Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

phân tích hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất nấm rơm trên địa bàn xã phú lương, huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 67 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nấm rơm là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao có thể coi như
những loài rau sạch, thịt sạch. Ở những nước phát triển nghề trồng nấm rơm
có từ lâu đời và ngày càng được cơ giới hóa, đang trở thành một nghề sản
xuất lớn theo hướng công nghiệp. Đối với Việt Nam nghề trồng nấm mới phát
triển 10 năm trở lại đây. Nguồn nguyên liệu chính để trồng các loại nấm là
các sản phẩm phụ nông nghiệp, lâm nghiệp như: Rơm rạ, mùn cưa… Những
nguyên liệu này rất sẵn có ở những vùng nông thôn Việt Nam, hơn nữa sau
khi được dùng trồng nấm, các loại phế thải này lại được dùng làm phân hữu
cơ bón cho một số cây trồng khác.
Sản xuất nấm rơm giúp bà con nông dân tận dụng được một số lượng
lớn rơm rạ sau mỗi vụ gặt tận dụng được mọi khoãng không gian, ngoài vườn
trên tầng cao…Tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động kể cả người già, trẻ
em, tận dụng được lao động gia đình đặc biệt là trong lúc nông nhàn. Với chi
phí đầu tư ban đầu không lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn, thu hồi vốn
nhanh, mang lại giá trị kinh tế cao. Từ những giá trị dinh dưỡng và kinh tế mà
các loại nấm ăn mang lại cùng với điều kiện khí hậu thời tiết nóng ẩm, thuận
lợi cho việc trồng nấm rơm ở nước ta thì hoạt động trồng nấm đã trở thành
một nghề thiết thực, cho thu nhập khá ổn định ở khu vực nông thôn, là nghề
đang phát triển mạnh và có thể trở thành một yếu tố mới, góp phần phát triển
nông nghiệp nông thôn Việt Nam.
Phú Lương là một xã nằm ở phía tây huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên
Huế, nhiệt độ trung bình đạt 25
0
C, lượng mưa trung bình năm lớn 1.500 mm -
2.000 mm trên năm nên độ ẩm tương đối trung bình năm 85 - 86
0
C. Thuận lợi
cho việc sản xuất nấm rơm. Tuy nhiên với những điều kiện và thế mạnh sẵn


có của xã phú Lương nhất là HTX NN Phú Lương 1, việc sản xuất nấm rơm
vẫn chưa có sự quy hoạch vẫn mang tính tự phát, hạn chế về kỹ thuật, công
nghệ chế biến, thị trường đầu ra, đầu vào…Nên sản xuất nấm ở xã vẫn gặp
những khó khăn và chưa mang tính bền vững. Vì vậy xuất phát từ những vấn
đề thực tiễn ở địa phương và góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất nấm rơm ở
xã Phú Lương phát triển, phát huy tiền năng thế mạnh của địa phương nâng
cao hiệu quả của nấm rơm trên địa bàn xã Phú Lương. Do đó tôi đã chọn đề
tài:
“Phân tích hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất nấm rơm trên địa
bàn xã Phú Lương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
1.2.1. Mục tiêu chung.
Nghiên cứu đề tài này trên cơ sở đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế
sản xuất nấm rơm trên địa bàn xã Phú Lương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên Huế. Từ đó đề xuất một số giải pháp hửu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế sản xuất nấm rơm tại xã.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động sản xuất nấm rơm ở xã phú Lương.
- Phân tích kết quả, hiệu quả kinh tế, thị trường tiêu thụ, mức độ rủi ro
của hoạt động sản xuất nấm rơm.
- Xác định những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất nấm rơm.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Các khái niện có liên quan.
2.1.1. khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế.
a. Khái niệm:
Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ
bản trong sản xuất kinh doanh đó là:

Yếu tố đầu vào: Chi phi vật tư, chi phí trung gian, khấu hao tài sản cố
định
Yếu tố đầu ra: Giá trị sản xuất, thu nhập, lợi nhuận
Như vậy người sản xuất muốn có lợi nhuận thì phải bỏ ra những khoản
chi phi nhất định. Sau mỗi quá trình sản xuất chúng ta so sánh kết quả đó thì
xác định được hiệu quả kinh tế. Sự chênh lệch này càng cao thì hiệu quả kinh
tế càng lớn và ngược lại. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế là tối đa hóa kết quả
đạt được hoặc tối thiểu hóa chi phi bỏ ra dựa trên các nguồn nhân lực và vật
lực hiện có. [1]
Trong thực tế kết quả đạt được rất phong phú và đa dạng có thể trên
phương diện kinh tế, tài chính và có thể kết quả thu được trên phương diện xã
hội như giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo, cải thiện môi trường Và cũng có
thể kết quả đạt được trên cả hai phương diện kinh tế - xã hội. Vì vậy hình
thành nên khái niệm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế - xã
hội như sau:
Hiệu quả kinh tế: Là sự tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và chi phí bỏ ra, nó thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế như: Giá trị tổng
sản xuất lợi nhuận tính trên lượng chi phí đã bỏ ra.
Hiệu quả xã hội: Là tổng quan so sánh một bên là chi phí bỏ ra và kết
quả xã hội đạt được như: Tạo thêm công ăn việc làm, giảm tỷ lệ đói nghèo,
cải tạo môi trường sinh thái
Hiệu quả kinh tế - xã hội: Là tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và
kết quả đạt được cả về mặt kinh tế và xã hội. Phát triển kinh tế và phát triển
xã hội có mối quan hệ mật thiết, ngắn bó chặt trẽ với nhau. Mục tiêu của phát
triển kinh tế là phát triển xã hội và ngược lại, chúng là tiền đề của nhau và là
3
phạm trù thống nhất. Do đó phát triển kinh tế cần được hiểu trên khái niện
hiệu quả kinh tế - xã hội.[1]
b. Bản chất của hiệu quả kinh tế:
Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương đối và

tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Để đạt được
cùng một thời lượng sản phẩm người ta có thể bằng nhiều cách khác nhau
song do sự mâu thuẫn giữa nhu cầu tăng lên của con người với sự hửu hạn
nguồn tài nguyên, nên khi đánh giá kết quả của một quá trình sản xuất kinh
doanh cần phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào và mất bao nhiêu
chi phí. Việc đánh giá kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ
dừng lại ở việc đánh giá số lượng sản phẩm đạt được mà còn phải đánh giá
chất lượng của hoạt động đó. Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh
doanh chính là đánh giá hiệu quả kinh tế trên phạm vi xã hội, các chi phí bỏ ra
để thu được kết quả phải là chi phí lao động xã hội. Từ đó bản chất hiệu quả
kinh tế - xã hội chính là hiệu quả lao động xã hội, thước đo của hiệu quả là
tiết kiệm lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hóa kết quả đạt
được và tối thiểu hóa chi phí bỏ ra dựa trên các nguồn lực hiện có.
2.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả kinh tế.
Năng suất: Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị diện tích gieo trồng trong
một lứa sản xuất được bao nhiêu lứa nấm. Do sản xuất nấm của các hộ điều
tra được tiến hành trong vòm, một vòm có thể sản xuất nhiều lứa nấm nên
chúng ta tính năng suất là:
S
Q
N =
Trong đó: N: Năng suất
Q: sản lượng
S: diện tích (số lứa nấm)
Tổng giá trị sản xuất: GO (Gross Output) là chỉ tiêu biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ sản phẩm thu được trên một đơn vị diện tích canh tác trong
một chu kỳ sản xuất nhất định.
GO =

=

n
i
QiPi
1
.
Trong đó: Q
i
:

Khối lượng sản phẩm thứ i
4
P
i
: Đơn giá sản phẩm thứ i
n : Số sản phẩm
Thu nhập hỗn hợp: MI (Mixed Income) là phần thu nhập thuần túy
bao gồn cả công lao động của gia đình tham gia sản xuất.
MI = GO – Chi phí trung gian – Chi phí tài chính - Thuế
Chi phí trung gian: IE (Intermediate Expenditure) trên một đơn vị
diện tích bao gồm chi phí meo giống, rơm, tu sửa, xử lý vòm, thuê lao động
và chi phí khác.
Chi phí tài chính: FC (Finance Cost) là chi phí trả tiền lãi vay và chi
phí cho việc vay lượng vốn đó.
Lợi nhuận kinh tế: EP (Ecocmic Profit) Là phần lãi ròng trong thu
nhập trên một đơn vị diên tích:
Lợi nhuận= Thu nhập hỗn hợp – Chi phí lao động –
Khấu hao TSCĐ – Chi phí hiện vật của hộ
Thu nhập từ trồng nấm rơm so với một số cây trồng chính.
Giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn:
• Số lao động có việc làm

• Thành phần lao động tham gia vào hoạt động trồng nấm rơm.[2]
2.2. Khái quát tình hình sản xuất nấm ăn nói chung và nấm rơm nói
riêng trên thế giới và trong nước.
2.2.1. Quan điểm về nấm ăn.
Theo quan niệm củ, nấm là thực vật, như các loại cây cỏ khác, nhưng là
thực vật không có sắc tố xanh (diệp lục tố). Tuy nhiên, những nghiên cứu
ngày càng nhiều trên sinh lý và biến dưỡng, cho thấy nấm có nhiều điểm khác
với thực vật như:
Không có khả năng quang hợp.
Nấm dự trữ đường dưới dạng glucogen, thay vì tinh bột.
Mặc dù vậy nấm cũng không phải là động vật bởi vì:
Nấm sinh sản chủ yếu bằng bào tử (hửu tính hoặc vô tính)
Sự sinh dưỡng của nấm liên quan đến hệ sợi nấm.
Vì lý do trên mà người ta cho rằng cần tách nấm ra khỏi giới thực vật
và thành lập một giới riêng, gọi là giới nấm.
5
Nấm cũng là sinh vật và là sinh vật có nhân (khác với vi khuẩn, chưa
có nhân). Cấu tạo của nấm có thể đơn bào như nấm men hoặc đa bào như các
loại nấm sợi (trong đó có nấm ăn). Do cấu tạo như vậy, nên nói đến nấm là
nghỉ tới các sợi tơ nhỏ li ti và gọi chung là mốc meo.
Tóm lại để hiểu về nấm ăn người ta có thể tóm tắt như sau:
• Là sinh vật dạng sợi có nhân thật.
• Dinh dưỡng bằng cách lấy thức ăn qua mạng tế bào sợi nấm.
• Sinh sản chủ yếu bằng bào tử, trên cấu trúc đặc biệt là tai nấm
hay quả nấm.[3]
2.2.2. Tình hình sản xuất nấm ăn trên thế giới.
Hiện nay trên thế giới ghi nhận được khoảng 2000 loài nấm ăn, trong
đó có khoảng 80 loài nấm ăn ngon và được nghiên cứu nuôi trồng, rất nhiều
loài được trồng làm dược liệu. Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn, nấm
dược liệu củng như công nghệ chế biến và bảo quản nấm trên thế giới ngày

