Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trên
nhiều mặt, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, tạo tiền đề
cho giai đoạn phát triển mới, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Với hơn 68% dân số sống
bằng nghề nông, việc sản xuất nông nghiệp chiếm giữ một vai trò rất quan
trọng trong việc phát triển nền kinh tế nông thôn và kinh tế nói chung của đất
nước. Hội nghị Trung Ương VI đã khẳng định: “Sự phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá có vai trò cực kỳ
quan trọng cả trước mắt và lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế
xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Từ một nước luôn luôn phải nhập khẩu lương thực, thực
phẩm, Việt Nam đã vươn lên thành một nước có xuất khẩu gạo hàng đầu trên
thế giới về khối lượng.
Mặc dù nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể song hiện nay Việt
Nam vẫn còn là một nước nghèo so với các nước trên thế giới nói chung và
trong khu vực nói riêng, đời sống của bà con nông dân nhiều vùng còn thấp,
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng còn yếu đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
Với một lượng lớn hộ nghèo, nhu cầu về nguồn vốn tín dụng vi mô còn rất
lớn để đầu tư sản xuất cải thiện đời sống. Nhu cầu tín dụng vi mô của người
nghèo bắt nguồn từ cả nhu cầu của hộ gia đình và của các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhỏ. Tuy đã có những cải thiện đáng kể về chính sách khu vực tài
chính nông thôn nhưng vẫn còn một số lượng lớn các hộ nghèo và hộ có thu
nhập thấp vẫn chưa tiếp cận được dịch vụ tài chính này.
Là một huyện thuộc phía nam tỉnh Quảng Bình, Lệ Thuỷ có nhiều xã
nghèo, xã thuộc diện bãi ngang, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò là nguồn
thu nhập chính, các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở đây rất cần đến dịch vụ
tài chính vi mô. Nhu cầu vốn tín dụng của các hộ sản xuất tại địa bàn là rất
lớn nhưng các nguồn dịch vụ tín dụng nông thôn cũng như các hộ được tiếp
cận vay vốn còn rất hạn chế, mạng lưới tín dụng còn chưa thực sự có hiệu quả
1
ở vùng sâu vùng xa. Đa số người nghèo ở đây chưa được cán bộ tín dụng tiếp
cận. Những quy định mới về thế chấp tài sản đã tháo gỡ một phần khó khăn
khi người dân vay vốn nhưng vẫn bất cập đối với một bộ phận nông dân và cả
người nghèo…Trong điều kiện như trên thì việc phát triển tín dụng nông thôn
như thế nào cho phù hợp và có hiệu quả là rất cần thiết.
Trong những năm qua Lệ Thuỷ có nhiều dự án, tổ chức tín dụng hoạt
động trong đó có hợp phần tín dụng nông thôn do dự án phân cấp giảm nghèo
xây dựng, đang đem lại hiệu quả thiết thực trong việc xoá đói giảm nghèo cho
người dân. Do vậy để làm rõ sự tiếp cận và sử dụng vốn vay từ các dịch vụ
của hệ thống tín dụng nông thôn, và sự ảnh hưởng của hệ thống tín dụng này
đến việc phát triển kinh tế của người dân tôi đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu
hợp phần dịch vụ tài chính nông thôn của dự án phân cấp giảm nghèo trên
địa bàn huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu tiến trình thực hiện chương trình dịch vụ tài chính nông thôn
của dự án phân cấp giảm nghèo trên địa bàn huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình.
- Tìm hiểu các hoạt động của các nhóm tiết kiệm - tín dụng trên địa bàn
huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình.
- Đánh giá các hoạt động của nhóm tiết kiệm - tín dụng tại điểm nghiên cứu.
2
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm và phân loại tín dụng
2.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “tín dụng” (trong tiếng Anh là “credit”) xuất phát từ tiếng gốc
Latinh là “creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng cũng là danh
từ dùng để chỉ các hành vi kinh tế như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết
khấu, bảo hành, kí thác… Trong ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có
nghĩa là sự vay mượn. Một nhà kinh tế học người Pháp coi tín dụng như là
“một sự trao đổi giá trị tiền hiện tại lấy một giá trị tiền tương lai ”. [1]
Tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi hàng hóa hình thành nên những sự
kiện nợ nần lẫn nhau, phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán. Theo
nghĩa hẹp, có thể hiểu tín dụng là một quan hệ kinh tế hình thành trong quá
trình chuyển hóa giá trị giữa hình thái hiện vật và hình thái tiền tệ, từ tổ chức
này sang tổ chức khác hay từ tay người này sang tay người khác, theo nguyên
tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời gian nhất định. [1]
Theo Nguyễn Lê Hiệp: “Tín dụng biểu hiện mối quan hệ kinh tế, xã hội
gắn với quá trình tạo lập và sử dụng vốn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu
tạm thời cho quá trình tái sản xuất và phục vụ đời sống theo nguyên tắc hoàn
trả”.[2]
Như vậy, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị
dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời gian nhất định từ người sở
hữu sang người sử dụng, và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho
người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dôi ra này được gọi
là lợi tức tín dụng. Như vậy, tín dụng là một phạm trù kinh tế, thể hiện quan
hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn vay giữa người cho vay và người đi
vay trên ba nguyên tắc: có hoàn trả, có thời hạn và có lợi tức. Nguyên tắc có
hoàn trả là đặc trưng thuộc bản chất của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm
trù tín dụng với các phạm trù cấp phát tài chính khác. Đối tượng của tín dụng
là vốn vay, có thể là vật tư, hàng hóa hay tiền tệ, được sử dụng với mục đích
3
tạo lãi. Chủ thể tham gia tín dụng bao gồm các cá nhân và tổ chức hợp pháp
đóng vai trò bên đi vay hoặc bên cho vay.
Tín dụng không chỉ là hình thức vận động của vốn (quan hệ kinh tế) mà
nó còn là quan hệ xã hội dựa vào lòng tin. Khi một tổ chức tín dụng cấp một
khoản tín dụng cho khách hàng, trước hết là họ tin tưởng khách hàng có khả
năng trả nợ món nợ đó. Tín dụng từ xa xưa dựa vào lòng tin là chủ yếu, ngày
nay nó được pháp luật bảo trợ. Nó biểu hiện các mối liên hệ kinh tế gắn liền
với các quá trình phân phối lại tài nguyên vốn theo nguyên tắc có hoàn trả [1]
2.1.2. Phân loại tín dụng
Khi nền kinh tế càng phát triển thì quan hệ tín dụng càng đa dạng. Tùy
theo các tiêu thức khác nhau và tùy vào góc độ xem xét, mà người ta phân
loại tín dụng ra các hình thức tương ứng.
