PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Xã Thạch Đỉnh thuộc huyện Thạch Hà với trên 90% dân số sống ở
khu vực nông thôn là một xã có những điều kiện thuận lợi cho phát triển
trồng lạc như: Đất đai màu mỡ, tận dụng được phế phụ phế phẩm của chăn
nuôi, thời gian lao động rộng nhàn rỗi của nông dân, thị trường tiêu thụ sản
phẩm của lạc đang mở rộng.
Trồng Lạc là một nghề truyền thống đã có từ lâu đời trong nông
nghiệp của xã, hoạt động này gắn liền với nông hộ, gắn liền với sự phát
triển của ngành trồng trọt. Nó đem lại thu nhập cao nên diện tích sản xuất
lạc ngày càng được mở rộng trên địa bàn huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh. Các
giống lạc được trồng chủ yếu trên địa bàn tỉnh là Sen Nghệ An, Lạc Cúc,
V79, L14 Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến
năm 2011 đã xác định diện tích trồng lạc là 21,050 ha và sản lượng lạc vào
khoảng 45,495 tấn [18]. Mặc dầu có xu hướng phát triển về diện tích như
vậy, nhưng năng suất trên địa bàn xã vẫn ở mức thấp so với mức chung của
huyện và của cả nước, cũng như so tiềm năng năng suất của các giống.
Để hoạt động canh tác lạc thật sự đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
người nông dân thì việc thay đổi phương thức canh tác lạc hậu sang phương
thức mới có đầu tư tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất là rất quan trọng. Yêu cầu
đặt ra cho người làm công tác chuyển giao phải chuyển giao những kỹ thuật
phù hợp để người dân có thể áp dụng vào hoạt động sản xuất.
Từ trước đến nay, sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế của xã. Nhằm thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất nông
nghiệp và phát huy hết các thế mạnh của địa phương, công tác chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất luôn được Đảng bộ và chính quyền các cấp ở
đây quan tâm. Trong những năm trở lại đây các hoạt động chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật về trồng trọt đặc biệt là trồng lạc ở xã Thạch Đỉnh đã diễn ra
mạnh mẽ với sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị bao gồm cả chính thức
và phi chính thức. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được chuyển giao trong đó nổi
bật là các kỹ thuật về (Giống mới , Chăm sóc bón phân, phủ ni lon, phòng
bệnh…) nhưng nhìn chung khả năng áp dụng ở quy mô nông hộ còn nhiều
hạn chế. Thực tế, nhiều loại tiến bộ kỹ thuật sau khi chuyển giao đạt một số
kết quả nhất định. Song vẩn còn nhiều hoạt động chuyển giao không phát
huy được hiệu quả, hoặc không được nông dân ứng dụng, hoặc sau khi dự
án kết thúc thì không còn áp dụng được và không bền vững, làm hao tốn về
thời gian, công sức và tiền của các bên. Vấn đề này đã tạo ra khoảng cách
lớn giữa nhà nghiên cứu và người nông dân không phục vụ thiết thực cho
sản xuất, việc tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển giao và áp
dụng tiến bộ kỹ thuật của nông hộ trong canh tác lạc là rất quan trọng. Do
đó tôi tiến hành đề tài nghiên cứu:
“ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng tiến bộ kỷ thuật của nông hộ
trong canh tác lạc tại xã Thạch Đỉnh - Thạch Hà- Hà Tĩnh”. Nhằm tìm
ra các giải pháp có tính ưu việt để phát huy các yếu tố tích cực và hạn chế
các yếu tố tiêu cực, thực hiện thành công các chương trình chuyển giao và
nhân rộng
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng việc chuyển giao và áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật trong canh tác lạc ở các nông hộ trên địa bàn xã Thạch Đỉnh.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuyển giao và áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lạc ở các nông hộ.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về tiến bộ kỹ thuật
Tiến bộ kỹ thuật (TBKT) là một danh từ mang tính chất trừu
tượng bao quát. Nó thể hiện những nét mới và tiến bộ của một yếu tố kỹ
thuật nào đó, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh
doanh và cải thiện đời sống nông dân và cư dân nông thôn [4].
TBKT chỉ mang tính chất tương đối vì khi chúng ta đặt nó ở một
vùng này có thể mới nhưng khi đặt nó ở địa phương khác có thể nó
không còn là mới nữa. TBKT có thể là sản phẩm của cơ quan nghiên
cứu và chuyển giao, cũng có thể là sản phẩm của cả quá trình tự đánh
giá, tự lựa chọn và đổi mới của nông dân cho phù hợp hơn với nhu cầu
của sản xuất và đời sống của chính bản thân họ.
2.1.2. Khái niệm về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
Có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển giao TBKT, trong đó
có một số định nghĩa có ý nghĩa gần với thực tế công tác chuyển giao
TBKT ở nước ta của một số tác giả sau:
Theo Swansas và Cloor (1940) thì chuyển giao TBKT hay công
nghệ là một quá trình tiếp diễn nhằm tiếp cận và thông tin có ích cho
con người và từ đó giúp đỡ họ tiếp thu những kiến thức, kỹ năng và
quan điểm cần thiết để sử dụng có hiệu quả lượng thông tin hoặc công
nghệ đó.
Theo Maunder (FAO, 1973) thì cho rằng: Chuyển giao TBKT đó
là một dịch vụ hay hệ thống nhằm thông qua các phương thức đào tạo,
giúp đỡ người nông dân cải thiện các phương pháp, kỹ thuật canh tác,
tăng hiệu quả sản xuất và thu nhập, tăng mức sống và nâng cao trình độ
giáo dục xã hội của cuộc sống nông thôn. [4]
Tóm lại, chuyển giao TBKT đề cập đến một tiến trình, bằng tiến
trình đó những kỹ thuật cải tiến sẽ được chuyển giao đến những ai mà họ có
thể hưởng lợi hoặc cảm thấy họ có thể hưởng lợi từ những kỹ thuật đó. [12]
3
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.
2.1.3.1. Yếu tố bên ngoài
Yếu tố bên ngoài là những yếu tố tồn tại bên ngoài nông hộ. Yếu tố bên
ngoài bao gồm: điều kiện tự nhiên, phương pháp chuyển giao, chính sách của
nhà nước và địa phương, thị trường tiêu thụ và các tổ chức cộng đồng.
Yếu tố điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của một vùng nào đó chính là môi trường sống của những
người dân ở vùng đó. Môi trường sống có thể hình thành cho con người
những thói quen tập quán sinh hoạt phù hợp với môi trường đó. Chính vì thế
môi trường tự nhiên này đã ảnh hưởng đến việc tiếp nhận và ứng dụng các
TBKT của người dân [12].
Đời sống của người dân nông thôn có sự gắn bó chặt chẽ với môi
trường tự nhiên, đó được ví như cái nôi nuôi sống họ từ đời này sang đời
khác. Đối với một vùng hay một khu vực địa lý nào đó, điều kiện tự nhiên
càng thuận lợi thì kinh tế của vùng đó càng phát triển so với các vùng khác.