càng phát triển mạnh mẽ. Nó đã trở thành một ngành công nghiệp thực sự
mang lại hiệu quả về mặt kinh tế xã hội cho các quốc gia:
Bảng 1: Quy mô và sản lượng nấm trên thế giới ngày càng tăng qua các
năm.
Đvt sản lượng: Tấn
Năm 1975 1979 1986 1990 1994 2005
Sản
lượng
925.00
0
1.210.00
0
2.182.00
0
3.763.00
0
4.909.00
0
20.000.000
[4].
Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu và sản xuất nấm
mỡ, nấm hương, nấm sò, nấm rơm là chủ yếu. Đến năm 1990 thì sản lượng
nấm trên thế giới đã đạt 3.763.000 tấn, trong đó nấm mỡ là 1.424.000 tấn,
nấm hương là 393.000 tấn. Năm 1994, tổng sản lượng nấm trên thế giới là
4.909.000 tấn, trong đó cụ thể các loại nấm được thể hiện qua bảng số liệu 2
dưới đây:
6
Bảng 2: Sản lượng các loại nấm cụ thể trên thế giới được sản xuất trong
năm 1994.
Đvt sản lượng: Tấn

STT Tên loại nấm Sản lượng Tỷ lệ %
- Tổng sản lượng 4.909.000 100,0
1 Nấm mỡ 1.846.000 37,6
2 Nấm hương 826.200 16,8
3 Nấm rơm 798.800 16,1
4 Nấm kim vàng 229.800 4,7
5 Nấm nhĩ trắng 156.200 3,2
6 Nấm chân cơ 54.800 1,1
7 Nấm trơn 27.000 0,5
8 Nấm hoa cây xám 14.200 0,3
9 Các loại khác 956.000 19,5
[4].
So với năm 1994/1990 thì nấm mỡ, nấm hương, nấm rơm, nấm kim
vàng, nấm hoa cây xám đều tăng. Cụ thể nấm mỡ năm 1994 là 1.848.000 tấn
(năm 1990 là 1.424.000 tấn), nấm hương năm 1994 là 826.200 tấn (năm 1990
là 393.000 tấn).
Khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu trồng nấm theo phương pháp công
nghiệp. Những nhà máy sản xuất nấm có công suất từ 200 – 1000 tấn/năm
được cơ giới hóa, từ khâu xử lý nguyên liệu đến thu hái chế biến đều do máy
móc thực hiện. Năng suất trung bình đạt từ 40 - 60% so với nguyên liệu ban
đầu (nấm mỡ).[4], [5].
Bảng 3: Sản lượng nấm của một số nước thuộc khu vực Châu Âu và Bắc
Mỹ năm 1994.
Đvt sản lượng: Tấn
Quốc gia Hoa kỳ Pháp Hà lan Italia Canada Anh
Sản lượng
393.000 185.000 88.500 71.000 46.000 28.500
[5].
Khu vực Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc ) Triển khai sản
xuất nấm theo mô hình trang trại vừa và nhỏ, đặc biệt ở Trung Quốc nghề

7
trồng nấm đã thực sự đi vào từng hộ dân. Sản lượng nấm củng tăng lên đáng
kể thể hiện năm 1994 sản lượng nấm của một số nước ở bảng 4:
Sản lượng nấm của các nước chủ yếu là nấm mỡ, còn nấm hương thì do
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sản xuất là chính.
Hiện nay Trung Quốc là nước sản xuất nấm lớn nhất thế giới, năm
1995 sản lượng nấm của Trung Quốc đạt 3.000.000 tấn chiến 60% tổng sản
lượng, riêng tỉnh Phúc Kiến là 800.000 tấn, chiếm 26,67% cả nước và 6,4%
toàn thế giới.
[5, 21 – 23].
Bảng 4: Sản lượng nấm của một số nước thuộc khu vực Châu Á năm
1994.
Đvt sản lượng: Tấn
Tên quốc gia Trung Quốc Nhật Bản Inđônêxia Hàn Quốc
Sản lượng 2.850.000 360.000 118.000 92.000
[5].
2.2.3. Tình hình sản xuất nấm ở Việt Nam.
Vấn đề nghiên cứu và phát triển sản xuất nấn ăn ở Việt Nam bắt đầu từ
những năm 70. Năm 1984 thành lập trung tâm nghiên cứu nấm ăn thuộc Đai
Học Tổng Hợp Hà Nội. Năm 1985 được tổ chức FAO tài trợ và UBND thành
phố Hà Nội quyết định thành lập trung tâm sản xuất Giống Nấm Tương Mai
Hà Nội (sau đó đổi tên thành công ty sản xuất giống, chế biến và xuất khẩu
nấm Hà Nội).
Năm 1986 tổ chức FAO tài trợ UBND thành phố Hồ Chí Minh quyết
định thành lập xí nghiệp nấm Thành Phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn một số
đơn vị: Công ty nấm Thái Bình (tỉnh Thái Bình), Xí Nghiệp Nấm ( thuộc tổng
công ty rau quả Vegetexco), các công ty liên doanh sản xuất và chế biến nấm
ở Việt Nam. Một số đơn vị tham gia sản xuất và xuất khẩu nấm: Tổng công ty
rau quả (Vegetexco), tổng công ty xuất nhập khẩu máy (Technomport),
Uninex Hà Nội, Phong trào trồng nấm mỡ trong các năm 1988 – 1992 đã