2.1.2.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng trên 5 năm. [3]
2.1.2.2 Căn cứ vào tính pháp lý của tín dụng
- Tín dụng chính thức: Là các tổ chức tài chính, tín dụng có đăng ký hoạt
động công khai theo pháp luật, chịu sự giám sát, quản lý của các cấp chính
quyền nhà nước. Tín dụng chính thức giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tín
dụng quốc gia.
- Tín dụng không chính thức: Là các tổ chức tín dụng nằm ngoài các đối
tượng chính thức nói trên. Hoạt động của nó không chịu sự quản lý và kiểm
soát của các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tín dụng nhưng vẫn có
nguyên tắc nhất định giữa những người đi vay và người cho vay để tránh rủi
ro. [3]
2.1.2.3. Căn cứ vào đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình
thành vốn lưu động cho doanh nghiệp, hay cho vay để bù đắp vốn lưu động
thiếu hụt tạm thời như cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay để bù đắp chi phí sản
xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức kết cấu các chứng từ
có giá trị ngắn hạn.
4
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình thành
vốn cố định cho doanh nghiệp. Loại tín dụng này thường được cung cấp nhằm
phục vụ việc đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở
rộng sản xuất…[3]
2.1.3. Vai trò của tín dụng trong nông nghiệp nông thôn
Thứ nhất, tín dụng góp phần tạo ra và duy trì quy mô sản xuất và kinh
doanh phù hợp:
Trong hầu hết các cơ sở sản xuất nông nghiệp luôn tồn tại sự chênh lệch
pha giữa nhu cầu và khả năng về vốn. Tín dụng ra đời như một đòi hỏi tất yếu
khách quan để giải quyết sự lệch pha này. Từ nguồn vốn tín dụng các cơ sở
sản xuất nông nghiệp sẽ có thể trang bị đầy đủ các yếu tố đầu vào cần thiết để
thực hiện các hoạt động sản xuất của mình, đồng thời duy trì được các hoạt
động đó một cách liên tục, có hiệu quả.
Thông qua các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay đối cho
người nghèo và các đối tượng chính sách, một số tổ chức tín dụng đã có đóng
góp to lớn vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, công bằng xã hội vai trò quan
trọng vào việc thúc đẩy các chính sách việc làm, dân số, y tế, giáo dục, các
chương trình xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội. [4]
Thứ hai, tín dụng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
khai thác các nguồn lực địa phương:
Tính chất thời vụ thể hiện rất rõ nét trong hoạt động sản xuất kinh doanh
nông nghiệp. Nguồn vốn từ các khoản tín dụng sẽ giúp các cơ sở sản xuất
nông nghiệp bù đắp được chi phí những thời kỳ chưa có thu nhập, làm cho
quá trình sản xuất được liên tục, tính tự chủ trong sản xuất nông ngiệp của các
cơ sở sán xuất cũng được mở rộng . Ngoài việc bù đắp các khoản thiếu hụt
vốn tín dụng còn giúp người sản xuất có thể mua sắm máy móc, mở rộng quy
mô sản xuất, đầu tư thâm canh để nâng cao chất lượng, khối lượng sản phẩm,
tiết kiệm lao động, đem lại thu nhập cao hơn.
Thứ ba, tín dụng góp phần thực hiện điều chỉnh kinh doanh:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, yêu cầu về hàng hoá của khách
hàng thường xuyên có sự biến đổi. Chính sự thay đổi của thị trường buộc các
nhà sản xuất phải có sự điều chỉnh trong các hoạt động sản xuất kinh doanh
5
của đơn vị mình. Nguồn vốn tín dụng giúp họ có thể đầu tư mua giống mới để
có sản phẩm chất lượng cao hơn hoặc mua dây chuyền mới để tạo ra nhiều
loại sản phẩm, mẫu mã đa dạng.
Thứ tư, tín dụng góp phần giải quyết các biến dạng và hạn chế các rủi
ro trong sản xuất kinh doanh:
Những biến động về giá cả của các yếu tố đầu vào thường có tác động
rất mạnh đến người sản xuất. Lúc này các khoản tín dụng sẽ giúp khắc phục
các khó khăn về vốn, đảm bảo được các hoạt động sản xuất theo dự định. Hơn
thế, các cơ sở sản xuất có thể sử dụng vốn vay để mua một số yếu tố đầu vào
dự trữ cho các hoạt động sản xuất.
Ngoài những ảnh hưởng về giá sản xuất nông nghiệp còn chịu ảnh
hưởng rất lớn về điều kiện tự nhiên như thời tiết, dịch bệnh Tín dụng được
coi là yếu tố góp phần ngăn ngừa những yếu tố bất lợi trong kinh doanh,
chống lại hoặc hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.
Thứ năm, tín dụng góp phần nâng cao đời sống của người dân và
thực hiện các chính sách xã hội khác của nhà nước:
Hiện nay đại bộ phận nông dân là những người nghèo, có mức thu nhập
thấp. Họ không có đủ vốn để mua cây con giống, phân bón, vật tư sản xuất
cũng như đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vì
vậy năng suất cây trồng vật nuôi thấp, kéo theo thu nhập hộ gia đình thấp. Do
đó, phần tích luỹ, tiết kiệm của họ hầu như không có hoặc ít không đáng kể.
Chính vì nguồn tiết kiệm quá ít nên mức đầu tư cho sản xuất thấp và kết quả
là năng suất thấp. Vòng luẩn quẩn đó sẽ kéo dài mãi mãi nếu không có sự
tương tác với bên ngoài. [4]
2.2. Một số khái niệm
2.2.1. Khái niệm tài chính vi mô
Tài chính vi mô là dịch vụ tài chính cho khách hàng có thu nhập thấp.
Tài chính vi mô cũng bao gồm việc cung cấp cho các hộ gia đình rất nghèo
các khoản vay nhỏ, nhằm mục đích giúp họ có thể đầu tư vào các hoạt động
sản xuất, hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ. Tài chính vi mô
thường kéo theo hàng loạt các dịch vụ khác như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm,
chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm tài chính khác… Vì những người nghèo
6
và rất nghèo có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm tài chính, nhưng không
tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức.[5]
Người nghèo, cũng giống như tất cả mọi người, cần có nhiều loại công
cụ tài chính để tích lũy tài sản, bình ổn tiêu dùng và tự bảo vệ mình trước rủi
ro. Chính vì thế, theo nghĩa rộng, tài chính vi mô là việc tìm ra phương cách
hiệu quả và đáng tin cậy để cung cấp ngày càng nhiều hơn các sản phẩm tài
chính vi mô. Tài chính vi mô cũng là công cụ mạnh mẽ giúp người nghèo, đặc
biệt là phụ nữ, tăng cường quyền lực kinh tế và trở thành các chủ thể kinh tế.