Sự thuận lợi ở đây không chỉ là những nguồn lợi về vật chất sẵn có mà còn
được thể hiện rõ qua việc áp dụng các loại TBKT trong sản xuất của người
dân. Có thể thấy rằng cùng một loại TBKT nhưng khi đưa đến những vùng
khó khăn như vùng núi hay các vùng sâu, vùng xa thì hiệu quả áp dụng của
nó sẽ không cao bằng các vùng khác, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi
hơn. Sản xuất nông nghiệp gắn liền với môi trường tự nhiên, do đó việc
chuyển giao các TBKT về cây trồng, vật nuôi cũng phải tuân thủ nghiêm
ngặt các yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, nguồn nước…. Do đó để
chuyển giao một TBKT đến người dân, những người làm công tác chuyển
giao đều phải thử nghiệm sau đó mới có thể đưa vào áp dụng, cho nên
không phải tất cả TBKT đều có thể đưa đến cho người dân.
Vị trí địa lý cũng là yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc chuyển giao và áp dụng các TBKT của người dân. Cách trở về địa lý
đã làm giảm cơ hội tiếp cận các TBKT của người dân, đồng thời giảm khả
năng áp dụng do thiếu thốn các nguồn lực đầu vào cho việc áp dụng của họ.
“Vùng có đường giao thông thuận lợi thì cơ hội đầu tư về KHKT nhiều
hơn, kịp thời và thường xuyên hơn”. [3].
4
Yếu tố phương pháp chuyển giao
Phương pháp chuyển giao TBKT trong nông nghiệp là cách thức
chuyển giao thông tin về TBKT bao gồm cả kỹ thuật, cách tổ chức sản xuất
và thông tin thị trường tới nông dân. Nói cách khác, phương pháp chuyển
giao là cách truyền bá các thông tin về TBKT tới nông dân để nông dân áp
dụng được thực hiện trên quy mô rộng. Nhìn chung có 3 phương pháp
chuyển giao:
- Phương pháp tiếp xúc cá nhân: Là phương pháp cán bộ chuyển giao
thăm gặp gỡ và tư vấn cho từng nông dân, trao đổi với nông dân qua thư
điện thoại. Phương pháp này giúp cán bộ chuyển giao giải quyết được các
vấn đề mang tính chất cá biệt cho từng nông dân, nên hiệu quả chuyển giao
khá tốt. Tuy nhiên, việc chuyển giao này chỉ dừng lại ở một số hộ nào đó
do không đủ cán bộ để thực hiện chuyển giao một cách đồng bộ trên địa
bàn rộng lớn hoặc vì những lý do cá nhân mà chỉ một số hộ được cán bộ
quan tâm và chuyển giao.
- Phương pháp thông tin đại chúng: Là phương pháp chuyển giao
TBKT tới quảng đại nông dân thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng như đài, tivi, áp phích, quảng cáo… phương pháp này có thể ưu điểm
là truyền thông tin tới nhiều nông dân, tuy nhiên các hộ nông dân thường có
các quyết định khác nhau nên không thể có một phương pháp chung cho đa
số các hộ.
- Phương pháp tiếp xúc nhóm: Các cán bộ chuyển giao truyền thông
tin về TBKT qua nhóm nông dân thông qua họp nhóm, trao đổi hội nghị
đầu bờ, hội thảo, tập huấn, xây dựng điểm trình diễn và tham gia. Bằng
phương pháp này, cùng một lúc có thể chuyển tải TBKT đến nhiều cá nhân
khác nhau, đồng thời giữa các cá nhân có thể học hỏi, trao đổi nhiều kiến
thức với nhau, giúp đỡ họ nắm được TBKT.
Như vậy mỗi phương pháp trên đều có những ưu và nhược điểm
riêng, ưu điểm của phương pháp này có thể là nhược điểm của phương
pháp khác. Các phương pháp đều có thể ảnh hưởng đến hiệu quả chuyển
giao cũng như sự tiếp nhận bền vững của người dân, do đó việc lựa chọn
phương pháp thích hợp có ý nghĩa quyết định đến thành công của việc
5
chuyển giao. Trong nhiều trường hợp không nhất thiết phải dùng một
phương pháp duy nhất mà tuỳ điều kiện cụ thể để linh hoạt lựa chọn và kết
hợp các phương pháp sao cho hiệu quả nhất.
Yếu tố chính sách nhà nước
Chính sách nông nghiệp, nông thôn “là tổng thể các biện pháp kinh tế hoặc
phi kinh tế liên quan đến nông nghiệp nông thôn và các ngành có liên quan
đến nông nghiệp, nông thôn nhằm tác động nông nghiệp, nông thôn theo
một định hướng với mục tiêu nhất định” [17].
Chính sách nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
sự phát triển kinh tế đất nước, nó không chỉ là chính sách đơn thuần về
nông nghiệp mà là các chính sách, biện pháp tác động vào tất cả các lĩnh
vực, các ngành có liên quan đến nông nghiệp, nông thôn. Trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước đặc biệt là sau đổi mới (1986), ở nước ta đã
sử dụng một loạt các chính sách nông nghiệp bao gồm chính sách tín dụng
nông thôn, chính sách về giá, các chính sách chuyển giao khoa học kỹ
thuật…. Các chính sách này đã có tác động tích cực đến đời sống nhân dân,
góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Các chính
sách về chuyển giao và áp dụng TBKT cũng có đóng góp không nhỏ vào
việc cải tạo nền sản xuất sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Năm 1993 nghị
định 13/CP ra đời, qua đó hệ thống khuyến nông được thành lập từ Trung
ương đến địa phương. Thông qua hệ thống này các TBKT trong sản xuất
nông nghiệp đã được đưa đến tận những người dân ở những vùng nông
thôn xa xôi hẻo lánh nhất, từng bước cải tạo nền sản xuất, góp phần nâng
cao mức sống cho mọi người dân.
Chuyển giao TBKT vào sản xuất là một quá trình, trong đó không
chỉ bên chuyển giao mà bên tiếp nhận đều chịu ảnh hưởng của các chính
sách. Đối với những người làm công tác chuyển giao là những người cán bộ
khuyến nông thì họ chịu tác động của các quy định thực hiện chuyển giao,
còn đối với những người tiếp nhận là nông dân thì các chính sách về hỗ trợ
vay vốn, cơ sở vật chất; chính sách đất đai,… có tác động đến việc áp dụng
các TBKT của họ. Có thể thấy rằng: “các chính sách về chuyển giao TBKT
không những giúp người dân tiếp cận được các TBKT trong sản xuất nông
6
thôn mà còn hỗ trợ điều kiện thuận lợi cho các hộ ở nông thôn tăng cường
phát triển sản xuất, giải quyết khó khăn, từng bước thoát khỏi nghèo đói, làm
cho tỷ lệ đói nghèo hàng năm được giảm xuống, bộ mặt nông thôn Việt Nam
có nhiều đổi mới” [14].