mở rộng đến hầu hết các tỉnh phía Bắc.
Năm 1991 – 1993 bộ khoa học – Công nghệ và môi trường triển khai
dự án sản xuất nấm theo công nghệ của Đài Loan.
8
Năm 1992 – 1993, công ty nấm Hà Nội nhập thiết bị chế biến đồ hộp
và “nhà trồng nấm công nghiệp” của Italia. Thành phố Hà Nội, Unimex
Quảng Ninh, tỉnh Hà Nam Ninh, Hà Tây Đã đầu tư hàng tỷ đồng cho nghiên
cứu và sản xuất nấm ăn. Nhiều huyện như Tây Yên (Hà Bắc), Quỳnh Phụ
(Thái Bình), Đã có hàng nghìn hộ nông dân trồng nấm mỡ. Tuy nhiên đến
năm 1996 do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chỉ còn lại một số tỉnh như:
Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hà Nội và một vài cơ sở sản xuất khác còn sản xuất các
loại nấm.
Tổng sản lượng các loại nấm được nuôi trồng trong các năm qua ở các
tỉnh phía Bắc chủ yếu tiêu thụ ở dạng tươi, sấy khô, muối Thống kê sản
lượng hàng năm được thể hiện qua bảng số liệu 5:
Bảng 5: Sản lượng nấm ở các tỉnh phía Bắc qua các năm (1988 – 2005)
Đvt sản lượng: Tấn
Năm Sản Lượng Năm Sản Lượng Năm Sản lượng
198
8
50 1994 60 1999 5.000
1990 100 1995 50 2000 10.000
1991 120 1996 50 2005 50.000
1992 150 1997 120
1993 250 1998 1.000
[5].
Các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long và Miền Nam đang phát triển
nghề trồng nấm rơm rất nhanh. Sản lượng tăng theo cấp số nhân: Từ trước
năm 1990 mới đạt con số vài tấn đến nay đã đạt sản lương lên tới 100.000 tấn
trên năm. Ngoài nấm rơm ra chủ yếu là nấm mèo (mộc nhĩ) cũng được nuôi

trồng rất phổ biến. Nấm mỡ và nấm sò trồng tại Đà Lạt song rất khó khăn về
nguyên liệu, chiến sản lượng chưa đáng kể.
Trong những năm 1985 – 1995, tổng ngân sách nhà nước và các địa
phương đã đầu tư hàng trục triệu đồng cho việc nghiên cứu và triển khai sản
xuất nấm mỡ ở các tỉnh phía Bắc, song kết quả đạt được lại rất thấp. Nhiều
đơn vị và cơ sở sản xuất nấm thua lỗ làm mất vốn của nhà nước, chưa tạo
9
được uy tín trên thị trường thế giới mặc dù tiềm năng để phát triển nghề này
là rất lớn.
Những nguyên nhân chưa thành công của nghề trồng nấm đối với các
tỉnh phía Bắc trong giai đoạn 1985 – 1995 là:
Việc tổ chức sản xuất nấm của các đơn vị chuyên trách về nấm còn
nhiều yếu kém.
Công tác nghiên cứu về trọn tạo giống, công nghệ nuôi trồng các loại
nấm ăn chưa đạt năng suất cao, giá thành hạ, công nghệ bảo quản chế biến đạt
chất lượng ở các trung tâm nghiên cứu và cơ sở sản xuất nấm chưa được chú
trọng đúng mức.
Thiếu cán bộ kỹ thuật nuôi trồng nấm, nhân dân sản xuất chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm học được từ bà con lối xóm là chính. Dẫn đến năng suất chất
lượng không tăng mà con có xu hướng giảm.
Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về giá trị dinh dưỡng và cách
làm ăn trên các phương tiện thông tin đại chúng còn quá ít.
Các thiết bị, công nghệ trồng nấm nhập khẩu từ nước ngoài không phù
hợp với tình hình sản xuất của địa phương. [5, 18 – 20].
2.2.4. Tình hình sản xuất nấm ở Thừa Thiên Huế.
Nghề trồng nấm ở Thừa Thiên Huế phát triển từ những năm 90 song
quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu mang tính tự phát. Hiện nay hầu hết các huyện đều có
người trồng nấm. Các loại nấm chủ yếu được trồng ở Thừa Thiên Huế như:
Nấm rơm, nấm linh chi, mộc nhĩ, nấm sò. Cho tới những năm gần đây nghề
trồng nấm mới được quan tâm. Nấm ăn bắt đầu phát triển và đem lại nguồn