Các dự án tài chính vi mô có thể phân thành hai loại: dự án tài chính đơn
thuần và dự án tài chính vi mô lồng ghép với các hoạt động khác. Nhiều tổ
chức phi chính phủ chỉ sử dụng tài chính vi mô như là một phương tiện để đạt
được mục đích, chứ không phải bản thân nó là mục đích. Bên cạnh đó, một số
tổ chức đã sử dụng tài chính vi mô để thực thi các chương trình, dự án phát
triển cộng đồng. Cùng với các trung gian tài chính, những tổ chức này cung
cấp các lợi ích cho cộng đồng như: tạo cơ hội việc làm, tập huấn kỹ năng sản
xuất, hình thành tổ chức nhóm, đào tạo kỹ năng quản lí, hợp tác giữa các
thành viên trong nhóm, phát triển tính tự tin, giáo dục sức khỏe và kế hoạch
hóa gia đình, thúc đẩy an sinh xã hội, phúc lợi… Và thực tế, nhiều chương
trình, dự án thực hiện tài chính vi mô lồng ghép với các chương trình cải thiện
xã hội đã thành công, đem lại những hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn cho cộng
đồng.
Các tổ chức tài chính vi mô có thể là:
- Các tổ chức phi chính phủ.
- Các nhóm cho vay và tiết kiệm.
- Các hiệp hội tín dụng.
- Các ngân hàng quốc doanh, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài
chính phi ngân hàng [5]
2.2.2. Tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng: là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật
các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
7
Các tổ chức tín dụng nước ta gồm có: các tổ chức tín dụng nhà nước, các
tổ chức tín dụng cổ phần của nhà nước và tư nhân, các tổ chức tín dụng hợp
tác. [5]
2.2.3.Chương trình tín dụng, dự án tín dụng
Trong kinh tế quốc tế, ngoài tín dụng ở tầm vi mô giữa các doanh nghiệp
khác quốc tịch với nhau, còn có các chương trình tín dụng, dự án tín dụng vĩ
mô giữa các chính phủ, các chương trình tín dụng, dự án tín dụng vi mô của
các tổ chức phi chính phủ. Trong nội bộ từng quốc gia, tùy theo mục tiêu
chiến lược kinh tế cụ thể mà có các chương trình, dự án tín dụng riêng biệt
đặc thù trong từng lĩnh vực trong một thời hạn nhất định.[5]
2.3. Khái quát chung về nông hộ
2.3.1. Khái niệm về hộ nông dân
Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp
và phát triển nông thôn. Có rất nhiều định nghĩa về hộ nông dân.
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng
bao gồm cả nghề rừng, nghề cá, và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn.
Lý thuyết của Tchayanov coi hộ nông dân là một doanh nghiệp không
dùng lao động làm thuê, chỉ sử dụng lao động gia đình. Do đó, các khái niệm
kinh tế thông thường không áp dụng cho kiểu doanh nghiệp này. Do không
thuê lao động nên hộ nông dân không có khái niệm tiền lương và tiếp theo là
không thể tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Hộ nông dân chỉ có thu nhập
chung của tất cả các hoạt động kinh tế của gia đình, đó là sản lượng hằng năm
trừ đi chi phí. Mục tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao, không kể thu
nhập ấy do nguồn gốc nào: trồng trọt, chăn nuôi hay ngành nghề phụ, đó là
kết quả chung của lao động gia đình.[6]
Hộ nông dân là một đơn vị xã hội, đồng thời trong chừng mực nào đó cũng
là một đợn vị kinh tế. Các nguồn lực đất đai, tư liệu sản xuất, sức lao động…
được góp thành vốn chung, cùng đóng góp vào sự phát triển kinh tế, cùng chung
một ngân sách; cùng chung sống dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều
hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý kiến chung của các thành
viên là người lớn trong hộ gia đình, đặc biệt là của chủ hộ.[6]
8
Khái niệm hộ nông dân gần đây được định nghĩa như sau: “Hộ nông dân
là các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu
là lao động gia đình trong sản xuất trang trại, nằm trong một hệ thống kinh
tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần
trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không cao” (Frank
Ellis - 1988). [6]
2.3.2. Đặc điểm của hộ nông dân
Xét về phương diện sản xuất và quan hệ tín dụng đối với các tổ chức tín
dụng, hộ nông dân có một số đặc điểm cơ bản là:
- Nông hộ là đơn vị sản xuất cá thể ít nhiều mang tính tự cấp, tự túc, tỷ
trọng hàng hóa sản xuất ra thường không lớn.
- Trình độ sản xuất, trình độ ứng dụng công nghệ - khoa học kỹ thuật
chưa cao.
- Sản xuất thường nhỏ lẻ, theo thời vụ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên nên tính rủi ro cao.
- Lao động gia đình, khả năng cần cù chịu khó là nguồn vốn tự có của hộ
nông dân. Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào
hoạt động phi nông nghiệp với các mức độ rất khác nhau để tăng thu nhập.
- Hộ nông dân thường sống trong cộng đồng làng xã, có tính tín nhiệm
cao, đặc biệt là trong trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Nhìn
chung phần lớn nông hộ có ý thức vay, trả sòng phẳng. Trong trường hợp gặp
thiên tai bất khả kháng, mùa màng thất bát, hộ sản xuất thường không có khả
năng trả nợ. Tuy nhiên, ý thức hoàn trả nợ để duy trì tín nhiệm trong cộng
đồng làng xã thường rất cao. Nếu vụ sản xuất sau có thu hoạch, họ sẵn sàng
hoàn trả nợ cũ. [6]
2.4. Vốn trong sản xuất nông nghiệp
2.4.1. Khái niệm và phân loại
2.4.1.1. Khái niệm
Cũng như các ngành khác, sản xuất nông nghiệp muốn tồn tại và phát
triển cần phải có vốn. Toàn bộ các yếu tố như đất đai nông nghiệp, các vật tư,
thiết bị nông nghiệp, vật nuôi, cây trồng đều được coi là vốn trong sản xuất
9
nông nghiệp. Có nhiều khái niệm khác nhau về vốn trong sản xuất nông
nghiệp.
Theo Kay R D và Edwards W.H (Đại học Texas, Hoa Kỳ): “Vốn trong
sản xuất nông nghiệp là toàn bộ tiền đầu tư, mua hoặc thuê các yếu tố nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp. Đó là số tiền dùng để thuê hoặc mua ruộng đất, đầu
tư hệ thống thủy nông, vườn cây lâu năm, máy móc, thiết bị, nông cụ và tiền
mua các vật tư phân bón, nông dược, thức ăn gia súc ”.
Tuy nhiên, khái niệm phổ biến và được dùng nhiều nhất đó là : “Vốn
trong sản xuất nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối
tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp”. Cũng như ở các
lĩnh vực khác, vốn trong sản xuất nông nghiệp vận động không ngừng từ
phạm vi sản xuất sang phạm vi lưu thông và rồi lại trở về sản xuất… Hình
thức của vốn sản xuất cũng thay đổi từ hình thức tiền tệ sang hình thức tư liệu
sản xuất, tiền lương cho nhân công đến sản phẩm hàng hóa và trở lại hình
thức tiền tệ. [7]
Vốn trong sản xuất nông nghiệp được hình thành chủ yếu từ các nguồn
sau:
- Vốn tích luỹ từ bản thân khu vực nông nghiệp: là vốn tự do, do nông
dân tiết kiệm được và sử dụng đầu tư vào tái sản xuất mở rộng.
