạnh tranh, nhưng hàng nhập
khẩu lại tăng nhất là hàng xa xỉ ( đặc biệt là Thái Lan). Cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào
các nước chịu khủng hoảng nặng có sự mất an toàn cao do khối lượng nợ lớn tăng
nhanh chủ yếu là vốn ngắn hạn (vốn vay thời hạn dưới 1 năm chiếm tới 70% tổng số
nợ khu vực tư nhân tại Thái Lan và Indonesia). Mặt khác, vốn huy động gián tiếp qua
thị trường chứng khoán tăng nhanh trong khi dự trũ quốc gia không cao, vì kim ngạch
xuất khẩu giảm dần, nghĩa là có sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài (mà nguồn


này là chủ yếu dùng cho đầu tư bất động sản) dẫn tới việc cung tiền vượt quá cầu tiền,
Trang 1
Phần 1: Khủng hoảng tiền tệ
Châu Á 1997
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
tình trạng nợ đọng ra tăng và việc mua vét ngoại tệ để trả đáo hạn là không thể tránh
khỏi.
4. Các nguyên nhân khác
Sự lũng đoạn của các tổ chức tài chính và mối liên quan chặt chẽ giữa tổ chức
này với chính phủ, đã gây nên tình trạng tham nhũng nặng nề ở các nước châu Á khiến
cho chính phủ không thể mạnh tay trong việc xử lý những bê bối nội bộ của mình. Hay
do hệ thống pháp luật không thích hợp với cơ chế mới. hệ thống giáo dục kém phát
triển, thiếu trầm trọng các lao động lành nghề, mức lương thực tế tăng nhanh trong lúc
Trung Quốc và Ấn Độ tham gia vào thị trường xuất khẩu với chi phí thấp, giá thành hạ
làm cho các nước bị khủng hoảng mất lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hầu
như, những lý do trên đây là những vấn đề còn tồn tại ở các nước bị khủng hoảng do
mối quan hệ ràng buộc giữa Nhật Bản, Hàn Quốc với các nước ASEAN, nên khi cuộc
khủng hoảng nổ ra ở một nước, nó lập tức lan truyền sang các nước khác theo mô hình
phân tích ở trên, gây ảnh hưởng nặng nề cho các nước đó. Vì vây, nước này không thể
đổ lỗi hoàn toàn những hậu quả của cuộc khủng hoảng là do nước kia
II. Diễn biến cuộc khủng hoàng tiền tệ Châu Á
2.1. Thái Lan
Khi đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đầy đủ thông tin về
các nguy cơ sẽ rất lo lắng. Lo sợ các ngân hang và tổ chức tài chính sẽ phá sản, do đó
thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi các tổ chức này. Lo sợ tỷ giá hối đoái tang, đồng Baht mất
giá sẽ khiến họ đổ xô mua ngoại tệ mạnh, làm cho cầu ngoại tệ tang.
Thực tế ở Thái Lan, từ đầu năm 1996 đến 1997, người dân và các nhà đầu tư
bắt đầu rút vốn của mình ở dạng tiền mặt ra khỏi các ngân hang và các công ty tài
chính, buộc chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoán một ngày 3/3/1997 và
yêu cầu mọi tổ chức tài chính phải tăng them dự trữ tiền mặt, và công bố 10 công ty tài

chính đang ở trạng thái không bình thường (Unico Housing Co.Ltd; Thai – Fuji; Royal
International; Sri Dhana; Eastern Finance;County v.v…).
Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản do thị trường
nhà đất đóng băng, mất khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
Ngày 4 và 5/3/1997, hơn 21,4 tỷ Baht (tương đương 820 triệu USD thời đó) đã
được rút khỏi ngân hang và các công ty tài chính
Sau đó 1 tháng, ngày 9/4/1997 tỷ giá hối đoái đã tang lên 26,08 Baht/USD, cao
nhất từ năm 1991, nguyên nhân do lực cầu ngoại tệ quá mạnh
Ngày 25/6/1997, chính phủ Thái Lan đã ra lệnh đóng cửa hàng loạt các công ty
tài chính trên cả nước, ước tính khoảng 64% bị đóng cửa. Để giữ tỷ giá hối đoái trong
điều kiện lượng ngoại tệ được đặt mua tăng vọt, chính phủ đã phải bán ngoại tệ, làm
dự trữ ngoại tệ giảm mạnh từ 38,78 tỷ USD trong tháng 6/1996 còn 37,7 tỷ USD trong
Trang 2
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
tháng 12/1996 và còn 31,4 tỷ USD vào 30/6/1997, và càng ngày lượng dự trữ ngoại tệ
của Thái Lan giảm xuống, khả năng bán ngoại tệ không còn, dãn đến không thể duy trì
tỷ giá hối đoái.
Có lẽ thấy được nguy cơ này, ngày 2/7/1997, chỉnh phủ Thái Lan tuyên bô thả
nổi đồng Baht, kết quả tỷ giá từ 25 Baht(6/1997) tăng lên thành 53 Baht/USD
(1/1998), tức là 112% trong vòng 6 tháng.
Như vậy, nền kinh tế Thái Lan đã rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng trong
lịch sử, và tai hại hơn đây chính là sự khởi đầu cuôc bùng nổ của khủng hoảng ở Châu
Á.
2.2. Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3/7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng
cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%.Nhưng không
thành công, vào ngày 11/7/1997, Philippines tuyên bố thả nổi đồng Peso. Khiến cho
đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm
2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.

Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan
tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm
2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn
khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc
đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên
làm tổng thống.
2.3. Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2/7/1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar.
Ngày 11/8/1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường hối đoái
(thực chất là thả nổi đồng Ringgit), nguyên do là phần lớn sức ép giảm giá đối với
Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những
người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra
nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết
quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra
nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm
1997.
2.4. Indonesia
Trang 3
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ
từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế
độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn
toàn(14/8/1997). Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài
chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do
đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả
giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.

Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình
hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến
cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng
lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có
tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn
tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của
Indonesia đã giảm đi.
2.5. Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng
nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong
nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á
bị khủng hoảng.
Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won là 844,2 KRW/USD, ngày 30/9/1997 là
914,8 KRW/USD, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc
ở quy mô lớn. Ngày 28/11/1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của
Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11/12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá.
Riêng trong ngày 7/11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24/11 lại
tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Ngày 14/12/1997, Chính phủ Hàn Quốc tuyên bố mất kiểm soát đồng Won, ngày
23/12/1997, tỷ giá đồng Won là 1200 KRW/USD và đạt kỷ lục là xấp xỉ 1700
KRW/USD
2.6. Hong Kong
Trang 4

Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Tháng 10/1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được
neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong
lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ
hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1
hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ
USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ
đổ vỡ. Từ ngày 20/10 đến 23/10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%.
Ngày 15/8/1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành
23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt
đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm
giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau
này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới
đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15
tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số
chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar
Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán
của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt
hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp
đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1
3. Hậu quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất
giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á.
Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng
nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia,
Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto
ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia

tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung
ương của nước này suy yếu.
Cụ thể các nước như sau:
Hậu quả thứ nhất về tình trạng tăng tỷ giá hối đoái khá nhanh ở các nước
bị ảnh hưởng
Bảng 1: Tỷ giá hối đoái bình quân ở các nước thì hầu hết tăng khá mạnh
Tỷ giá bình quân 1996 1997
Baht/USD 25,61 47,25
Trang 5
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Peso/USD 26,29 39,50
Ringgit/USD 2,52 3,88
Rupiah/USD 2.308 5.400
KRW/USD 844,2 1.695,8
Nguồn: IMF
Hậu quả thứ 2 là sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường
của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia
Bảng 2: Tình trang thua lỗ và phá sản ở các hệ thống ngân hàng, TCTC
Năm tài chính từ 1/4/1997 đến 31/3/1998
Nước Tổng số
ngân
hàng
Số ngân
hàng bị
đình chỉ
Số ngân
hàng bị
quốc hữu
hóa

Số ngân
hàng bị
sáp nhập
Số ngân
hàng bị bán
cho nước
ngoài
Tổng số
ngân hàng
có vấn đề
Thái Lan 108 54 2 2 4 64 (59%)
Malaysia 60 41 41 (68%)
Indonesia 228 16 56 11 83 (36%)
Hàn Quốc 56 16 2 18 (32%)
(Nguồ
n: Trích “khủng hoảng kinh tế tài chính 1997-1999 – GS Nguyễn Thiện Nhân”)
Hậu quả thứ ba, sự phá sản có quy mô lớn của các doanh nghiệp
Bảng 3: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp
Nước Thời gian Số doanh nghiệp phá sản
Thái Lan Tháng 1/1998 đến
tháng 5 năm 1998
3.961 doanh nghiệp ngừng hoạt động, trong
đó có 582 phá sản
Malaysia Năm 1996
Năm 1997
489 doanh nghiệp phá sản
6.583 doanh nghiệp phá sẩn (gấp hơn 13 lần
so với năm 1996)
Indonesia Năm 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngưng hoạt động
Hàn Quốc Năm 1997

Năm 1998
14.000 doanh nghiệp phá sản
54.000 doanh nghiệp phá sản (gấp 3,8 lần
năm 1997)
(Nguồn: Trích “khủng hoảng kinh tế tài chính 1997-1999 – GS Nguyễn Thiện Nhân”)
Hậu quả thứ tư, số người thất nghiệp tăng nhanh và tăng trưởng kinh tế giảm
sút.
Bảng 4: Tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp
Trang 6
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Nước Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp(%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 6,7 -0,4 -8,3 3,3 3,7 8,8
Malaysia 8,2 7,0 2,0 2,6 2,7 5,0
Indonesia 7,8 4,6 -13,7 2,2 3,0
Philippine
s
5,8 5,2 -0,5 9,5 10,4 3,3
Hàn Quốc 7,1 5,5 5,8 2,3 2,5 8,0
(Nguồn: Trích “khủng hoảng kinh tế tài chính 1997-1999 – GS Nguyễn Thiện
Nhân”)
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng khác là là GDP và GNP bình quân đầu
người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là
nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu
nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống
còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD,
của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn
tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị
khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI

vào giảm.
4. Biện pháp khắc phục
Thực tế thì mỗi trong số các nước nói trên có một
cách đối phó với khủng hoảng và lộ trình tái cấu trúc khác
nhau cùng với những trải nghiệm khác nhau nhưng nghiên
cứu kỹ thì thấy một số điểm chung có thể đúc kết là:
• Thứ nhất, ổn định hệ thống tài chính và khôi phục
lòng tin của công chúng đối với khả năng quản lý
kinh tế, ổn định vĩ mô của chính phủ.
• Thứ hai, áp dụng khẩn cấp các biện pháp ngăn chặn sự tháo chạy khỏi hệ thống
ngân hàng, duy trì hệ thống thanh toán, hạn chế sự hỗ trợ thanh khoản từ
NHTW, hạn chế tối đa sự lệch lạc dòng chảy tín dụng, duy trì kiểm soát tiền tệ
và ngăn chặn dòng vốn rút ra nước ngoài.
• Thứ ba, hỗ trợ thanh khoản của NHTW lúc đầu là hết sức cần thiết nhưng sau
đó phải giảm dần kèm theo với việc đóng cửa một số tổ chức tài chính yếu kém
khi điều kiện đã chín muồi. tập trung xử lý những vấn đề cấp thiết như: tỷ giá,
lãi suất ngắn hạn, dự trữ ngoại tệ hơn là tập trung vào xử lý những vấn đề tổng
thể vốn đã bị mất cân đối nghiêm trọng.
• Thứ tư, thiết lập một hành lang pháp lý phù hợp làm cơ sở cho việc loại bỏ khỏi
hệ thống những tổ chức tài chính yếu kém, củng cố tiềm lực cho các tổ chức tài
chính thiết yếu đối với nền kinh tế, xử lý các khoản nợ xấu, tăng cường thể chế
giám sát và minh bạch hóa các hoạt động của hệ thống tài chính.
Trang 7
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
• Thứ năm, cần có những quy định cụ thể về các phương pháp và tiêu chí định giá
phù hợp và tham chiếu kết quả của nhiều tổ chức định giá chuyên nghiệp khác
nhau. Việc thiết lập các tiêu chí đồng bộ, đầy đủ và công khai minh bạch đóng
vai trò quan trọng nhất đối với quá trình tái cấu trúc.
• Thứ sáu, việc định giá tài sản, xác định thiệt hại của các khoản nợ xấu và việc
tái cấu trúc vốn là cần thiết và cũng phải được thực thi và giám sát một cách

chặt chẽ. Nếu số ngân hàng này không đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thì bắt
buộc phải tái cấu trúc vốn và nâng cao tỷ lệ an toàn vốn đồng thời phải được
giám sát chặt của các cơ quan công quyền.
• Thứ bảy, chính phủ đứng ra mua lại, quốc hữu hóa một số ngân hàng hoặc
thành lập một công ty quản lý mua bán nợ trung gian sau đó sẽ tái vốn hóa
những ngân hàng này hoặc bán lại cho một ngân hàng, tổ chức tài chính khác
• Thứ tám, chi phí cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tài chính là vô
cùng lớn. Ước tính chi phí thiệt hại ngân sách phải gánh chịu để đối phó với
khủng hoảng tài chính và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tài chính của 4 nước
Châu á năm 1997 – 1998 nằm trong khoảng từ 15 đến 45% GDP.
• Thứ chín, vai trò của nhà nước và sự quyết tâm chính trị cao là nhân tố quan
trọng giúp cho quá trình tái cấu trúc thành công.
• Thứ mười, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng không thể tách rời với tái cấu trúc hệ
thống doanh nghiệp
Sau khi tái cấu trúc, những tiêu chuẩn, chuẩn mực nội địa của hệ thống ngân
hàng – tài chính của tất cả các nước đều tiến gần hơn tới những chuẩn mực và thông lệ
quốc tế. Sự minh bạch hóa thông tin hệ thống tài chính, ngân hàng được cải thiện, khả
năng giám sát và cảnh báo sớm của các cơ quan chức năng cũng hiệu quả hơn. Đặc
biệt, kỹ năng phân tích và dự báo từ những bài học trong quá khứ và các trường hợp
điển hình trên thế giới được vận dụng sát với thực tiễn và hoàn cảnh điều kiện của mỗi
nước cũng là những nhân tố đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống
ngân hàng – tài chính của các nước trong suốt giai đoạn từ khi xảy ra khủng hoảng đến
nay.
I. Nguyên nhân
1.1. Nguyên nhân sâu xa:
Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian dài.
Trang 8
Phần 2: Khủng hoảng
tài chính thế giới 2008
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008