thu nhập đáng kể cho gia đình. Nấm được trồng phổ biến ở các huyện như
huyên Phú Vang, Quảng Điền, Hương Thủy, Đặc biệt đối với nấm linh chi là
một dược liệu quý đã được HTX Phú Lương 1 sản xuất và bán đi nhiều nơi,
hiện tại đã có thương hiệu khá vững chắc. Các loài nấm khác cũng khá phát
triển đặc biệt là nấm rơm được trồng hầu hết ở các hộ trong tỉnh song chủ yếu
ở quy mô hộ gia đình, thường từ 1 đến 3 vòm/hộ.
Nhu cầu trồng nấm trong tỉnh ngày càng có xu hướng tăng. Hiên nay
Thừa Thiên Huế cũng đã có sự quan tâm cho nghề trồng nấm. Đã có cơ sở sản
xuất meo giống trong tỉnh, như cơ sở sản xuất meo giống ở huyện Hương
10
Thủy, Trung tâm giống cây trồng cũng đã tiến hành chuyển giao công nghệ
trồng nấm ở Nam Đông, hội thảo Nấm ở Phú Đa,
Tỉnh cũng đã có các dự án nhằm đưa công nghệ chế biến vào sản xuất
để đa dạng hóa sản phẩm như: Dự án sản xuất chế biến nấm rơm đóng hộp
với công xuất là 400 hộp/ngày, trọng lượng mỗi hộp là 500g, và dự án xây
dựng phân xưởng sấy nấm rơm với năng suất là 200 kg/ngày ở HTX Phú Đa
1. Sở nông nghiệp đã cử 15 đoàn đi tham quân học tập tại cơ sở sản xuất nấm
rơm ở huyện Nam Đông, Phú Vang [6].
11
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU.
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các hộ sản xuất nấm rơm trên địa bàn xã Phú Lương, bao gồm các hộ
chuyên và không chuyên.
Cụ thể: Điều tra 30 hộ sản xuất nấm rơm ở ba thôn: Lê Xá Đông, Vĩnh
Lưu, Đông B.
3.1.2. Pham vi nghiên cứu.
Pham vi về thời gian: Từ ngày 2 tháng 1 - 5 tháng 5 năm 2008

Pham vi về không gian: Tập chung nghiên cứu 3 thôn sản xuất nấm
rơm có quy mô lớn ở xã.
3.2. Nội dung nghiên cứu:
3.2.1. Những thông tin chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã
Phú Lương.
Điều kiện thời tiết khí hậu: Nắng mưa, nhiệt độ, độ ẩm…
Diên tích và cơ cấu các loại đất: Đất tự nhiên, đất nông nghiệp, đất ở,
đất chưa sử dụng.
Dân số và lao động: Tổng số hộ, tổng nhân khẩu, số lao động, nghề
nghiệp.
Giao thông thủy lợi: Số Km đường bê tông, số trạm bơm, kênh tưới
tiêu.
Các loại mô hình trồng trọt có hiệu quả của xã, diện tích và hiệu quả.
Văn hóa, giáo dục, y tế.
3.2.2. Thực trạng sản xuất nấm rơm tại xã Phú Lương.
Quy mô sản xuất nấm hiện nay của xã.
Số lượng hộ tham gia sản xuất nấm.
Năng xuất, sản lương nấm trên địa bàn xã.
Nguyên vật liệu cho sản xuất nấm.
Kỹ thuật sản xuất nấm rơm ở xã.
Hình thức tiêu thụ.
12
3.2.3. Hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất nấm rơm tại xã.
Chi phí đầu vào cho sản xuất nấm rơm: Chi phí nguyên vật liệu, giống,
vòm nấm, khấu hao tài sản cố định, và một số chi phí khác…
Năng xuất sản lượng, quy mô…
Tình hình thu nhập: Giá bán, lợi nhuận….
Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất nấm rơm so với một số cây
trồng chính của xã
3.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng xuất nấm rơm.

• Thời tiết, khí hậu…
• Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng
• Giống
• Trình độ
• Tay nghề
3.3. Phương pháp nghiên cứu:
3.3.1. Phương pháp thu thập thông tin.
a. Thu thập thông tin thứ cấp.
Thu thập những thông tin liên quan đến ngành trồng nấm ở Sở Nông
Nghiệp và trung tâm Khuyến Nông Khuyến Lâm Thừa Thiên Huế. Phòng
Nông Nghiệp Huyện, xã, phòng thống kê thông qua các báo cáo tổng kết hàng
năm của xã, phỏng vấn người am hiểu…
Thu thập thông tin qua tài liệu, sách báo, mạng internet…
b. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp.
Sử dụng một số công cụ của PRA như: Phỏng vấn, quan sát, nói
chuyện…
Phỏng vấn cán bộ HTX, các hộ gia đình trồng nấm rơm bằng bảng câu
hỏi bán cấu trúc. Nghiên cứu sâu 2 hộ gia đình ở HTX NN Phú Lương 1.
Ngoài ra trong thời gian ở điểm tôi có thể hỏi ý kiến của một số hộ gia
đình khác để có thông tin đối chiếu và đưa ra thông tin một cách chính xác
nhất.
c. Phương pháp quan sát đánh giá.
Quan sát hoạt động sản xuất nấm.
Quan sát sự sinh trưởng phát triển của các loại nấm.
13
3.3.2. Phương pháp xử lý số liệu.
a. Phương pháp tổng hợp và phân tích.
Hệ thống hóa các số liệu đã thu thập và điều tra. Từ đó tiến hành phân
tích để tìm ra các mối tương quan giữa chúng.
b. Phương pháp xử lý số liệu trên phần mềm excel