Yếu tố thị trường
Thị trường đầu vào, đầu ra là một trong những yếu tố quan trọng
trong việc tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật mới. Việc phát triển một mô hình có
đầu vào và đầu ra khá thuận lợi và được đảm bảo thì khả năng thành công
của mô hình sẽ rất cao và ngược lại. Một số mô hình được xây dựng thành
công về mặt kĩ thuật và sản lượng đạt được, tuy nhiên thị trường không
đảm bảo thì người dân không đủ tin cậy để áp dụng mô hình [19].
Nếu đầu ra của hộ gặp nhiều khó khăn như: không có thị trường để
tiêu thụ hoặc bị ép giá gây nên tổn thất về kinh tế của nông hộ thì hộ sẽ
ngần ngại trong tiếp nhận và thực hiện TBKT, nếu ban đầu có chấp nhận và
áp dụng nhưng sau một thời gian sẽ dừng lại và không nhân rộng nữa.
Yếu tố về các tổ chức cộng đồng
Các tổ chức cộng đồng thể hiện mối quan hệ xã hội của người dân
trong cộng đồng. Tùy theo từng nơi và từng địa phương mà các tổ chức
cộng đồng có những hoạt động, những chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
Tại các dân tộc miền núi thì người đứng đầu các tổ chức cộng đồng chính là
các già làng, trưởng bản; đây sẽ là những người đưa lại thông tin mang tính
quyết định cho dân bản. Các tổ chức như: hội phụ nữ, hội nông dân, hội
phụ lão, chi đoàn thanh niên và các câu lạc bộ khác sẽ là nguồn đưa lại
thông tin được tin cậy nhất trong cộng đồng địa phương tại miền xuôi. Tuy
tổ chức có vai trò riêng khi tập hợp lại sẽ giải quyết chung những sự việc
của cộng đồng, được đông đảo người dân trong cộng đồng hưởng ứng và
chấp nhận.
Theo Nguyễn Thị Hồng Mai (2001) “sự tồn tại của những mối quan
hệ sản xuất mới trong cộng đồng nông thôn là hết sức quan trọng để phát
huy được sức mạnh chung, vừa tạo điều kiện để các hộ phát triển kinh tế”.
Nếu các tổ chức cộng đồng hoạt động tốt thì mối quan hệ của các thành
viên sẽ tốt hơn, lúc đó mọi thông tin mới trong sản xuất sẽ được truyền bá
7
một cách đầy đủ. Các nông hộ trong cộng đồng sẽ có nhiều cơ hội để học
tập lẫn nhau và cùng giúp đõ nhau để phát triển kinh tế.
2.1.3.2. Yếu tố nội tại
Yếu tố nội tại là những yếu tố mang tính chất chủ quan và phụ thuộc
vào nguồn lực của hộ gia đình như: đất đai, tuổi, số nhân khẩu, trình độ văn
hoá, bình đẳng giới trong việc ra quyết định chấp nhận TBKT.
. Yếu tố nguồn lực của hộ
Các yếu tô về nguồn lực cũng khá quan trọng, nó sẽ quyết định xem gia
đình đó có đủ khả đầu tư vào mô hình, và trang trải các khoản chi phí hay
không [12]. Vì đầu tư ban đầu lớn nên việc áp dụng mô hình không phù
hợp với tâm lý một số người dân nhất là người dân nghèo hay những người
dân sợ rủi ro. Do vậy, các hộ này không có đủ nguồn lực để đầu tư thâm
canh mà chủ yếu dựa vào các phế phụ phẩm từ chăn nuôi để canh tác lạc
theo truyền thống nên hiệu quả kinh tế chưa cao.
Tóm lại, yếu tố nguồn lực của hộ là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng
trong quá trình hộ quyết định áp dụng TBKT và chấp nhận mô hình. Nếu
nguồn lực của hộ ổn định thì họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro và chấp nhận
kinh phí để đầu tư thâm canh. Và ngược lại, khi nguồn lực không ổn định
thì hộ sẽ sợ rủi ro và không đủ kinh phí để chi phí cho đầu tư cho mô hình.
Yếu tố về bình đắng giới
Hiện nay trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng vấn đề bất
bình đẳng giới vẫn đang còn tồn tại không chỉ trong việc tiếp nhận TBKT
mà còn ở nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Sự bất bình đẳng
đó thể hiện qua khả năng tiếp cận giáo dục và các nguồn lực, sự phân công
lao động, quyền quyết định và hưởng thành quả lao động….
Về khả năng tiếp nhận các TBKT, theo tác giả Chi (1998): nữ nông
dân ít được hỗ trợ kỹ thuật từ các dịch vụ khuyến nông, đồng thời theo tác
giả Saito (1992) thì kiến thức nông nghiệp chuyển giao từ người chồng
sang người vợ không có hiệu quả. Thực tế thì điều này cũng dễ hiểu vì phụ
nữ thường ít được học nên khả năng lĩnh hội thông tin kém, đồng thời
thông tin từ người chồng mang lại thiếu độ chính xác do khả năng cũng như
thái độ truyền đạt của họ kém hơn [16].
8
Theo bộ Nông nghiệp & PTNT (1998 và 1999) thì phụ nữ chỉ chiếm
25% trong tổng số người tham gia các chương trình tập huấn về chăn nuôi
và 10% tham gia trong các chương trình tập huấn về trồng trọt trong khi họ
là những người trực tiếp tham gia sản xuất trong các lĩnh vực này . Tác giả
Lâm Thị Mộng Phương cũng cho rằng: các dự án, khuyến nông thường mời
chủ hộ tham gia tập huấn, do vậy có tới 80% nam giới tham gia tập huấn về
kỹ thuật chăn nuôi và trồng trọt, tồn tại hiện tượng “nữ làm nam học”, phụ
nữ ít được tham quan các mô hình [15].
Từ đó cũng có thể thấy rằng hiện nay khả năng tiếp cận các TBKT
của phụ nữ vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, việc phân tích yếu tố bình đẳng
giới trong quá trình chuyển giao TBKT là rất quan trọng, đảm bảo cho công
tác chuyển giao được thành công và bền vững.
Tóm lại, để có thể chấp nhận và áp dụng một TBKT thì có rất nhiều
các yếu tố ảnh hưởng, bao gồm các yếu tố bên ngoài và các yếu tố nội tại
nông hộ. Nhưng không phải các yếu tố này sẽ ảnh hưởng một cách đồng
loạt đến các nông hộ chấp nhận hoặc không chấp nhận mà mỗi một yếu tố
sẽ có những ảnh hưởng riêng, tùy thuộc vào từng hộ gia đình sẽ có yếu tố
ảnh hưởng tiêu cực và cũng có một số ảnh hưởng tích.
2.2. Cơ sở thực tiễn.
2.2.1. Tình hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lạc ở nước ta
2.2.1.1. Tình hình phát triển canh tác lạc qua các năm ở nước ta
Ở Việt Nam cây lạc được trồng từ lâu đời và được sử dụng rộng rãi
trong đời sống hằng ngày của nhân dân ta. Hiện nay, lạc được phân bố chủ
yếu ở 4 vùng lớn là: Miền núi và trung du Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng,
khu bốn cũ và miền Đông Nam Bộ. Cả 4 vùng này chiếm đến 3/4 diện tích
và sản lượng, còn lại rải rác ở một số vùng.