Để phục hồi nền kinh tế sau cuộc suy thoái 2001 và khủng bố 11/9, FED đã liên
tiếp giảm lãi suất liên ngân hàng (từ 6,5% xuống 1,75%), chính sách nơi lỏng tiền tệ
đã kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay,
đầu tư mạo hiểm
Sự buông lỏng trong cơ chế quản lý nhà nước.
Mỹ cho phép các ngân hàng thương mại hoạt động đa năng khắp cả nước, thay
vì hạn chế mỗi ngân hàng ở một bang. Các ngân hàng thương mại hoạt động như công
ty đầu tư tài chính. Mỹ còn còn cho mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài chính mới
xuất hiện mà không có sự kiểm soát nào, cho phép các công ty bảo hiểm cả những gì
gần như không thể bảo hiểm được như bảo hiểm giá trị chứng khoán, nhất là loại
chứng khoán không có bảo chứng. Khi thị trường xuống dốc, các công ty này phá sản
vì không có khả năng thanh toán. Ngoài ra, Mỹ cũng cho phép các hành động đầu cơ,
bán khống.
1.2. Nguyên nhân trực tiếp
Nợ dưới chuẩn
Được hiểu là các khoản vay cho các đối
tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng
này là những người nghèo, không có việc làm
ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử
thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ.
Những đối tượng này tiềm ẩn khả năng không
thanh toán được khi nợ đến hạn. Tại Mỹ, nợ
dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản
phẩm cho vay thế chấp mua nhà, trả góp ô tô, thẻ tín dụng v.v…
Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn từ việc bất cân đối về nguồn
vốn tín dụng toàn cầu, trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ
mở, thì nhu cầu vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron,
Worldcom v.v… lai suy giảm. Sự bất cân dối này dẫn đến việc nguồn vốn sử dụng
không hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là biện pháp giải quyết thừa vốn và tối đa hóa
lợi nhuận. nhưng việc cho vay dưới chuẩn thái quá làm cho việc mất kiểm soát tín

dụng, đây chính là nguyên nhân tạo nên khủng hoảng
Chứng khoán hóa
Là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có
thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản trở thành những chứng
khoán có tính thanh khoản cao (cụ thể là chứng khoán hóa BĐS).
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản
vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục
tín dụng bất động sản tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài
Trang 9
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
sản càng tăng, làm cho bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa là giá trị tài sản
đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy tiếp tục như
vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không
nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục
chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả, là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần
lượt báo cáo khoán lỗ kinh doanh.
Các công ty định mức tín nhiệm
Là tổ chức đặc biệt đứng ra xếp hạng các rủi ro của các doanh nghiệp, các
khoản vay tín dụng, có thế chấp. Việc các công ty này đưa ra mức tín nhiệm đối với
một doanh nghiệp, ngân hàng gây ra sức ì tâm lý đến các nhà đầu tư. Mặc dù, các tổ
chức định mức tín nhiệm luôn khẳng định rằng họ tuân thủ một cách chặt chẽ những
quy tắc đạo đức nghề nghiệp, thực tế đã trả lời rằng hàng loạt những khoản vay được
định giá AAA để thực hiện chứng khoán hóa là những khoản vay thứ cấp, người đi
vay k trả được nợ, dẫn đến hiệu ứng domino trong hệ thống tài chính.
CDS – hợp đồng hoán đổi tín dụng
CDS giống như hợp đồng bảo hiểm, vì chúng có thể được các chủ nợ mua để
phòng nguy cơ bên vay không thanh toán được nợ. Tuy nhiên, trên thực tế, do không
có yêu cầu cầm cố tài sản nào nên CDS cũng có thể được sử dụng cho các mục đích
đầu cơ. Do ngày càng có nhiều các công ty của Mỹ không thanh toán được số chứng
khoán phát hành khi suy thoái kinh tế ngày một lún sâu nên sự đổ vỡ của các CDS là

điều không thể tránh khỏi, và phản ứng dây chuyền sự đổ vỡ của CDS hoàn toàn có
thể dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính
Mua bán khống
Các giới đầu cơ ồ ạt vay những cổ phiếu sụt giảm của những tập đoàn vay dưới
chuẩn rồi ồ ạt bán ra, tạo nên áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãng nổi. Sau khi giảm
đến mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm ít phí, còn bao nhiêu tiền
chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Khủng hoảng niềm tin
Các ngân hàng đánh độ lẫn nhau về mức độ cho vay và tín chấp tài sản. Những
giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài
sản thực của ngân hàng. Khi con người ta cảm thấy thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài
chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc, tất cả mọi người đều bị thua
lỗ, độ tin cậy bị xói mòn, xuống cấp.
2. Diễn biến khủng hoàng tài chính toàn cầu 2008
Theo các nhà nghiên cứu, cuộc khủng kinh tế 2008 là cuộc khủng hoảng kinh tế
- tài chính lớn nhất, là cuộc đại suy thoái của thế kỷ XXI. Cuộc khủng hoảng này bắt
đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lan sang các trung tâm tài chính lớn của thế
Trang 10
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
giới như EU, Nhật, Trung Quốc, Nga v.v… gây nên tổn thất vô cùng nặng nề, khiến
cho nền kinh tế thế giới đi xuống. Các nước đang phát triển và các nước nghèo dù ít
hay nhiều, cũng không tránh khỏi tác động của cuộc khủng hoảng này. Trong khi đó,
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lại bắt nguồn từ tinh trạng bong bóng bất động sản tại
Mỹ (khoảng 2005 – 2006) với những khoản cho vay dưới chuẩn có rủi ro cao và
những khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Điều này cho thấy, cuộc khủng hoảng tài
chính tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét của quá trình khủng hoảng rất lâu
trước đó.
Cụ thể:
2.1. Tại Mỹ
2.1.1. Trước 2008