Dùng một số hàm cơ bản như: Hàm sum, hàm average…
14
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên của xã Phú Lương.
4.1.1. Vị trí địa lý.
Phú Lương nằm về phía tây của huyện Phú Vang và cách trung tâm
huyện 3km. Phú Lương có vị trí địa lý như sau:
Phía đông: Giáp xã Phú Xuân
Phía tây: Giáp xã Phú Hồ
Phía Nam: Giáp xã Thủy Thanh Huyện Hương Thủy
Phía Bắc: Giáp xã Phú Xuân
4.1.2. Khí hậu thời tiết.
Phú Lương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa mưa
nắng rỏ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước và kết thúc vào tháng 3
năm sau, mùa nắng từ tháng 4 đến tháng 8. Đồng thời Phú Lương chịu ảnh
hưởng trực tiếp bởi hai loại gió chính đó là gió mùa đông bắc và gió tây nam.
Gió đông bắc hoạt động từ tháng 10 năm trước và kết thúc vào tháng 3 năm
sau, thường gây mưa, lụt vào tháng 10, 11. Gió tây nam hoạt động từ tháng 4
và kết thúc vào tháng 8, thường gây nóng và khô.
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm đạt 25
o
C. Từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau nhiệt độ giao động từ 23 - 29,9
o
C, thấp nhất vào tháng 12, tháng 1,
tháng 2 năm sau nhiệt độ xuống 10,2
o
C. Nhiệt độ cao tuyệt đối năm lên tới
40,1

o
C.
Mùa mưa: Mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 3 năm sau.
Đỉnh mưa dịch chuyển trong 4 tháng là từ tháng 9 đến tháng 12, riêng tháng
11 có lượng mưa nhiều nhất chiếm tới 30% lượng mưa cả năm.
Độ ẩm: Độ ẩm tương đối trung bình năm 85 - 86%. Ẩm độ trung bình
10 năm qua các tháng đều lớn hơn 77,3%, cao nhất vào tháng 12 là 89% và
thấp nhất vào tháng 7.
Gió: Xã Phú Lương chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính:
- Gió mùa tây nam: Bắt đầu thổi từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió bình
quân 2 - 3 m/s có khi lên tới 7 - 8 m/s, vào những tháng này trong năm thì gió
15
thường khô nóng, nhất là vào tháng 5 đến tháng 6, gió nóng kết hợp với nhiệt
độ cao nó đã làm lượng nước bốc hơi mạnh gây khô hạn kéo dài.
- Gió mùa tây nam: Bắt đầu thổi từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ
gió bình quân từ 4 - 6 m/s. Gió kèm theo mưa làm cho khí hậu lạnh và ẩm
ướt, dễ gây lũ lụt, ngập úng ở nhiều nơi. Sâu hại, bệnh tật đối với cây trồng và
gia súc thường xuất hiện vào những tháng này trong năm.
- Bão: Thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10 trong năm. Tốc độ gió
lớn có thể đạt trên 15 - 20 m/s (gió mùa đông bắc) và 30 - 40 m/s khi bão, lốc
kéo đến.
Nắng: Số giờ nắng trung bình năm là 2.075 h/năm và số ngày nắng
trong năm là 196 ngày. [7]
Với điều kiện thời tiết như vậy thuận lợi để xã Phú Lương phát triển
nấm rơm như độ ẩm tương đối cao, nhiệt dộ vào những tháng mùa hè phù hợp
với đặc điểm sinh trưởng và phát triển của nấm rơm. Nhưng bên cạnh đó vào
mùa đông và mùa mưa thì khí hậu thời tiết ở đây lại rất khác nhiệt có lúc nhiệt
độ xuống thấp tới 7
0
C – 8