Theo Ngô Thế Dân và cộng sự [10], sự biến động về diên tích, năng
suất và sản lượng lạc ở Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1998 được chia
làm các giai đoạn:
- Giai đoạn từ năm 1975 đến 1979: diện tích lạc giảm 5,5% (từ 97,1
nghìn ha xuống còn 91,8 nghìn ha), năng suất giảm 14,6 % (1,03 tấn /ha
xuống 0,88 tấn/ha). Nguyên nhân chính là do thực trạng phong trào hợp tác
9
xã bị sa sút, do yêu cầu đủ lương thực được đặt lên hàng đầu, nên sản xuất
lạc không được đầu tư phát triển.
- Giai đoạn 1980 – 1987: diện tích trồng lạc tăng nhanh từ 91,8 nghìn
ha (năm 1979) lên 237,8 nghìn ha (năm 1987), tốc độ tăng trưởng hàng năm
5,6% đến 24,8% năm. Diện tích năm 1987 tăng gấp 2 lần so với năm 1980
và sản lượng tăng 2,3 lần. Giai đoạn này sản xuất lạc chủ yếu mang tính
quảng canh, nên năng suất tăng không đáng kể, từ 8,8 – 9,7 tạ /ha.
- Giai đoạn từ 1988 đến 1993, diện tích trồng lạc giảm 15,3%.
Nguyên nhân chủ yếu là do mất thị trường tiêu thụ truyền thống, thị trường
mới chưa được tiếp cận.
- Giai đoạn 1994 đến 1998, diện tích trồng lạc năm 1998 tăng 8%,
năng suất tăng 20% và sản lượng tăng 25% so với 1994. Giai đoạn này Việt
Nam đã tiếp cận được với thị trường quốc tế mới và nhu cầu chế biến trong
nước cũng tăng.
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã có những chủ
trương và chính sách khuyến khích, đầu tư phát triển sản xuất lạc. Do đó
diện tích lạc trong những năm gần đây đã tăng với tốc độ khá nhanh. So với
các cây công nghiệp khác, lạc hiện nay chiếm diện tích khá lớn. Diện tích
lạc ở nước ta sau những năm giải phóng đã tăng gấp nhiều lần so với trong
chiến tranh. Năm 1965 - năm kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất - đến
năm 1995, diện tích lạc đã tăng gấp 3 lần[13].
Diện tích trồng lạc ở nước ta trong những năm gần đây không mở rộng
nhiều (năm 1995 là 259,9 nghìn ha đến năm 2006 cũng chỉ có 240 nghìn ha)
nhưng do áp dụng được các tiến bộ kỹ thuật nên sản lượng lạc đã tăng lên
nhiều từ 334,5 nghìn tấn (năm 1995) tăng lên 464 nghìn tấn (năm 2006).
Tiềm năng để nâng cao năng suất lạc ở nước ta còn rất lớn nhưng để
có thể khai thác triệt để tiềm năng này cần đẩy mạnh hơn nữa công tác
nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật một cách rộng rãi trong sản xuất,
tạo điều kiện để mọi người dân có thể tiếp thu một cách nhanh chóng nhằm
góp phần đưa năng suất lạc của Việt Nam sánh kịp với các nước bạn và trên
hết là nâng cao được đời sống cho nhân dân.
10
2.2.1.2. Tình hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lạc ở nước ta
1) Kỹ thuật về giống
Trong những năm gần đây, với mục đích tăng sản lượng lạc cho đất
nước, đáp ứng mục tiêu dùng và xuất khẩu, các nhà khoa học chọn tạo
giống có năng suất, phẩm chất tốt nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát
triển, tăng thu nhập cho người dân.
Năm 1995 đến 2005 Việt Nam đã chọn tạo được 14 giống lạc mới,
trong đó có 5 giống quốc gia được chọn tạo bằng lai hữu tính và gây đột
biến, 9 giống tiến bộ kỹ thuật được chọn lọc từ các tập đoàn lạc nhập nội.
Chúng đã được trồng phổ biến ở các tỉnh thành trong cả nước [6].
Các giống được chọn tạo từ gây đột biến có: Giống V79, có năng
suất trung bình 25 tạ/ha, tỉ lệ nhân 73-76 %, khối lượng 100 hạt 48 -52g,
chịu hạn khá, song dễ mẫn cảm với các bệnh đốm lá, gỉ sắt và héo xanh vi
khuẩn [8]. Giống 4329, có năng suất trung bình là 25 tạ/ha, khối lượng 100
hạt 55-60 g, tỷ lệ nhân đạt 70 – 72%, thích hợp cho vùng đồng bằng, trung
du Bắc bộ [11].
Các giống được chọn tạo bằng lai hữu tính là: Giống lạc sen lai
75/23, có khối lượng 100 hạt là 50 – 55 g, năng suất trung bình là 28 tạ/ha,
được trồng phổ biến ở các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ [6]. Giống L12 có
năng suất trung bình là 30 tạ/ha, chịu hạn tốt, kháng trung bình một số bệnh
như: đốm nâu, đốm đen, gỉ sắt, khối lượng 100 hạt 50 – 60 g. Giống VD2,
chín sớm, năng suất trung bình đạt 30 tạ/ha, khối lượng 100 hạt 46 – 48 g,
tỷ lệ nhân cao 78 – 80%, thích hợp cho các tỉnh phía nam [6].
Các giống được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật: Giống MD.7 có
khối lượng 100 hạt đạt 60 -65 g, tỷ lệ nhân đạt 70 – 75%, có tính thích ứng
rộng, trồng thuần, trồng xen đều có năng suất, năng suất trung bình đạt 35
tạ/ha, hiện nay được trồng phổ biến ở nhiều vùng sinh thái của Việt Nam [3].
Giống L14 có năng suất trung bình cao 40 tạ/ha, khối lượng 100 hạt đạt 58 –
60g, có khả năng kháng các bệnh hại lá cao, chịu hạn tốt . Giống VD.1 được
chọn lọc từ giống Lỳ địa phương, chín rất sớm, năng suất trung bình 30
tạ/ha, tỷ lệ nhân rất cao đạt 78%, khối lượng 100 hạt chỉ đạt 42g, thích hợp
cho các tỉnh phía nam [7]. Giống LO.2 có năng suất trung bình là 35 tạ/ha,
thâm canh tốt có thể đạt 5,0 tấn/ha, khối lượng 100 hạt 60 -68 g, tỷ lệ nhân là
11
68- 70%, chịu hạn, kháng bệnh đốm lá, gỉ sắt, héo xanh vi khuẩn [6]. Giống
LO5, chín sớm, kháng bệnh mốc vằng cao, có năng suất trung bình đạt 30
tạ/ha, khối lượng 100 hạt đạt 50 -55 g, tỷ lệ nhân cao đạt 76 – 80 %, hàm
lượng dầu 50,8%, thích hợp cho các tỉnh đồng bằng sông Hồng [6]. Giống
LO.8 có năng suất trung bình 30 tạ/ha, khối lượng 100 hạt 67 -72 g, tỷ lệ
nhân cao 74 -77%, kháng sâu chích hút, bệnh hại lá và héo xanh vi khuẩn ở
mức trung bình [8].