- Vốn đầu tư từ ngân sách: là vốn đầu tư cho nông nghiệp từ nguồn ngân
sách của nhà nước. Vốn này được dùng vào khai hoang và xây dựng vùng
kinh tế mới, nông trường quốc doanh, trại kỹ thuật nông nghiệp, thủy lợi,
nghiên cứu khoa học, chương trình giải quyết việc làm ở nông thôn.
- Vốn từ tín dụng nông thôn: là vốn đầu tư cho nông nghiệp của nông hộ,
trang trại và các doanh nghiệp nông nghiệp vay từ các hệ thống tín dụng
chính thức và không chính thức. [7]
2.4.1.2. Phân loại
Vốn trong sản xuất nông nghiệp được phân loại thành vốn cố định và
vốn lưu động:
- Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền giá trị đầu tư vào tài sản cố định.
Tài sản cố định: là những tư liệu lao động và đối tượng lao động có giá trị lớn,
sử dụng trong thời gian dài nhưng vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu và giá trị
10
của nó được chuyển dần sang giá trị sản phẩm sản xuất ra theo mức độ hao
mòn. Ví dụ: máy móc nông nghiệp, nhà kho, sân phơi, công trình thủy nông,
gia súc làm việc, gia súc sinh sản, vườn cây lâu năm
- Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền giá trị đầu tư vào tài sản lưu động.
(Tài sản lưu động: là những tư liệu lao động và đối tượng lao động có giá trị
nhỏ, được sử dụng trong một thời gian ngắn, sau một chu kỳ sản xuất nó mất
đi hoàn toàn hình thái ban đầu và chuyển toàn bộ vào giá trị sản phẩm sản
xuất ra. Ví dụ: phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, thức ăn gia súc, nguyên vật
liệu [7]
2.4.2. Đặc điểm của vốn trong sản xuất nông nghiệp
Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp nên vốn trong sản xuất nông
nghiệp có những đặc điểm sau:
- Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên nhu cầu về vốn cũng mang
tính thời vụ.
- Đầu tư vốn trong nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro vì kết quả sản
xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
- Do chu kỳ sản xuất của nông nghiệp dài nên vốn dùng trong nông
nghiệp có mức tuần hoàn, lưu chuyển chậm, dễ xảy ra ứ đọng vốn.
- Trong nông nghiệp, một phần vốn do chính doanh nghiệp hoặc nông hộ
sản xuất ra (hạt giống, phân bón, con giống) được dùng ngay vào quá trình
sản xuất tiếp. Các loại vốn này thường không được trao đổi trên thị trường.
Do đó, giá trị vốn cũng phụ thuộc vào giá trị cơ hội của các sản phẩm đó.
- Sự tác động của vốn vào quá trình sản xuất và hiệu quả hoạt động nông
nghiệp không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất đai, cây trồng, vật
nuôi Do vậy việc đầu tư và sử dụng vốn cần phải chú ý đến các đối tượng
này.[7]
11
2.4.3. Vai trò của vốn sản xuất đối với sự phát triển của hộ nông dân.
Vốn sản xuất có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các hộ
nông dân. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ đều cần phải có
vốn mới tiến hành được. Đối với những hộ nông dân nghèo, vốn rất cần thiết
để họ có thể mua sắm được tư liệu sản xuất, các loại vật tư nông nghiệp để
duy trì sản xuất từ đó tìm cách thoát nghèo.
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là điều kiện hết sức cần thiết để nông
hộ phát triển kinh tế, tiến hành sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa. Vì nếu có vốn sản xuất, hộ nông dân mới có thể cải tiến nông cụ,
mua sắm máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất, từ đó nâng cao năng suất
lao động. Có vốn họ có thể đầu tư giống mới, các vật tư cần thiết cũng như
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó tăng năng suất chất lượng sản phẩm,
nâng cao hiệu quả kinh tế. Vốn cũng là cơ sở quan trọng để hộ nông dân
tiến hành mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá cơ cấu cây trồng vật nuôi,
khai thác các nguồn lực một cách tối đa để làm giàu.
Hộ nông dân cũng có nhiều cơ hội phát triển kinh tế gia đình khi có
vốn hộ nông dân sẽ mạnh dạn đầu tư vào các ngành nghề, dịch vụ có khả
năng đem lại thu nhập ổn định và lợi nhuận kinh tế cao, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Có vốn để đầu tư sản xuất, hộ có thể giải quyết được công ăn việc làm,
nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống gia đình. Bằng những tác động đối với
sự phát triển kinh tế hộ, vốn sản xuất cũng có vai trò to lớn đối với sự phát
triển về văn hoá, giáo dục, sức khoẻ… của hộ nông dân.
Như vậy, vốn sản xuất có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nói
chung của hộ nông dân và cũng có thể nói rằng vốn sản xuất là cơ sở, nền tảng
cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của họ. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn sản
xuất là tình trạng chung của các hộ nông dân nước ta, việc này đã cản trở rất
lớn đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn,
chính vì vậy giải quyết tình trạng thiếu vốn trong nông nghiệp nông thôn bằng
việc cung cấp các nguồn vốn tín dụng là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách
trong giai đoạn hiện nay.[7]
12
2.5. Tổng quan về tín dụng nông thôn
2.5.1. Các hệ thống tín dụng nông thôn trên thế giới
Hầu hết ở các quốc gia trên thế giới đều tồn tại ba hệ thống tín dụng và
tiết kiệm, với tên gọi và chức năng kinh tế, xã hội khác nhau nhưng đều nhằm
vào mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, đó là:
- Trung tâm tín dụng nông nghiệp: thực chất là ngân hàng nông nghiệp
do Nhà nước cung cấp vốn, cho vay chủ yếu để đầu tư cho cây trồng, vật nuôi
có sản phẩm xuất khẩu, thu hồi vốn và lãi khi sản phẩm được tạo ra và thương
mại hóa. Một phần nhỏ cung cấp cho nhân dân nghèo, nhằm tạo công ăn việc
làm tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, an ninh xã hội.