0
C, mua nhiều gây lũ lụt thường xuyên làm cho nấm
chết và không phát triển.
4.1.3. Các nguồn tài nguyên.
a. Tài nguyên đất:
Đất cát: Diện tích 494,7 ha, chiếm 27,32% diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất này có 2 đơn vị đất đó là đất cát biển và đất cồn cát, loại đất này
được phân bố chủ yếu ở các xứ đồng giáp xã Phú Xuân, do gần Phá Tam
Giang, phần lớn còn để hoang hóa chưa được sử dụng. Một số nơi có thể quy
hoạch trồng rừng phòng hộ, có thể trồng phi lao ở những nơi có tầng nước
ngầm nông.
Đất phù sa: Diện tích là 113,73 ha, chiếm 6,28% diện tích tự nhiên.
Đất phù sa có diện tích không lớn và phân bố dọc sông Lợi Nông - Đại Giang,
loại đất này rất có ý nghĩa cho sản xuất nông nghiệp và thực tế đã được nông
dân khai thác một cách khá triệt để vào sản xuất hoa màu lương thực cũng
như cây công nghiệp ngắn ngày bởi những đặc điểm khá ưu việt của nó như:
Tỷ lệ đạm, mùn trung bình khá cao, thành phần cơ giới thì nhẹ, dễ thoát nước,
địa hình bằng phẳng, tập trung.
16
Đất biến đổi do trồng lúa: Diện tích 1.152,23 ha, chiếm 63,62% diện
tích đất tự nhiên. Đây là loại đất được hình thành do sản phẩm phong hóa đá
mẹ khác nhau, được nhân dân địa phương cải tạo lâu đời, nên hình thành các
chân ruộng để sản xuất nông nghiệp. Loại đất này được phân bố ở hầu hết các
vùng trong xã.
Đất khác: Bao gồm mặt nước đầm phá, kênh mương và sông hồ Diện
tích là 50,34 ha chiếm 2,78% diện tích tự nhiên.
b. Tài nguyên nước:
Nước mặt: Con sông chính cấp nước cho xã Phú Lương là sông Lợi
Nông và sông Đại Giang dài 6 km lấy nước qua cống Phú Cam. Về mùa hè
tối đa cũng chỉ lấy vào khoảng 8 m

3
cho cả vùng đồng bằng Nam Sông
Hương.
Bên cạnh đó còn có hói dẫn nước như hói Phú Thứ và các kênh mương
tưới tiêu Tuy nhiên đối với vụ hè thu còn gặp một số khó khăn như: Đáy
của những rạch nước này đã bị vùi lấp nên cạn dần và khả năng dẫn nước về
đồng ruộng về mùa khô là rất khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt của người dân.
Nước ngầm: Theo quan sát thực tế từ các giếng đào cho thấy nguồn
nước ngầm ở Phú Lương tương đối lớn, độ sâu từ 4 - 6 m có thể khai thác
phục vụ sinh hoạt và cung cấp cho một số cơ sở công nghiệp nhỏ.[7]
Tài nguyên đất và tài nguyên nước như vậy rất thuận lợi cho xã Phú
Lương phát triển trồng lúa nước, tạo nguồn rơm rạ dồi dào để tròng nấm rơm.
nguồn nước sạch chủ động để tưới phục vụ cho phát triển nấm rơm và một só
loại nấm khác.
4.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã Phú Lương những năm
gần đây.
4.2.1. Trong lĩnh vực kinh tế.
a. Sản xuất nông nghiệp:
Trồng trọt:
Tổng diện tích gieo trồng năm 2007 là 2008 ha đạt 100% kế hoạch,
tăng 0,3% so với năm 2006. Trong đó diện tích trồng lúa chiếm 1966 ha đạt
17
100% kế hoạch, tăng 0,3% so với năm 2006. Tổng sản lượng lúa đạt 11.734
tấn đạt 100,3% kế hoạch.
Diện tích trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày chiến 42 ha, đạt
100% kế hoạch (trồng sắn KM94 là 27 ha, có 01 ha trồng đậu đỏ tại HTX NN
Phú Lương 1 do Viện Bảo Vệ Thực Vật Trung Ương đầu tư, số diện tích còn
lại trồng các loại rau màu), năng suất cây công nghiệp đạt 30 tạ/ha.
Tỷ lệ cơ cấu giống lúa cấp xác nhận đạt 100% trong đó giống khang

dân chiếm 80%. Giống lúa có chất lượng cao như nếp BJ 352, HT1 đạt 20%.
Mặc dù năm 2007 công tác sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã gặp rất nhiều
khó khăn, đầu vụ đông xuân mưa lớn kéo dài và cuối vụ ảnh hưởng của tiểu
mãn vào thời điểm lúa đang trổ bông đã làm một số diện tích lúa đến lúc thu
hoạch đã bị đen hạt. Nhưng UBND xã tích cực chỉ đạo các HTX NN triển
khai sản xuất đúng lịch thời vụ, quan tâm đến công tác dự tính dự báo thời tiết
để thông báo cho nhân dân thực hiện tốt việc chăm sóc lúa và phòng trừ các
loại sâu bệnh cũng như đẩy mạnh phong trào diệt chuột có hiệu quả, nên năng
suất cuối vụ đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Chăn nuôi:
Tiếp tục triển khai tốt chương trình phát triển chăn nuôi gia súc, gia
cầm trên địa bàn xã. Tăng cường hơn nữa công tác tiêm phòng, phun thuốc
cho các hộ chăn nuôi đạt kế hoạch, nhằm làm tốt công tác phòng dịch, để từ
đó ổn định được đàn gia súc gia cầm.
Hiện nay trong xã tổng đàn trâu có 163 con giảm 69 con so với năm
2006. Đàn bò có 95 con giảm 5 con so với 2006. Tổng đàn lợn có 2400 con,
trong đó lợn nái mẹ 200 con. Đàn gia cầm có 64.000 con, trong đó đàn gà có
12.000 con. Tổng đàn thủy cầm 52.000 con trong đó vịt đẻ 3000 con.
Đối với công tác chuyển đổi diện tích lúa có năng xuất thấp sang nuôi
cá nước ngọt, UBND xã đã chỉ đạo 3 HTX xây dựng kế hoạch từ đầu năm,
nhưng đến nay chỉ thực hiện được 50% trên tổng diện tích được quy hoạch là
29 ha.
b. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ:
Phú Lương là một xã độc canh nông nghiệp nên thời gian nhàn rỗi của
người dân khá nhiều. Chính vì vậy người nông dân nơi đây đã tìm đủ mọi
18
nghề để mong kiếm thêm nguồn thu nhập trong thời gian nhàn rỗi như: Trồng
nấm rơm, nghề mộc, may mặc, vận chuyển làm đất, tuốt lúa Dịch vụ phân
bón thuốc trù sâu, dịch vụ giống cây trồng ngày càng phát triển. Giá trị sản
xuất tiểu thủ công nghiệp theo giá thực tế khoảng 8 tỷ đồng. Trong đó kinh tế