Từ những năm 1984 - 1990, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp
Việt Nam đã tiến hành thu nhập và nhập nội 1271 mẫu giống từ 40 nước
trên thế giới, trong đó có 100 giống địa phương [9].
Tại Viện cây có dầu miền Nam, Ngô Thị Lam Giang và cộng tác
viên đã đánh giá trên 400 mẫu giống nhập nội, lai tạo và chọn lọc ra một số
giống có triển vọng, có thời gian sinh trưởng trung bình là VD2, VD3,
VD4, VD5. Các giống này cho năng suất cao hơn giống Lỳ (giống đối
chứng) [10].
Hoàng Tuyết Minh và cộng tác viên (1995) đã tiến hành gây đột biến
giống lạc Sen lai chọn ra hai dòng D332 và D329 có năng suất cao (23 - 24
tạ/ha), ổn định, có khả năng chống chịu tốt. Dòng D332 đã được Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn cho khu vực hoá năm 1995[10].
Gần đây nhóm đề tài nghiên cứu giống lạc mới của trường Đại học
Nông Lâm - Huế đã ứng dụng phương pháp đột biến phóng xạ (tia gamma)
trên cây lạc. Kết quả đã tạo ra được một số giống lạc có triển vọng trong
sản xuất ở khu vực miền Trung là DT1, DT2 và một số dòng đột biến khác
có tiềm năng khá tốt về các mặt [11].
Có thể nói rằng, trong thời gian qua những nghiên cứu về cây lạc ở
nước ta đã mang lại những thành công nhất định trong công việc lai tạo
giống mới. Những thành công của các nhà khoa học đã góp phần không
nhỏ vào việc đa dạng hoá bộ giống lạc cũng như các biện pháp tăng năng
suất và hiệu quả kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao thu nhập và
đời sống của người nông dân.
Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu thì đòi hỏi phải
có các vùng chuyên canh sản xuất lạc, người sản xuất phải được trang bị
12
các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, đồng bộ Bên cạnh đó, việc tạo ra các
giống mới bằng ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ là một trong
những khâu quyết định đến sản xuất lạc của nước ta.
2) Kỹ thuật về chăm sóc và bón phân
Chuyển giao KHKT đã tập trung thực hiện phương án: chọn mô
hình phù hợp với vùng đất cũng như nhu cầu của thị trường và chọn địa
phương hội tụ đủ điệu kiện đất đai, khí hậu, con người để thực hiện thành
công những mô hình chuyển giao KHKT trên địa bàn. Song song với việc
xây dựng các mô hình, áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp, mỗi năm tổ chức nhều lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt
cho bà con tham gia, kỷ thuật bón phân cây trồng luôn đựợc quan tâm tập
huấn và chia sẻ với nông dân lưọng phân cần bón, phương pháp bón vv…
nhằm bón phân cho cây trồng một cách hiệu quả và giảm chi phí như các
chương trình 3 giảm 3 tăng. Năm năm qua với sự tìm tòi, nghiên cứu của
cán bộ, kỹ sư chuyên ngành cùng với tranh thủ các nguồn lực trong và bên
ngoài nhiều mô hình chuyển giao KHKT được xây dựng và nhân rộng, góp
phần quan trọng đẩy nhanh mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, hướng tới sản xuất hàng hóa.
3) Kỹ thuật phủ bạt nilon
Trong những năm qua, song song với việc nâng cao năng suất lạc, các
kỹ thuật xây dựng quy trình kỹ thuật che phủ bạt nilon đã được chúng ta
quan tâm, một mặt nhằm sử dụng có hiệu quả nhất nguồn đất đai và công lao
động, mặt khác nhằm đảm bảo đủ yêu cầu về dinh dưỡng cho cây lạc phát
triển tốt trong thời kỳ đâm tia ra hoa . Che phủ cho lạc ngoài vấn đề dữ ẩm, dữ
nhiệt, hạn chế đất bị dí dẽ khi gặp mưa và đất tơi xốp hơn và cải tạo đất.
4) Kỹ thuật về phòng bệnh
Thông qua tập huấn kỹ thuật, công tác thông tin truyền sâu rộng đã
giúp người dần dần ý thức được tầm quan trọng của việc phòng bệnh. Hàng
năm ở xã tổ chức tập huấn phòng bệnh cho lạc.
Phòng trừ dịch bệnh tổng hợp là hướng cơ bản trong chuyển giao các
TBKT về trồng trọt hiện nay ở nước ta. Do đó làm đất kỷ, bón vôi, bón
phân cân đối hợp lý phòng bệnh tốt giúp lạc sinh trưởng và phát triển
13
nhanh, nâng cao năng suất và sản lượng của lạc luôn được các cơ quan
chuyển giao quan tâm đề cập.
2.2.2. Thực tiễn hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật tại huyện
Thạch Hà- Hà Tĩnh
Dưới sự chỉ đạo của UBND huyện, cùng với sự nổ lực không ngừng
phấn đấu tìm tòi học hỏi, áp dụng vào sản xuất những tiến bộ Khoa học và
Công nghệ, sáng kiến kinh nghiệm của cán bộ và lãnh đạo Trung tâm
CGKH&CN. Góp phần vào thực hiện nghị quyết số 26 hội nghị BCH
Trung ương Đảng lần thứ 07 khóa X, Nghị quyết 08 của Ban chấp hành
Tỉnh ủy Hà Tĩnh, chương trình hành động của Huyện ủy và Đề án phát triển
nông nghiệp, nông dân và nông thôn giai đoạn 2010- 2015 và đến năm
2020 của Ủy ban nhân dân huyện Thạch Hà. Năm 2009, Trung tâm
CGKH&CN đã xây dựng một số mô hình Dự án mang tính đột phá trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp như:
Mô hình sản xuất khảo nghiệm giống lạc mới L14,L23 và TB25 tại
xã Thạch Trị, Thạch Đỉnh với quy mô 3 ha trong đó 2 ha lạcL14, L23 và 1
ha Lạc TB25 vụ Đông Xuân 2008- 2009, được các cấp các ngành ở tỉnh và
huyện đánh giá đạt kết quả cao, đặc biệt giống lạc TB25 được người dân
đón nhận rất cao, năng suất bình quân giống lạc TB25 đạt 190- 200kg/sào,
năng suất giống lạc L23 đạt 170- 180kg/sào, cao hơn các giống lạc đang
sản xuất đại trà trên đồng ruộng 20- 30% về năng suất, thời gian sinh
trưởng ngắn hơn giống lạc L14 từ 5- 7 ngày, sau khi mô hình thành công đã
tổ chức hội thảo tuyên truyền nhân rộng mô hình trong toàn huyện. Hiện
nay đã được nhân rộng ở nhiều xã trong vụ Đông như Thạch Đài, Thạch
Văn, Việt Xuyên, Thạch Tân
Triển khai thực hiện Đề tài “Ứng dụng KH&CN sử dụng Dolomite
bón thay vôi và che phủ Nilon phục vụ sản xuất lạc vụ Đông xuân 2009-
2010 tại xã Thạch Đỉnh,Tượng Sơn” triển khai từ tháng 1- 6/2010 quy mô 3
ha, đề tài đạt kết quả cao được lãnh đạo tỉnh, huyện đánh giá cao, bà con
nông dân đồng tình hưởng ứng, năng suất lạc mô hình cao hơn các ruộng
đối chứng 520kg/ha, vụ thu đông năm 2010 đa nhân rộng được 15 ha tại xã
Thạch Trị và Tượng Sơn, UBND xã Tượng Sơn đã đưa vào kế hoạch sản
14
xuất Đông xuân 2010- 2011 với 100% diện tích (140 ha) lạc toàn xã thực
hiện che phủ rơm rạ để tận dụng nguyên liệu dư thừa của sản xuất lúa sang
sản xuất lạc nhằm nâng cao năng suất và chất lượng lạc trên địa bàn xã.