• Từ tháng 5/2001 đến 12/2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5%
xuống còn 1,75%, tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo => đi vay ồ ạt kể cả
nhằm mục đích đầu cơ=> hình thành nên bong bóng nhà ở.
• Năm 2002 – 2004: giá cả nhà đất tại các bang California, Florida, Hawaii và
Nevada tăng trên 25%/ năm. Sự bùng nổ nhà đất của Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: bong bóng nhà ở Mỹ bắt đầu rạn nứt vào 8/2005. Tỷ lệ lãi suất cho
vay BĐS tăng từ 1% lên 5,35%
• Năm 2006 Thị trường BĐS tiếp tục suy giảm => một lượng nhà dư thừa đáng
kể.
• Năm 2007: hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản, gần 1,3 triệu
BĐS nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
• Ngày 5/2: công ty Mortage lenders network USA đủng thứ 15 trong số các nhà
cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ phá sản (dư nợ 3,3 tỷ USD)
• Ngày 2/4: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, nộp
đơn phá sản theo chương 11 Luật phá sản Mỹ.
• Ngày 31/7: Hai quỹ đảm bảo của Bear Stearns phá sản
• Ngày 16/8: tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất
nước Mỹ phải vay 11 tỷ USD từ các ngân hàng khác để tránh phá sản.
• Ngày 18/9: FED tiếp tục hạ mức hệ số chiết khấu 50 didemr cơ bản xuống còn
5,25,%
• Từ ngày 15-17/10: CitiGroup – công bố lợi nhuận quý 3 giảm 57% do các
khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành
CitiGroup phải từ chức.
• Ngày 31/10: FED hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5 %
• Tháng 12/2007: tổng thống G. Bush tuyên bố kế hoạch giúp đỡ cho thêm 1,2
triệu chủ sỡ hữu BĐS
• Ngày 11/12 FED hạ lãi suất quỹ liên bang xuống 4,25 %
2.1.2. Năm 2008
• Ngày 11/1: Bank of American bỏ ra 4 tỷ USD để mua lại Countrywide
Financial. Và FED tiếp tục hạ lãi suất 50 điểm xuống còn 3,5 %

Trang 11
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
• Ngày 16/3 Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 triệu USD một
cổ phiếu để tránh phá sản
• Tháng 4: IMF thông báo thua lỗ 945 tỷ USD cho cuộc khủng hoảng tài chính.
• Ngày 17/7: các ngân hàng lớn và tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua
lỗ dến 435 tỷ USD
• Ngày 11/9: cổ phiếu ngân hàng Lehman Brothers giảm 45%
• Ngày 15/9: Lehman Brothers tuyên bố phá sản
• Ngày 17/9: Cổ phiếu Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh. FED cho
AIG vay 85 tỷ USD giúp tránh phá sản.
• Ngày 19/9: kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ trị giá
700 tỷ USD được công bố. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ không thông qua kế hoạch
này.
• Ngày 20-21/9: công bố chi tiết kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng
Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn đa năng,
đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại phố Wall
• Ngày 25/9: Washington Mutual Inc. một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ
đã sụp đỡ cũng do đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp.
• Ngày 3/10: cả thượng viên và hạ viện Mỹ thông qua gói cứu trợ 700 tỷ USD.
Ngay sau đó Tổng thống Mỹ đặt bút ký chính thức kế hoạch thành đạo luật
• Tháng 11/2008: AMEX chuyển đổi thành ngân hàng cổ phần
2.1.3. Năm 2009
• Ngày 30/4: hãng chế tạo ô tô lớn thứ ba của Mỹ Chrysler tuyên bố nộp đơn bảo
hộ phá sản.
• Ngày 1/5: quỹ đầu tư BĐS và cho vay thế chấp nhà Thornburg Mortgage nộp
đơn bảo hộ phá sản.
2.2. Tại Châu Âu
• Tháng 7-8/2007: các ngân hàng Đức với những khoản đầu tư không sinh lời tại
thị trường BĐS Mỹ bị cuốn vào khủng hoảng

• Ngày 14/9/2007: ngân hàng Northern Rock (Anh) gặp vấn đề nghiêm trọng về
khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
• Tháng 1/2008: ngân hàng khổng lồ Thụy Sĩ UBS tuyên bố cắt giảm 18 tỷ USD
vào thị trường BĐS
• Ngày 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock
• Ngày 16/3/2008: ngân hàng Đức thông báo thua lỗ 141 triệu Euro trong quý 1
• Ngày 17/7/2008: Martina – Fadesa, hãng đầu tư tài sản lớn nhất Tây Ban Nha
tuyên bố phá sản
• Ngày 29/9/2008: Chính phủ Anh quyết định can thiệp để giữ lại nhà cho vay thế
chấp quan trọng Bradford & Bingley. Chính phủ Hà Lan, Bỉ và Luxembuorg
quyết định tiếp quản phần lớn ngân hàng Belgian – Dutsch
Trang 12
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
• Ngày 4/10/2008: tổng thống Pháp triệu tập cuộc họp khẩn cấp với lãnh đạo 4
nước EU (Anh, Pháp, Đức, Ý) bàn về xử lý khủng hoảng, nhưng không được
thống nhất
• Ngày 5/10/2008: Thủ tướng Đức Angela Merkel chỉ trích quyết định của
Ireland về bảo hiểm toàn bộ tài khoản ngân hàng tại Ireland
• Ngày 6/10/2008: ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi Email thông báo
thõa thuân chi 14,5 tỷ Euro để mua lại ngân hàng Fortis.
2.3. Tại các châu lục khác
• Ngày 17/12/2007: khủng hoảng lan rông san tập đoàn Centro Properties (Úc) .
Cổ phiếu Centro Properties tụt giá 70% tại các giao dịch Sydney
• Ngày 10/1//2008: tập đoàn bảo
hiểm Yamoto Life Insurance Co.
chính thức đệ đơn xin bảo bộ phá
sản. và đây là cột mốc đánh dấu
cuộc khủng hoảng lan sang Châu
Á
3. Hậu quả cuộc khủng