Các ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ có một số ít
hoạt động tốt. Nguyên nhân chủ yếu là: thường gặp rủi ro do sản xuất phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, cho vay thường theo tiêu chuẩn xã hội nhiều
hơn là kinh tế, món tiền vay nhỏ trong khi địa bàn rộng, thị trường tiêu thụ
hàng hóa khó khăn… Do vậy, chi phí quản lý ngân hàng cao, thua lỗ lớn,
không kích thích được các ngân hàng thương mại bỏ vốn vào kinh doanh. Mặt
khác, tâm lý của người dân là vay vốn của chính phủ nên ít quan tâm đến việc
trả nợ. [3]
Để tồn tại và phát triển, trong những năm gần đây, các ngân hàng chuyên
doanh đều có xu hướng chuyển sang kinh doanh tổng hợp, đa dạng các loại
hình tín dụng: lấy lãi cho vay từ ngành có lợi nhuận cao để hỗ trợ cho ngành
có hiệu quả thấp. Đại diện cho số ít các ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh
vực nông nghiệp hoạt động tốt là ngân hàng Nông nghiệp Ailen, ngân hàng
LandBank (Phillipin), ngân hàng Nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp
Thái Lan, ngân hàng Grameem (Bangladesh), ngân hàng Rakyat (Indonesia).
- Hệ thống tiết kiệm và hợp tác xã tín dụng: dù khác nhau về tên gọi
nhưng đều có chung đặc điểm cơ bản sau: gắn bó với nông dân, do cộng đồng
dân cư sáng lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm; đáp
ứng được yêu cầu đa dạng ở nông thôn, thủ tục cho vay đơn giản, hạn chế
được rủi ro, vốn vay thường ưu tiên cho những nhu cầu thiết yếu (xây nhà ở,
y tế, giáo dục…) hơn là đầu tư cho những chương trình, dự án sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên hệ thống tiết kiệm và hợp tác xã tín dụng chỉ phục vụ chủ
13
yếu cho các hộ từ trung bình trở lên có tiền gửi tiết kiệm còn các hộ nghèo bị
hạn chế.
- Các tổ chức tự phát cho vay vốn: loại hình tín dụng này rất phổ biến
trên thế giới, thường nảy sinh ở những nơi chưa tổ chức được hoạt động tín
dụng hoặc các tổ chức tín dụng hoạt động chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được
hết nhu cầu vay vốn của người dân. Tổ chức hoạt động tín dụng tự phát
thường áp dụng hình thức cho vay ngắn hạn, lãi suất cho vay cao, thủ tục đơn
giản, giải quyết cho vay nhanh. Đặc điểm cho vay phù hợp với những đối
tượng có nhu cầu cấp bách về vốn. [3]
2.5.2.Tình hình tín dụng nông thôn ở Việt Nam
Theo quy định về “ Chính sách cho hộ vay vốn để phát triển Nông –
Lâm – Ngư nghiệp và kinh tế nông thôn” ban hành kèm theo nghị định số
14/CP ngày 02/3/1993 của Chính phủ: “Các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn
và đủ điều kiện thì được ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho vay bổ sung
vốn để sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng mở
rộng hình thức cho vay ngắn hạn trực tiếp đến hộ sản xuất, từng bước mở
rộng việc cho vay trung hạn và dài hạn để phát triển cây dài ngày, chăn nuôi
gia súc, mua sắm thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp
nông thôn … Thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, bảo đảm nguyên
tắc có hiệu qủa kinh tế - xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế, ưu tiên
cho vay để thực hiện các dự án do Chính Phủ quy định, chú trọng cho vay đối
với hộ nghèo, các hộ ở vùng núi cao, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế
mới…”
Theo điều 8, luật các Tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX, về “Chính sách
tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân”: Nhà nước có chính sách
ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông
thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng
hóa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Theo nghị quyết số 15-NQ/TW về “đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001-2010”: Nhà nước cân đối các
nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng cho phát triển Nông-Lâm-Ngư-Diêm
14
nghiệp và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Các Tổ chức tín
dụng hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng ở nông thôn với lãi suất thỏa
thuận, tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục cho vay đối với người sản
xuất và các tổ chức kinh tế ở nông thôn. Nếu sản xuất, các tổ chức kinh tế ở
nông thôn được thế chấp bằng tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để vay vốn
ngân hàng, được vay vốn tín chấp và vay vốn theo dự án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả…
Từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tín dụng
phát triển nông nghiệp, nông thôn, thị trường vốn tín dụng lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn nước ta ngày một phát triển. Việc huy động nguồn vốn tín
dụng nói chung, tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng
không ngừng được tích cực thực hiện, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về vốn sản
xuất nông nghiệp ngày một lớn. Hiện nay, nguồn vốn cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn nước ta bao gồm:
- Vốn do các ngân hàng huy động
- Vốn ngân sách nhà nước
- Vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức tín dụng
nước ngoài.
Ngoài các nguồn vốn do các ngân hàng huy động, hàng năm nhà nước
dành một phần vốn từ ngân sách chuyển sang để cho vay thực hiện các
chương trình kinh tế theo chính sách nhà nước. Đồng thời, nhà nước cũng
tranh thủ huy động các nguồn vốn từ nước ngoài kể cả vốn ODA và vốn vay
thương mại.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự thông thoáng của
chủ trương, chính sách, hệ thống tín dụng nông thôn nước ta ngày càng đa
dạng, với nhiều loại hình Tổ chức tín dụng, chính thức hoặc không chính
thức, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động chính sách. Hiện nay tham gia vào
hệ thống tín dụng nông thôn Việt Nam bao gồm các tổ chức tín dụng chính
thức như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng công
thương, Ngân hàng chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, kho bạc nhà
nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ và mạng lưới tín dụng
không chính thức như người cho vay nóng, cho vay nặng lãi,…Sự phát triển
15
đa dạng về thành phần cung ứng vốn này giúp cho những cá nhân, đơn vị có
nhu cầu về vốn có thêm cơ hội được vay vốn, đồng thời đặt ra yêu cầu mỗi tổ
chức tín dụng trong hệ thống tín dụng nông thôn nước ta phải không ngừng
hoàn thiện, tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động. [8]
2.5.3. Bài học và kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu tín dụng nông
nghiệp, nông thôn ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam
Ngân hàng Grameen là ngân hàng phục vụ người nghèo ở Bangladesh.
Nguồn gốc của Grameen bắt đầu từ năm 1976 khi Giáo sư Muhammad Yunus
- Giám đốc chương trình kinh tế nông thôn ở Đại học Chicatong, Bangladesh
thực hiện Dự án nghiên cứu khảo sát tính khả thi của việc cung cấp dịch vụ
ngân hàng cho vùng nông thôn nghèo. Dự án Ngân hàng Grameen (theo tiếng
Bangla nghĩa là “Ngân hàng của làng quê”) bắt đầu đi vào hoạt động với các
mục tiêu:
- Mở rộng dịch vụ ngân hàng đến với người nghèo.
- Loại bỏ hình thức cho vay nặng lãi.
- Tạo cơ hội tự tạo việc làm cho những người thất nghiệp ở nông thôn
Bangladesh.
- Kết hợp những phụ nữ nghèo vào những mô hình tổ chức phụ thuộc lẫn
nhau, nơi nà họ có thể hiểu và quản lý chính họ.