Với vị trí quan trọng của cây lạc, nên những năm gần đây cây lạc Hà
Tĩnh đang phát triễn khá nhanh, các địa phương đang chuyển dịch cơ cấu
cây trồng mùa vụ, giảm nhẹ diện tích trồng khoai lang năng suất thấp sang
trồng lạc và áp dụng tiến bộ kỷ thuật trong thâm canh lạc. Vì vậy diện tích
trồng lạc trong tỉnh tăng nhanh. Năm 2008 diện tích 20.615 ha, năng suất
21,62tạ/ha. Năm 2009 diện tích 20,951 ha, năng suất21.37 tạ/ha. Năm
2010diện tích 22,450 ha, năng suất 22.53 tạ/ha. Dự kiến năm 2011 tăng
diện tích 27,000 ha, năng suất ước tính đạt 21.50 tạ/ha.
Thạch Hà là một trong những huyện có diện tích lạc lớn của tỉnh với
diện tích sản xuất lạc hàng năm gần 2500 ha trong đó 10 xã vùng bãi ngang
đóng vai trò chủ lực với diện tích xấp xỉ 1400 ha, năng suất bình quân toàn
huyện 21,66 tạ/ha. Yếu tố dẫn đến thành công trong sản xuất lạc của Thạch
Hà là thường xuyên du nhập vào những giống lạc mới có năng suất cao, áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nên đã góp phần tăng năng suất lạc
hàng năm. .[2 ]
15
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các nông hộ canh tác lạc ở xã Thạch Đỉnh
-Thạch Hà - Hà Tĩnh.
3.1.2.Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Tại xã Thạch Đỉnh -Thạch Hà - Hà Tĩnh.
Về mặt thời gian: Nghiên cứu tình hình chuyển giao và yếu tố ảnh hưởng
đến việc chuyển giao và áp dụng các TBKT trong canh tác lạc ở các nông
hộ trên địa bàn xã Thạch Đỉnh từ tháng 01/2011 – 5/2011.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài có 2 nội dung lớn:
3.2.1. Tìm hiểu thực trạng chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong canh
tác lạc của các nông hộ tại xã Thạch Đỉnh.
- Các loại TBKT đã được chuyển giao.
- Các cơ quan, đơn vị tham gia chuyển giao TBKT ở địa phương.
- Các phương pháp chuyển giao mà các cơ quan đã áp dụng.
- Tình hình tiếp cận các TBKT đã được chuyển giao.
- Mức độ phù hợp của các TBKT đã được chuyển giao.
- Những vấn đề còn hạn chế trong quá trình chuyển giao TBKT.
- Những khó khăn của người dân khi áp dụng các TBKT.
3.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong
canh tác lạc của các nông hộ
- Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài.
+Yếu tố điều kiện tự nhiên
+ Yếu tố phương pháp chuyển giao
+Yếu tố chính sách nhà nước
+Yếu tố thị trường
+Yếu tố về các tổ chức cộng đồng
- Ảnh hưởng của các yếu tố nội tại.
16
+Yếu tố nguồn lực của hộ
+Yếu tố về bình đắng giới
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Chọn điểm, chọn mẫu
3.3.1.1. Chọn điểm nghiên cứu
Bản đồ 1: Vị trí của xã Thạch Đỉnh
Tiêu chí chọn điểm nghiên cứu :
- Điểm nghiên cứu phải có hoạt động canh tác lạc.
- Điểm nghiên cứu phải có hoạt động chuyển giao TBKT
17
X
ã
T
h
ạ
c
h
Đ
ỉ
n
h
Xã Thạch Đỉnh thuộc huyện Thạch Hà là một xã có những điều kiện
thuận lợi cho phát triển trồng lạc như: Đất đai màu mỡ, tận dụng được phế
phụ phế phẩm của chăn nuôi, thời gian lao động rộng nhàn rỗi của nông
dân, thị trường tiêu thụ sản phẩm của lạc đang mở rộng. Xã thuộc diện xã
nghèo nằm trong chương trình 135 của chính phủ nên ở đây luôn có các dự
án hỗ trợ người dân trong hoạt động canh tác lạc. Tuy nhiên, với đặc trưng
của khí hậu miền Bắc có mùa đông lạnh, chi phí vật tư cao, thị trường
không ổn định Mặc dù đã có nhiều chính sách địa phương và các cơ quan
chuyển giao hỗ trợ giống, vật tư, kỹ thuật nhưng việc áp dụng chấp nhận
mô hình của nông hộ còn nhiều hạn chế: hoạt động chuyển giao không phát
huy được hiệu quả, hoặc không được nông dân ứng dụng, hoặc sau khi dự
án kết thúc thì không còn áp dụng được và không bền vững.Trên đây là
những lý do mà xã Thạch Đỉnh đã được chọn làm điểm nghiên cứu nhằm tìm
ra yếu tố nào đã tác động đến những hạn chế trên.
- Chọn điểm nghiên cứu là thôn 3 và thôn 6 xã Thạch Đỉnh. Xã
Thạch Đỉnh có 12 thôn, tuy nhiên nhóm chỉ chọn thôn 3 và thôn 6 làm điểm
nghiên cứu vì 2 thôn này có hoạt động sản xuất nông nghiệp với cơ cấu cây
trồng khá đa dạng, đặc biệt là trồng lạc phát triển với nhiều điều kiện thuận
lợi, đất đai màu mỡ, tận dụng được phế phụ phế phẩm của chăn nuôi, thời
gian lao động rộng nhàn rỗi của nông dân và người dân được tập huấn các
kĩ thuật mới thường xuyên và áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản
xuất ở đây. Thôn 3 mức độ thâm canh lạc thấp hơn, người dân áp dụng
TBKT và canh tác theo phưong thức truyền thống, còn thôn 6 canh tác
thâm canh có đầu tư theo TBKT mới. Tìm hiểu khả năng tiếp cận các
TBKT của hai thôn có gì khác biệt.
3.3.1.2. Chọn mẫu.
- Tiêu chí chọn hộ:
+ Là những hộ tham gia đang canh tác lạc.
+ Hộ đã được chuyển giao về TBKT trong canh tác lạc.