hoảng tài chính toàn cầu
2008
3.1. Hệ thống tài chính sụp đổ:
Số các ngân hàng bị phá sản, sát nhập, giải thể hoặc bị quôc hữu hóa tăng lên
nhanh chóng. Trong năm 2008 tại Mỹ đã có 25 ngân hàng bị phá sản. Từ đầu năm
2009 đén 24/7/2009 thì số ngân hàng bị phá sản tăng mạnh hơn lên 64 ngân hàng. Từ
22/2/2008 đến 29/3/2009 thì tổng số ngân hàng Mỹ và các nước EU bị mua lại là 33.
Đặc biệt, sự sụp đổ của Lehman Brothers đã gây ra những hậu quả không thể
tưởng tượng được cho toàn bộ hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới. Gây thiệt hại
hàng trăm tỷ USD, hệ thống tài chính trở nên hỗn loạn.
3.2. Thị trường chứng khoán chao đảo, suy giảm mạnh
Trong năm 2008, cũng do tác động của cuộc khủng hoảng, trên thị trường
chứng khoán tài chính toàn cầu đã mất khoản 17.000 tỷ USD. TTCK các nước mới
giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%. Mức sụt giảm cao nhất rơi
vào các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc khoảng hơn 70%. Morocco và Israel
là những thị trường có diễn biến tốt nhất
Trang 13
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Nguồn: World Economic Outlook
3.3. Giá bất động sản giảm mạnh
Tính riêng tại Mỹ, trong tháng 11 giá BĐS giảm từ 21% đến 50%, cụ thể ở một
số nơi như: 50% ở Contra Costa; 38% ở Solano, 37% Alameda, 34% ở Santa Clara,
28% ở Napa, 26% ở San Mateo 21% ở San Francisco. Số lượng nhà giao bán tăng do
nhiều người không có khả năng thanh toán khiến các ngân hàng bán ra mạnh hơn, tăng
từ 15% đến 90%. Đây chính là hệ quả của vụ nổ bong bóng bất động sản tháng 7/2007.
3.4. Lãi suất biến động mạnh
Hàng loạt ngân hàng trung ương các nước thực hiện nới lỏng bằng cách liên tục
cắt giảm lãi suất để đối phó với suy thoái kinh tế và bơm thanh khoản vào hệ thống
ngân hàng. Lái suất LIBOR, SIBOR biến động mạnh. Lãi suất SIBOR kỳ hạn qua đêm
ngày 17/9 tăng lên kỷ lục 6,75%/năm, ngày 5/1/2009 giảm xuống mức thấp kỷ lục

0,105%/năm, lãi suất Libor kỳ hạn qua đêm tăng kỷ lục 6,87%/năm ngày 30/9/2008
giảm xuống mức thấp kỷ lục 0,11% vào ngày 19/12/2008
Trang 14
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Nguồn: World Economic Outlook
3.5. Đồng USD lên giá so với đồng tiền khác
Những diễn biến ngoài dự đoán của thị trường tài chính làm bùng nổ khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho nhu cầu thanh khoản USD của các ngân hàng trên
toàn thế giới tăng đột biến, đẩy đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác.
Đồng thời, nguy cơ suy thoái kinh tế tại những nền kinh tế đối trọng của Mỹ như khu
vực đồng EUR, Nhật Bản đã làm giảm lợi thế cạnh tranh giữa các đồng tiền này với
USD. Diễn biến đồng USD từ lúc bắt đầu khủng hoảng đến 12/1 lên giá 6,99% so với
EUR; lên giá 18,06% so với GBP; nhưng giảm giá 17,3% so với YPJ và ổn dình so với
CNY.
3.6. Suy thoái kinh tế trên diện rộng
Tại Mỹ, những ông lớn trong ngành công nghiệp ô tô như Ford, Chrysler …
phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Tháng 9/2008, sản xuất trong toàn nước Mỹ giảm
mạnh nhất trong vòng 34 năm qua với mức giảm 2,8% so với tháng 8/2008. Sản lượng
chế tạo giảm 2,6% trong tháng 9, chỉ số vận hành công xưởng tụt xuống 74,5% dưới
mức trung binh 35 năm 5 điểm kể từ 1972-2007. Kinh doanh của các nhà xây dựng
giảm mức thấp nhất. Tháng 10/2008 mức cắt giảm việc làm lớn nhất Mỹ kể từ tháng
1/2004, 157.000 việc làm bị mất. tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục tăng cao. Tháng 9/2008 mức
giảm bán lẽ là 1,2% giảm xuống còn 0,7% trong tháng 10.
Trang 15
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Tại Châu Âu, tăng trưởng kinh tế trong năm 2008 cũng suy giảm, đặc biệt là từ
cuối tháng 9 đến đầu tháng 10/2008
Bảng tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro và EU 2006-2009
2006 2007 2008 2009
Khu vực đồng Euro 2,8 2,6 1,3 0,2