- Chuyển đổi từ chu kỳ luẩn quẩn “thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư
thấp” thành chu kỳ tiến bộ hơn “thu nhập thấp, bơm tín dụng, thu nhập cao
hơn, tiết kiệm nhiều hơn, đầu tư nhiều hơn, thu nhập nhiều hơn”.
Năm 1976, làng Jobra và các làng quê khác xung quanh trường đại học
Chicatong trở thành khu vực đầu tiên tiếp nhận dịch vụ từ ngân hàng
Grameen. Ngân hàng thành công vang dội và dự án, được chính phủ hỗ trợ,
được giới thiệu vào năm 1979 cho quận Tangail (phía bắc thủ đô Dhaka). Sự
thành công của ngân hàng tiếp tục và nó nhanh chóng trải rộng đến các quận
khác của Bangladesh và vào tháng 10 năm 1983 nó chuyển thành một ngân
hàng độc lập dưới quyết định của cơ quan lập pháp Bangladesh. Ngày nay,
ngân hàng Grameen tiếp tục mở rộng phạm vi biên giới và vẫn cung cấp tín
dụng cho người nghèo nông thôn với các dịch vụ tiết kiệm- tín dụng linh hoạt
của nó. Một đặc điểm đáng ngạc nhiên của Grameen là ngân hàng được sở
16
hữu bởi những người nghèo vay vốn từ ngân hàng mà phần lớn trong số họ là
phụ nữ. Trong tổng số cổ phiếu của ngân hàng, người vay sở hữu 94%, và 6%
còn lại thuộc sở hữu của chính phủ Bangladesh.
Ba mươi năm đã trôi qua, giờ đây ngân hàng Grameen vẫn tiếp tục theo
đuổi thông lệ truyền thống của mình, từ bỏ các thủ tục phức tạp, thành công
trong việc tạo ra một hệ thống ngân hàng dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, tinh
thần trách nhiệm, khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần và sáng tạo.
Ngân hàng đã trở thành điểm sáng trên thế giới trong lĩnh vực phát triển
doanh nghiệp nhỏ, cung cấp tín dụng cho người nghèo và đặc biệt Grameen
Bank được coi là cỗ máy thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế xã hội.
Ngân hàng Grameen được thành lập như một tổ chức đoàn thể, với Hội
đồng quản trị gồm 13 thành viên: 1 giám đốc điều hành, 3 thành viên được chỉ
định bởi chính phủ trong đó có 1 chủ tịch hội đồng quản trị, 9 thành viên được
bầu chọn từ những cổ đông đi vay.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản của Grameen là cung cấp tín dụng mà
không cần thế chấp tài sản cho người nghèo trong tất cả các hoạt động kinh tế.
Ngân hàng cũng chấp nhận tiền gửi tiết kiệm ngoại trừ các giao dịch ngoại tệ,
tiến hành quan sát, nghiên cứu và xuất bản số liệu thống kê về cải cách kinh tế
đối với người nghèo. Ngân hàng đảm bảo thu nhập từ các dự án sản xuất cho
người nghèo, đầu tư vào trái phiếu chính phủ, hướng dẫn người nghèo cách
thức đầu tư vào các dự án kinh doanh nhỏ và tiểu thủ công nghiệp. Có 4 loại
hình cho vay do ngân hàng đề ra: vay cơ bản, vay phát triển nhà, vay phát
triển giáo dục và cho vay hỗ trợ khó khăn. Những người đi vay dược kết hợp
vào các nhóm tự giúp, mỗi nhóm gồm 5 cá thể được cho vay lần lượt mà khả
năng tín dụng của mỗi người trong nhóm bị ràng buộc lẫn nhau, nếu một
người không trả nợ thì những người kia cũng bị ngưng cấp tín dụng. Việc này
tạo động lực kinh tế cho nhóm hoạt động có trách nhiệm, và làm tăng tính khả
thi kinh tế cũng như sự gắn bó của cộng đồng. Ngoài ra, những người đi vay
còn phải cam kết với ngân hàng về các vấn đề đảm bảo an sinh xã hội như là
chăm lo xây dựng và phát triển văn hóa, giáo dục, y tế của gia đình và cộng
đồng.
17
Những điều trên được đảm bảo thực hiện tốt là nhờ 4 hệ thống nền tảng
của ngân hàng Grameen được kết hợp chặt chẽ bởi tập hợp các giá trị ngân
hàng và xã hội bao gồm: 16 cam kết của người đi vay, 10 tiêu chí đánh giá
nghèo đói, 6 nguyên tắc của hệ thống cấp phát tín dụng và 10 nguyên tắc của
hoạt động ngân hàng. Chính nhờ vào những giá trị cốt lõi tự đề ra của mình,
mà ngân hàng Grameen đã thực hiện những chính sách tín dụng hiệu quả, phù
hợp với nhu cầu của người dân nghèo, tạo một hiệu ứng kinh tế xã hội đặc
biệt.
Sự thành công của ngân hàng Grameen có thể được tóm gọn vào 5
nguyên nhân cơ bản sau:
- Hệ thống tín dụng được xây dựng dựa vào nền tảng xã hội.
- Hoạt động nhắm vào thực tiễn và thực hiện bằng tâm huyết của người
làm ngân hàng.
- Tín dụng dựa vào sự tôn trọng lẫn nhau, đề cao tính nhân văn.
- Tinh thần trách nhiệm tập thể.
- Khuyến khích sự tham gia của mọi thành phần và sáng tạo.
Qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, ngân hàng Grameen từ số tiền
856 taka (tương đương 27 USD) ban đầu cho 43 hộ gia đình vay vào năm
1976, hiện nay Grameen có chi nhánh rộng khắp hầu hết các ngôi làng ở
Bangladesh, với tổng số tiền cho vay tính đến tháng 5-2008 là 7.041,85 triệu
USD. Đến nay tổng số người từng vay tiền tại Grameen Bank là 6,61 triệu
người. Grameen Bank cũng là ngân hàng được biết đến với tỷ lệ hoàn vốn đạt
đến trên 98%, một tỷ lệ mà ngay cả khối hệ thống ngân hàng thương mại (với
những quy trình thẩm duyệt gắt gao của mình) cũng khó mà đạt được.
Grameen thực sự là cuộc cách mạng cho người nghèo ở Bangladesh vì
ngoài dịch vụ ngân hàng, Grameen còn thực hiện nhiều chương trình chính
sách xã hội khác, nhằm mục tiêu phát triển cộng đồng như: chương trình học
bổng, điện thoại thôn bản, phát triển nông nghiệp, năng lượng Ngân hàng
Grameen không những giúp người dân nghèo Bangladesh thoát nghèo mà còn
góp phần tạo sự bình đẳng giới tại một quốc gia có đến 86% dân số theo Hồi
giáo và 84% phụ nữ mù chữ.
18
Với những ý nghĩa lớn lao cả về mặt kinh tế - xã hội và nhân văn đó, năm
2006, Giáo sư Muhammad Yunus và ngân hàng của mình đã đồng nhận giải
Nobel Hòa bình “vì những nỗ lực sáng tạo nên sự phát triển kinh tế và xã hội”.