- Chọn hộ điều tra: Chọn ngẫu nhiên 60 mẫu điều tra.
18
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên lấy danh sách tên hộ
của hai thôn tại trưởng thôn, sau đó chọn nhẫu nhiên theo tỷ lệ trong danh
sách các hộ để tiến hành phỏng vấn điều tra.
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập các thông tin số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
của xã Thạch Đỉnh qua các báo cáo tổng kết về kinh tế - xã hội năm 2008,
2009, 2010.
- Thu thập các số liệu đã công bố về tình hình chuyển giao TBKT
trong canh tác lạc ở xã Thạch Đỉnh.
Nguồn số liệu được thu thập thông qua các tài liệu, các báo cáo,
TTKHCN huyện Thạch Hà và các cơ quan chuyển giao.
3.3.2.2. Phương pháp thu thấp số liệu sơ cấp.
a) Phỏng vấn hộ
Nguồn thông tin được thu thập thông qua bảng hỏi cấu trúc và bán
cấu trúc đã chuẩn bị trước phỏng vấn về thưc trạng và các yếu tố ảnh hưởng
áp dụng tiến bộ kỹ thuật của nông hộ.
b) Phỏng vấn sâu
Cán bộ khuyến nông xã, Giám đốc trung tâm chuyển giao KHCN,
cán bộ xã, trưởng thôn của 2 thôn, nông dân nòng cốt.
c ) Thảo luận nhóm
Tiến hành thảo luận nhóm với đối tượng là nhóm nông dân nòng cốt .
Cuộc thảo luận diễn ra độc lập nhằm thu được nhiều thông tin và đảm bảo
tính khách quan.Công cụ đã sử dụng là liệt kê, so sánh cặp đôi, cho điểm.
Cuộc thảo luận này được tiến hành nhằm đánh giá thực trạng áp dụng tiến
bộ kỹ thuật ở các nông hộ và các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng của
họ trong canh tác lạc tại xã Thạch Đỉnh.
3.3.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được mã hoá và xử lý bằng máy vi tính thông
qua phần mềm Excel và SPSS V16.0.
19
Số liệu được xử lý bao gồm 3 nhóm cơ bản:
- Xử lý thống kê mô tả (Descriptive statistics).
- Kiểm định ý nghĩa thống kê (phân tích ANOVA một nhân tố):
Nhằm tìm hiểu sự khác nhau về giá trị trung bình giữa các yếu tố có ý nghĩa
thống kê hay không.
- Sử dụng hàm hồi quy tuyến tính (Regression - linaer): Nhằm xác
định ảnh hưởng của một số yếu tố nội tại đến việc áp dụng TBKT của hộ.
20
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội Xã Thạch Đỉnh - Thạch Hà -
Hà Tĩnh.
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thạch Đỉnh là một xã đồng bằng ven biển của huyện Thạch Hà - Hà
Tỉnh có vị trí địa lý: phía nam giáp mỏ sắt Thạch Khê (xã Thạch Khê), phía
bắc giáp xã Thạch Bàn, phía đông giáp xã Thạch Hải, phía tây được bao
bọc bởi sông Cửa Sót. Xã có diện tích tự nhiên là 876,46 ha nằm cách
trung tâm thành phố Hà Tĩnh khoảng 5km, với đặc điểm vị trí địa lý này, xã
rất thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, thương mại với các xã
khác và thành phố cũng như các huyện khác trong tỉnh. Địa hình của xã
phân bố trên 3 vùng sinh thái chính:
- Vùng bán sơn địa: phần lớn nằm ở phía Đông Nam giáp xã Thạch
Hải và mỏ sắt Thạch Khê phân bố từ xóm 1 đến xóm 3 người dân sản xuất
nông nghiệp và khai thác tài nguyên đá, là khu vực nằm trong dự án khai
thác mỏ sắt thạch khê.
- Vùng đồng bằng : phân bố quanh trung tâm xã từ xóm 4 dến xóm 9
chủ yếu người dân sản xuất nông nghiệp.
- Vùng đất cát ven biển: phân bố theo xóm 10 đến xóm 13 dọc theo
sông cửa sót chủ yếu khai thác và nuôi trồng thuỷ sản.
Thạch Đỉnh có khí hậu chung với cả tỉnh nằm trong khu vực có khí
hậu nhiệt đới gió mùa với đặc trưng của khí hậu miền Bắc có mùa đông
lạnh. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc từ lục địa Trung
Quốc tràn về bị suy yếu nên mùa đông đã bớt lạnh hơn và ngắn hơn so với
các tỉnh miền Bắc và chia làm hai mùa rõ rệt 1 mùa lạnh và 1 mùa nóng.
Nhiệt độ bình quân ở Hà Tĩnh thường cao. Nhiệt độ không khí vào mùa
đông chênh lệch thấp hơn mùa hè. Nhiệt độ đất bình quân mùa đông
thường từ 18-22oC, ở mùa hè bình quân nhiệt độ đất từ 25,5 – 33oC. Tuy
nhiên nhiệt độ đất thường thay đổi theo loại đất, màu sắc đất, độ che phủ và
độ ẩm của đất. Hà Tĩnh là tỉnh có lượng mưa nhiều ở miền Bắc Việt Nam,
trừ một phần nhỏ ở phía Bắc, còn lại các vùng khác có lượng mưa bình
quân hàng năm đều trên 2000 mm, cá biệt có nơi trên 3000 mm [1]
21
4.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Dân số và lao động
Việc tìm hiểu cơ cấu dân số và lao động giúp nắm bắt được tiềm
năng và sự phân bố về nguồn nhân lực của địa phương trong các lĩnh vực
sản xuất và địa bàn dân cư. Kết quả tìm hiểu về dân số và lao động của xã
thể hiện ở bảng 4.1.cho thấy: Dân số của xã tăng nhanh qua các năm, năm
2010 toàn xã có 3611 người ( nam giới chiếm 52.89 %) lực lượng lao động
của xã khá dồi dào.Trong đó lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ
lệ cao nhất (57.29 %) và thấp nhất là trong lĩnh vực lâm nghiệp (1.55 %),
lao động trong 2 lĩnh vực này có xu hướng giảm dần qua các năm. Riêng
các lĩnh vực khác như công nghiệp, thương mại, dịch vụ và trong các ngành
nghề khác thì lực lượng lao động tham gia vào các lĩnh vực này có xu
hướng tăng dần qua các năm, sở dĩ như vậy là vì giá trị mang lại từ các lĩnh
vực này cao hơn so với lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp.