Đức 3,0 2,5 1,8 0,2
Pháp 2,2 2,2 0,8 0,2
Ý 1,8 1,5 -0,1 -0,2
Tây Ban Nha 3,9 3,7 1,4 -0,2
Anh 2,8 3,0 1,0 -0,1
EU 3,3 3,1 1,7 0,6
Tình hình thất nghiệp khu vực đồng Euro và EU (%)
2007 2008 2009
Khu vực đồng Euro 7,0 7,6 8,4
EU 7,0 7,1 7,8
Chỉ số giá tiêu dùng khu vực đồng Euro và EU
2006 2007 2008 2009
Khu vực đồng Euro 2,2 2,1 3,5 1,9
EU 2,3 2,4 3,9 2,4
4. Biện pháp khắc phục
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính - kinh tế, hầu hết các nước đều thực hiện
đồng bộ 2 công cụ chính sách tài khoá và tiền tệ. Một mặt, kích thích tiêu dùng chính
phủ và kích thích tiêu dùng trong dân cư; mặt khác, giảm bớt khó khăn, giảm chi phí
và giá thành cho các doanh nghiệp để có sản phẩm cạnh tranh hơn, giá rẻ hơn theo
hướng tăng tổng cầu có khả năng thanh toán trên đơn vị hàng hoá. Đồng thời, củng cố
lại các định chế tài chính đã bị tổn thất do khủng hoảng tài chính gây ra như phối hợp
giảm lãi suất, bơm mạnh cung tiền, cứu trợ trực tiếp các ngân hàng và tổ chức tài
chính….
Tại Mỹ, cho đến nay hàng loạt gói kích cầu khẩn cấp có giá trị lớn được chính
phủ các nước thông qua nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế. Ngày 17-2-2009,
Tổng thống Mỹ đã ký Luật tái đầu tư và phục hồi Mỹ (ARRA) với tổng trị giá 787 tỷ
USD, bằng 6% GDP của nước Mỹ. Mục tiêu của gói kích thích kinh tế thứ 2 này là
nhằm tạo 3,5 triệu việc làm, giảm nhẹ tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng đối với
người thu nhập thấp; kích thích đầu tư và tiêu dùng để phục hồi tăng trưởng kinh tế
Trang 16

Nguồn: IMF
Nguồn: EU
Commission
Nguồn: EU Conmission
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
trong 2 năm tới. 65% giá trị của gói kích thích này là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và
35% là giảm thuế. Như vậy, cho đến nay, tổng trị giá gói kích thích kinh tế của Mỹ
qua các đợt đã lên đến 2.250 tỷ USD.
Các nước EU cũng triển khai các gói kích thích kinh tế lớn để đối phó với
khủng hoảng. EU khuyến nghị các nước thành viên cam kết không giảm ngân sách,
thực hiện sớm kích cầu thông qua giảm thuế, tăng cho vay ngắn hạn, cải thiện môi
trường đầu tư, giảm chi phí hành chính và tăng cường đổi mới công nghệ. Là một
trong những nền kinh tế đầu tàu của EU, tháng 12-2008, Đức chi các gói cứu trợ kinh
tế đầu tiên với 31 tỷ USD, gói thứ hai 50 tỷ USD được Hạ viện thông qua ngày 13-2-
2009, tập trung vào xây dựng trường học, đầu tư đường bộ, đường sắt, internet băng
thông rộng, xây dựng, khai thác các nguồn năng lượng sạch.
Tại Pháp, Chính phủ Pháp liên tiếp đã đưa ra những biện pháp đối nội và đối
ngoại để để đối phó với khủng hoảng. Dành 26 tỷ ơ-rô để đầu tư vào 1.000 dự án ưu
tiên trong các lĩnh vực: kết cấu hạ tầng đường bộ và đường sắt; xây dựng nhà ở xã hội;
quốc phòng và an sinh; giáo dục bậc cao và nghiên cứu; bảo tồn bảo tàng. Ngoài biện
pháp hỗ trợ bán ô tô thông qua việc thưởng 1.000 euro cho những người mua ô tô
sạch, chính phủ dành 7,8 tỷ ơ-rô để hỗ trợ hai doanh nghiệp sản xuất ô tô PSA
(Peugeot) và Renault. Tây Ban Nha cũng nhanh chóng thành lập Quỹ đặc biệt kích
thích kinh tế và tạo công ăn việc làm của nhà nước với nguồn vốn 11 tỷ ơ-rô nhằm
mục tiêu tạo ra 300.000 việc làm mới trong năm 2009.
Tại Anh, Anh là nền kinh tế không sử dụng đồng ơ-rô (eurozone).Ngay từ
tháng 9-2008, nước này đã đưa ra kế hoạch giải cứu tổng thể đầu tiên với 400 tỷ bảng
nhằm cung cấp tín dụng, tiếp quản một số ngân hàng lớn có nguy cơ đổ vỡ… Tiếp
đến, tháng 11-2008, đưa ra gói giải pháp kích cầu trị giá 20 tỷ bảng nhằm giảm thuế
VAT; tăng chi của chính phủ, điều chỉnh một số chính sách thuế với doanh nghiệp; an