Hiện tại, trên thế giới có khoảng 168 bản sao của Grameen Bank tại 44
quốc gia. Mỗi tuần, một bản sao mới của Grameen Bank lại được ra đời ở một
nơi nào đó. Tham vọng của Grameen là cho vay tín dụng cho khoảng 1,3 tỷ
người nghèo nhất thế giới cho đến năm 2025.[9]
Ngân hàng Grameen cung cấp cho chúng ta một bài học lớn trong việc
hiện thực hóa các hệ thống dịch vụ tài chính vi mô, nhằm mục tiêu xóa đói
giảm nghèo. Đó là:
- Các chương trình, dịch vụ tín dụng phải được thực hiện theo hướng thị
trường, tự vững lâu dài về tài chính để bảo toàn vốn và phát triển chứ không phải
là một chương trình phúc lợi, từ thiện, mang tính bấp bênh. Đồng thời các ngân
hàng cũng cần lấy sự tiến bộ và phát triển kinh tế của khách hàng là mục tiêu và
động lực cho các hoạt động của mình.
- Bên cạnh cung cấp nguồn vốn, các tổ chức tín dụng nông nghiệp cũng
cần hỗ trợ, hướng dẫn người nghèo cách thức phát triển sản xuất, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
- Các ngân hàng cần luôn luôn hoàn thiện quy chế hoạt động của mình,
đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, tạo điều kiện cho người nghèo có nhu cầu
được tiếp cận nguồn vốn. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng ta cần
phải học tập và vận dụng linh hoạt các chuẩn mực và thông lệ thành công trên
thế giới.
- Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà mỗi nước có hình thức tín dụng
nông thôn khác nhau.
- Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết hệ thống tín dụng
nông nghiệp, nông thôn.
- Xác định huy động vốn trong nước là chính, tranh thủ nguồn vốn viện
trợ từ nước ngoài, ổn định và phát triển các tổ chức tín dụng nông nghiệp,
nông thôn.
- Sử dụng các phương thức cấp vốn đa dạng bao gồm: cấp tín dụng trực
tiếp hay gián tiếp, bằng tiền mặt hay hiện vật…[9]
19
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu các nhóm tiết kiệm - tín dụng do dự án phân cấp giảm
nghèo xây dựng đã và đang hoạt động tại huyện Lệ Thuỷ (điểm nghiên cứu là
xã Dương Thuỷ và xã Tân Thuỷ).
- Nghiên cứu những hộ tham gia (những hộ đó là thành viên của nhóm
tiết kiệm và tín dụng của dự án).
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian và thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu ở hai xã
Dương Thủy và Tân Thủy của huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, phạm vi
nghiên cứu là từ lúc bắt đầu triển khai dự án tại hai xã này (năm 2006 đối với
Tân Thuỷ và năm 2007 đối với Dương Thuỷ) cho đến tháng 5/2011. Những
số liệu có từ phỏng vấn người am hiểu và thành viên nhóm tiết kiệm - tín
dụng được thu thập trong năm 2011.
3.2. Nội dung nghiên cứu
-Nghiên cứu hợp phần dịch vụ tài chính nông thôn thuộc Dự án Phân
cấp giảm nghèo Quảng Bình.
+Các căn cứ, mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp tiếp cận của
chương trình dịch vụ tài chính nông thôn.
+ Các hoạt động của hợp phần tài chính nông thôn.
+Tiến trình xây dựng chương trình dịch vụ tài chính nông thôn của dự án
phân cấp giảm nghèo trên địa bàn nghiên cứu.
- Thực trạng hoạt động của các nhóm tiết kiệm-tín dụng trên địa bàn hai
xã Dương Thủy và Tân Thủy bao gồm:
+ Đặc điểm của các nhóm tiết kiệm-tín dụng tại vùng nghiên cứu.
+ Hoạt động tiết kiệm và vay vốn của các nhóm TK-TD.
+ Đánh giá các hoạt động của nhóm tiết kiệm tín dụng tại điểm nghiên
cứu: bao gồm nhu cầu gửi tiết kiệm, nhu cầu vay vốn và mức độ đáp ứng vốn
vay cho các thành viên, tình hình thực hiện các quy chế của thành viên.
20
- Nghiên cứu sự tác động của vốn tín dụng đến kết quả và hiệu quả sản
xuất của nông hộ, mức thu nhập, mức độ tham gia vào các hoạt động xã hội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng, đặc biệt là
các tổ nhóm TK-TD trên địa bàn nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả giảm
nghèo cho người dân.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3 1. Chọn điểm nghiên cứu và chọn mẫu điều tra
Chọn điểm nghiên cứu:
- Điểm nghiên cứu phải đáp ứng các tiêu chí sau:
+ Có các hoạt động tín dụng do dự án phân cấp giảm nghèo thành lập.
+ Thời gian hoạt động tối thiểu của các nhóm tiết kiệm-tín dụng là 3
năm.
- Theo tiêu chuẩn trên tôi đã chọn xã nghiên cứu là xã Dương Thuỷ và
xã Tân Thuỷ của huyện Lệ Thuỷ.
Chọn mẫu điều tra
- Mẫu khảo sát: 60 hộ trên địa bàn nghiên cứu, các hộ đó phải là thành
viên của nhóm tiết kiệm-tín dụng, trong đó có 30 hộ ở xã Dương Thuỷ và 30
hộ ở xã Tân Thuỷ.
3.3.2. Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu:
Thông tin thứ cấp.
- Thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của
điểm nghiên cứu. Tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng, của các dự án
tín dụng trên địa bàn hai xã Dương Thủy và Tân Thuỷ thuộc huyện Lệ Thủy
tỉnh Quảng Bình.
- Nguồn số liệu được thu thập thông qua các tài liệu, các báo cáo, các số
liệu từ UBND xã, huyện có liên quan.
- Báo cáo và kết quả nghiên cứu về hoạt động tín dụng trên địa bàn của
nhiều tác giả để làm nguồn tài liệu thu thập.
Thông tin sơ cấp.
- Phỏng vấn người am hiểu: Trao đổi với một số cán bộ chủ chốt trong
các tổ nhóm TK-TD và ban quản lý dự án cũng như ban tín dụng xã, các cán
bộ phụ trách mảng kinh tế và xóa đói giảm nghèo của xã, cán bộ khuyến nông
để lấy ý kiến và tiếp thu sự đóng góp từ đó làm căn cứ đưa ra những kết luận
21
có độ tin cậy cao làm cơ sở cho việc hoàn thiện nội dung nghiên cứu cũng
như kiểm chứng kết quả nghiên cứu.
- Phỏng vấn hộ nông dân theo phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc:
+ Thông tin chung về các thành viên nhóm TK-TD, như trình độ văn
hóa, tuổi, số nhân khẩu, số lao động, nguồn thu nhập hộ, mức thu nhập bình
quân hộ.