Bảng 4.1: Cơ cấu dân số và lao động của xã Thạch Đỉnh năm 2009-2010
TT
Năm
Cơ cấu
Đơn
vị
2008 2009 2010
Tỷ lệ %
năm 2010
1
Tổng dân số người 3512 3585 3611 100
-Nam người 1856 1893 1915 52.89
-nữ người 1656 1692 1696 47.11
2 Tổng số hộ hộ 868 896 902
3
Tổng số lao động người 2674 2783 2833 100
-LĐ nông nghiệp người 1643 1575 1522 57.29
-LĐ thuỷ sản người 125 135 120 4.58
-LĐ lâm nghiệp người 51 43 35 1.55
- LĐ công nghiệp
- xây dựng
người 375 427 464 15.24
- LĐ dịch vụ người 354 451 527 16.01
- LĐ nghành nghề
khác
người 126 152 165 5.33
(Nguồn: Số liệu thống kê của xã Thạch Đỉnh năm 2010)
22
Lao động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ tăng nhanh qua từng
năm, điều này đã thể hiện bước chuyển biến quan trọng trong việc thu hút
ngày càng đông lao động ra khỏi lĩnh vực sản xuất nông nghiệp kém hiệu
quả và có thu nhập thấp như hiện nay sang lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
4.1.2.2. Giá trị sản xuất các lĩnh vực kinh tế của xã qua các năm (2008 -
2010)
Qua bảng 4.2 có thể thấy, trong lĩnh vực nông – lâm – thuỷ sản, tổng
giá trị hàng năm tăng. Tỷ trọng ngành nông nghiệp so với các ngành khác
trong cơ cấu kinh tế của xã là 36.1%, đây cũng là kết quả đáng khích lệ.
Tổng giá trị ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ năm 2010 chiếm 63.9
% cơ cấu nền kinh tế đang có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, đó là tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng tăng qua các
năm.Theo phòng tài chính xã thì năm 2010 trên địa bàn xã đang có nhiều
hạng mục xây dựng trong lĩnh vực công nghiệp phục vụ cho dự án mỏ sắt
Thạch Khê nên trong những năm tới, khi những hạng mục xây dựng này
hoàn tất và đưa vào sản xuất sẽ phần nào đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
ngành công nghiệp của xã.
Bảng 4.2: Giá trị sản xuất các lĩnh vực kinh tế của xã qua các năm
Đvt: triệu đồng
Năm
Lĩnh vực
2008 2009 2010
Tỷ lệ (%)
(2010)
Tổng giá trị sản xuất 81 101 135
1. Nông lâm và thủy sản 29 38 47 36.10
- Nông lâm nghiệp 22 28 33
- Thủy sản 7 10 14
2.Công nghiệp và xây dựng 25 30 45 31.29
3. Dịch vụ 27 33 43 32.61
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội của xã Thạch Đỉnh năm 2010)
4.1.2.3. Thu nhập đầu người
Thu nhập bình quân đầu người của xã ở mức trung bình, bình quân
khoảng 1200000 đồng/người/tháng trở lên chiếm tỷ lệ còn ít. Nguồn thu
chủ yếu của người dân nông thôn chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp với điều
23
kiện sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu là sử dụng trong gia đình. Vì vậy mà thu nhập
bình quân đầu người không cao .
4.1.2.4. Tình hình sử dụng đất đai
Đất là loại tài nguyên quan trọng, nó vừa là tư liệu sản xuất vừa là
đối tượng sản xuất. Tiềm năng cũng như hạn chế về nguồn tài nguyên đất
có ảnh hưởng lớn đến đặc điểm nền kinh tế của địa phương và khả năng
phát triển sản xuất của người dân. Do đó việc tìm hiểu cơ cấu đất đai của xã
là cần thiết kết quả được thể hiện qua bảng 4.3 cho thấy: Cũng như ở các
địa phương khác, đất nông nghiệp chiếm phần lớn tổng diện tích đất tự
nhiên ở xã Thạch Đỉnh (49,17%). Thu nhập chính của người dân là từ sản
xuất trồng trọt, đất sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 77,86%, trong đó chủ
yếu là đất trồng cây hàng năm (64,52% trong tổng diện tích đất sản xuất
nông nghiệp) với các loại cây trồng phổ biến như lúa nước (chiếm 44,34%
trong tổng số. Điểm đặc biệt là diện tích đất chưa sử dụng ở Thạch Đỉnh
chiếm (6,02%) gồm đất bằng, đất đồi núi trọc. Trong những năm qua xã đã
có các chính sách cải tạo và sử dụng nhưng chỉ dừng lại ở mức tương đối
do hạn hẹp về kinh phí. Nếu có vốn đầu tư và quy hoạch khai thác tốt
những diện tích đất này có thể sử dụng vào mục đích chăn nuôi như mở các
trang trại, trồng cỏ để chăn nuôi trâu, bò…
Bảng 4. 3: Tình hình sử dụng đất của xã Thạch Đỉnh
TT Các loại đất và khả năng sử dụng Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích tự nhiên 875.45 100
1. Đất nông nghiệp 430.44 49.17
1.1. Đất sản xuất nông nghiệp 335.14 77.86
-Đất trồng cây hàng năm 277.76 64.52
Đất trồng lúa 190.88 44.34
Đất trồng cây hàng năm khác 86.88 20.18
- Đất trồng cây lâu năm 57.38 13.33
1.2. Đất lâm nghiệp 83.97 19.5
Đất rừng sản xuất 55.19 12.82
Đất rừng phòng hộ 28.78 6.68
24
1.3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 11.33 2.63
1.4. Đất nông nghiệp khác 2.70 0.06
2. Đất phi nông nghiệp 392.27 44.81
2.1. Đất ở 68.66 17.5
2.2. Đất chuyên dung 261.82 66.71
2.3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng 2.23 0.56
2.4. Đất nghĩa trang, nghĩa địa 16.26 4.14
2.5. Đất sông suối và mặt nước chuyên
dung
43.30 11.03
2.6. Đất phi nông nghiệp khác 3.40 0.09
3. Đất chưa sử dụng 52.74 6.02
3.1. Đất bằng chưa sử dụng 21.24 40.27
3.2. Đất đồi núi chưa sử dụng 14.60 27.68
3.3. Núi đá không có rừng cây 16.9 32.05
(Nguồn: Số liệu thống kê năm 2010 của phòng địa chính xã Thạch Đỉnh)
4.1.2.5. Tình hình sản xuất một số loại cây trồng, vật nuôi của xã
- Diễn biến về diện tích năng suất và sản lượng một số cây lương
thực và cây lấy củ được trồng trên địa bàn xã.
Cũng như nhiều địa phương khác trong toàn huyện, hiện nay trên địa
bàn xã Thạch Đỉnh cây lương thực và cây lấy cũ chủ yếu vẫn là lúa, lạc, khoai,
rau màu Tình hình sản xuất các loại cây trồng này được thể hiện ở bảng 4.4.
Bảng 4.4: Diện tích năng suất và sản lượng một số cây lương thực và
cây lấy củ của xã năm 2010
TT Loại cây trồng Diện tích (ha) N.suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn)
1 Lúa 165 4.4 462
2 Lạc 86.5 3.2 276.8
3 Khoai lang 38.7 16 379.2
4 Rau màu 15 22.86 343
(Nguồn: Số liệu thống kê năm 2010 của báo cáo tổng kết kinh tế -xã hội
của xã Thạch Đỉnh)
Kết quả bảng 4.4 cho thấy: Lúa vẫn đang là cây trồng chủ đạo và
không thể thay thế trên địa bàn xã, năng suất suất lúa ở đây chỉ đạt mức
25