sinh xã hội.
Tại Nhật Bản, mặc dù hệ thống ngân hàng của Nhật Bản hiện nay không bị
nguy cơ đổ vỡ như của Mỹ và EU, nhưng các ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế bị
đình trệ do xuất khẩu sụt giảm mạnh. Đến nay, Nhật Bản đã công bố gói kích thích
kinh tế 117 tỷ USD trong quý 4/2008 với mục tiêu tạo 1,5 triệu việc làm trong 3 năm,
hỗ trợ tiêu dùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giảm thuế, đầu tư phát triển giao thông,
trợ giá nhiên liệu, lương thực….
Tại Hàn Quốc, chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng thực hiện “chính sách kinh
tế - xã hội mới” với chi phí 38 tỷ USD, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng để tăng việc làm,
tạo điều kiện cho ngành xây dựng cũng như kinh tế địa phương phát triển. Ngoài ra
chính phủ nước này đã tuyên bố kế hoạch phát triển kinh tế xã hội xanh để tạo 96 ngàn
việc làm cho đến năm 2012. Hàn Quốc muốn thông qua những kế hoạch này trước mắt
là tạo việc làm, song về lâu dài để nhằm củng cổ các nền tảng cho sự phát triển sau
khủng hoảng.
Trang 17
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008
Tại Trung Quốc, Trung Quốc gây ngạc nhiên cho toàn thế giới khi công bố gói
kích thích tài chính trị giá 4000 tỷ NDT (tương đương 586 tỷ USD) đến năm 2010 với
10 giải pháp và các hạng mục đầu tư khá rạch ròi, bao gồm: xây dựng các công trình
đảm bảo đảm đời sống, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đường sắt, đường bộ, sân
bay; tăng chi cho phát triển y tế, giáo dục, môi trường sinh thái; phục hồi khu vực
động đất; điều chỉnh cơ cấu; cải cách chính sách thuế giá trị gia tăng; cải tạo kỹ thuật,
giảm thuế cho các doanh nghiệp, tăng mức hỗ trợ tài chính - tiền tệ.
Các nước ASEAN chưa chịu tác động trực tiếp, nhưng khủng hoảng tài chính đã
làm bộc lộ điểm yếu của các nước này là lệ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu (Mỹ,
châu Âu) và chưa thực sự chú trọng thị trường trong nước. Cụ thể là: Xin-ga-po đã đưa
kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 13,7 tỷ USD chủ yếu hỗ trợ các doanh nghiệp và nâng
cao năng lực cạnh tranh; Thái Lan thực hiện gói kích thích kinh tế 8,7 tỷ USD với
trọng tâm nhằm tăng sức tiêu thụ trong nước, hỗ trợ nông dân, xuất khẩu, du lịch, giảm
chi phí dịch vụ công, tạo công ăn việc làm; In-đô-nê-xi-a đang triển khai chương trình

kích thích kinh tế 6,3 tỷ USD nhằm miễn thuế VAT cho 17 lĩnh vực ưu tiên, tạo việc
làm và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân. Phi-li-pin kích thích kinh tế với 6,3 tỷ USD, tập
trung đầu tư công cho phát triển hạ tầng và nông nghiệp, tăng cường an sinh xã hội, y
tế, giáo dục…
Như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008 đã gây ảnh hưởng đến hầu
hết các quốc gia, xuất phát điểm là ngành Tài chính tại Mỹ, nhưng nó đã gây ảnh
hưởng đến hầu hết các lĩnh vực khác của các quốc gia, nhiều doanh nghiệp phá sản,
hiện tượng sáp nhập, phá sản của các ngân hàng, tổ chức tài chính diễn ra liên tục cho
đến nay, tốc độ phát triển kinh tế chậm lại, lạm phát tăng v.v… Do vậy, nhiều quốc
gia đã rút ra những bài học và đã có những đối sách, biện pháp khắc phục hậu quả của
cuộc khủng hoảng. Hiện nay, cơ bản nền kinh tế có xu hướng phát triển trở lại.
Kết luận
Sau khi tìm hiểu cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới 2008, cả hai cuộc khủng hoảng đã cho thấy rằng, xu thế toàn cầu hóa thì cần
phải có sự chuẩn bị thích đáng cho quá trình này đó là tự do hóa tiền tệ. Vừa phải tự
do hóa đồng bộ, vừa phải thận trọng, tính đầy đủ trên điều kiện, tình hình thực tế của
mỗi quốc gia.
Cuộc khủng hoảng cũng đòi hỏi các nước nên có một cơ chế bồi dưỡng các bộ
quản lý nhà nước đặc biệt là ngành Tài chính – Ngân hàng. Vì đây được xem là ngành
huyết mạch của nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng cũng chỉ ra rằng, các quốc gia nên xem xét tình hình tài
chính của thế giới trước những diễn biến xấu, để đưa ra những đối sách phù hợp tình
hình thực tiễn tại các nước.
Trang 18

×