+Tiến trình tham gia nhóm tiết kiệm-tín dụng của hộ.
+ Mức đóng góp vào quỹ vốn của nhóm.
+ Những hiểu biết về tổ chức tín dụng của dự án phân cấp giảm nghèo.
+Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định vay vốn, cách tiếp cận nguồn vốn
tín dụng của hộ.
+ Khoản tiết kiệm đóng góp của hộ, định kỳ đóng góp.
+ Khoảng chênh lệch giữa thực tế và nhu cầu về: mức vay, thời hạn vay,
cách thức hoàn trả…
+ Sự thay đổi mức độ tham gia vào các hoạt động xã hội.
+Những lợi ích và ràng buộc, năng lực quản lí và sử dụng vốn của hộ.
- Thảo luận nhóm: Thu thập thông tin điều tra của người dân về tầm
quan trọng, sự thành công cũng như thất bại của hợp phần tín dụng, xác định
sự tham gia của người dân vào các nhóm tiết kiệm- tín dụng.
5.3.3 Phân tích và xử lý số liệu
+ Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp phân tích: Phân tích định
tính và phân tích định lượng, nhằm tìm hiểu, đánh giá các hoạt động của
nhóm tiết kiệm-tín dụng của hợp phần tín dụng do dự án phân cấp giảm nghèo
xây dựng.
+ Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.
+ Hệ thống các chỉ tiêu được phân tích, đánh giá thông qua sử dụng các
phương pháp so sánh, số bình quân các chỉ số so sánh, phân tích một cách có
hệ thống, xây dựng hệ thống bảng biểu để từ đó rút ra kết luận và xu hướng
phát triển của hiện tượng. Phân tích so sánh giữa các nhóm hộ nhằm rút ra các
kết luận về sự thành công hay thất bại của các nhóm TK-TD trong hợp phần
dịch vụ tài chính nông thôn, và kết quả xóa đói giảm nghèo của các hộ nông
dân.
22
23
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Đặc điểm vùng nghiên cứu
4.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Dương Thuỷ và Tân Thuỷ là hai xã ở phía nam của huyện Lệ Thuỷ, ngăn
cách nhau bởi con sông Đâu Giang hay còn gọi Rào Ngò. Cả hai xã đều
thuộc vùng chuyển tiếp giữa trung du và đồng bằng.
Xã Dương Thuỷ nằm cách trung tâm huyện Lệ Thuỷ chừng 8km, cách
quốc lộ 1A 4km và ga xe lửa gần nhất cách đó 3km.
Xã Tân Thuỷ nằm cách trung tâm huyện xa hơn, song lại gần với quốc lộ
1A hơn.
Không chỉ gần nhau về vị trí địa lý, Dương Thuỷ và Tân Thuỷ còn có
nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên như: đất đai, thổ nhưỡng, nguồn
nước, khí hậu Cả Dương Thuỷ và Tân Thuỷ đều có đất đai rộng, phù hợp
với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là đều có đất sản xuất lúa tương đối màu mỡ
với diện tích lớn. Sông Đâu Giang với nguồn nước bổ sung từ con đập Tân
Sơn cũng là nguồn cung cấp nước tưới tiêu và sinh hoạt chung của nhân dân
hai xã. Khí hậu đặc trưng của hai xã là khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa
lớn và tập trung vào các tháng 8, 9, 10 và thường gây nên lũ lụt lớn, ảnh
hưởng đến sản xuất và đời sống của người dân. Đặc biệt ở hai xã này, về mùa
hè còn có gió phơn Tây Nam (còn gọi là gió Lào) khô nóng thổi và nắng hạn
kéo dài.
Tuy đặc điểm khí hậu có phần khắc nghiệt song nhìn chung, cả hai xã
Dương Thuỷ và Tân Thuỷ đều có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế,
đặc biệt là nông nghiệp, thế mạnh từ lâu của hai địa phương này.
4.1.2. Đặc điểm nhân khẩu, lao động và phân loại hộ của vùng nghiên cứu
Là các địa phương có sự gắn bó lâu đời với nghề nông, do đó hai xã
Dương Thuỷ và Tân Thuỷ có đa số hộ gia đình và lao động tham gia vào lĩnh
vực nông nghiệp, kết quả nghiên cứu được thể hiện qua bảng 1.
24
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu, lao động và phân loại hộ của xã Dương
Thuỷ và Tân Thuỷ năm 2010
Chỉ tiêu ĐVT Dương Thuỷ Tân Thuỷ
- Tổng số hộ Hộ 954 1.435
+ Hộ nông nghiệp Hộ 768 1.063
+ Hộ phi nông nghiệp Hộ 186 372
- Tổng nhân khẩu Khẩu 4.872 6.946
- Tổng số lao động Lao động 3.643 4.791
+ Lao động nông nghiệp Lao động 2.945 3.716
+ Lao động ngành nghề, dịch vụ Lao động 698 1.075
- Tốc độ gia tăng dân số % 1.1 0.9
- Tỷ lệ hộ nghèo % 11 9.5
(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội xã Dương Thuỷ
và xã Tân Thuỷ năm 2010)
Xã Dương Thuỷ có 954 hộ với 4.872 khẩu, trong đó có 768 hộ nông
nghiệp (chiếm 80,5%) và 186 hộ phi nông nghiệp (chiếm 19,5%). Lao động
nông nghiệp của xã Dương Thuỷ là 2.945 người trong tổng số 3.643 lao động,
chiếm 80,84%. Số lao động tham gia vào các ngành nghề, dịch vụ khác là 698
người, chiếm 19,96%.
Tân Thuỷ đông dân cư hơn, có 1.435 hộ với 6.946 khẩu, trong đó hộ
nông nghiệp chiếm 74,08% (1063 hộ) và 25,92% là hộ phi nông nghiệp (372
hộ). Trong tổng số 4.791 lao động của xã Tân Thuỷ; có đến 3.716 lao động
nông nghiệp (77,56%); 1.075 lao động còn lại thuộc các ngành nghề, dịch vụ
khác(chiếm 22,44%).
Với phần lớn dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhìn chung
điều kiện kinh tế của các hộ gia đình ở hai xã Dương Thuỷ và Tân Thuỷ
không có sự chênh lệch lớn và cũng còn nhiều khó khăn. Năm 2010, tỉ lệ hộ
nghèo của xã Dương Thuỷ là 11%; xã Tân Thuỷ là 9,5%. Tốc độ gia tăng dân
số của hai xã năm 2010 vẫn còn khá cao, xã Dương Thuỷ là 1,1% và Tân
Thuỷ là 0,9%. Chính tỉ lệ hộ nghèo và tốc độ gia tăng dân số cao là một trở
ngại không nhỏ đối với hai xã trong quá trình phát triển kinh tế đi lên trong xu
thế hội nhập hiện nay.
25