hộ gia đình chiếm khoảng trên 89% tổng giá trị sản xuất toàn xã. Năm 2007
nhìn trung sản xuất tiểu thủ công nghiệp ổn định và phát triển nhất là sản xuất
nấm rơm được duy trì và phát triển mạnh đối với một số thôn ở trong xã.
c. Dịch vụ thương mại:
Các hoạt động dịch vụ, thương mại trên địa bàn toàn xã có chiều hướng
phát triển như dịch vụ tạp hóa, giải khát, dịch vụ sửa chữa xe máy, Đối với
các HTX NN dịch vụ cung ứng vật tư phục vụ nông nghiệp chưa đáp ứng
được so với như cầu sản xuất của người dân, riêng HTX NN Phú Lương 1
thực hiện nhiệm vụ này tương đối đảm bảo, sản phẩm đưa ra được thị trường
chấp nhận và đăng ký được thương hiệu trên thị trường về dịch vụ sản xuất
nấm linh chi, nấm rơm, mộc nhĩ, Vừa qua sản phẩm được tham gia trưng
bày mặt hàng nấm linh chi tại lễ hội Festival Thuận An biển gọi năm 2007.
Sự phát triển kinh tế tạo điều kiện cho người dân có nguồn vốn để đầu
tư cho hoạt động sản xuất nấm rơm.
4.2.2. Tình hình cơ sở hạ tầng.
a. Cơ sở hạ tầng:
Năm 2007 xã đã thi công xây dựng và đưa vào sử dụng UBND xã với
tổng kinh phí 198.542.000đ, trong đó nhà nước đầu tư là 100.000.000đ số còn
lại ngân sách địa phương đầu tư. Hoàn thành việc san lấp mặt bằng chợ tại
thôn Khê Xá với tổng diện tích được quy hoạch thực hiên là 2.637 m
2
và tổng
chi phí cho công tác này là 100.000.000đ. Xây dựng 2 hội trường họp dân của
2 thôn Lê Xá Đông và Đông B với giá trị 85.000.000đ.
b. Hệ thống giao thông:
Hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn xã tương đối hoàn chỉnh
bao gồm đường tỉnh lộ 10A, 10AC, đường liên xã và đường liên thôn. Trong
những năm qua nhiều tuyến đường giao thông nông thôn được đầu tư bê tông
hóa. Thực hiện xây dựng 01 km
2

bê tông với tổng kinh phí 238.000.000đ,
trong đó nhà nước hỗ trợ 140.000.000đ, số còn lại nhân dân đóng góp. Các
19
tuyến đường trong thôn hầu như được bê tông hóa nên đã cải thiện được phần
nào nhu cầu đi lại của người dân trong xã.
c. Hệ thống thủy lợi:
Hệ thống thủy lợi của xã tương đối hoàn thiện, các hệ thống hói đào
dẫn nước từ sông Như Ý và sông Đại Giang về tưới tự chảy và bơm tưới cho
toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của xã.
HTX Phú Lương 1 có một trạm bơm điện công xuất 3000 m
3
/h, hàng
năm HTX hợp đồng với công ty tưới tiêu cả hai vụ sản xuất để bơm nước cho
diện tích lúa mỗi khi mùa khô đến. Hệ thống tưới tiêu gồm có mương tiêu dài
3.900 m và 7 cống ngăn nước. Mới đây năm 2007 HTX NN Phú Lương 2 xây
dựng hoàn thành 2 cống thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, tổng số
tiền 38.000.000đ.
Trong năm 2007 UBND xã chỉ đạo các HTX NN thực hiện tốt công tác
thủy lợi kết hợp với giao thông nội đồng và tổng chi cho công tác này lên tới
261.854.000đ với tổng khối lượng đào đắp 41.202,66m
3
cụ thể từng HTX như
sau:
HTX NN Phú Lương 1 thực hiện 19.819,66m
3
.
HTX NN Phú Lương 2 thực hiện 10.833m
3
.
HTX NN Phú Lương 3 thực hiện 10.550m

3
. [7].
Cơ sở hạ tầng phát triển giúp người dân có điều kiện đi lại dễ dàng sự
giao lưu buôn bán sản phẩm nấm thuận tiện, các nguồn đầu vào đầu ra chủ
động hơn.
4.2.3. Tình hình dân số và lao động.
Dân số và lao động là một trong những nhân tố thể hiện năng lực phát
triển kinh tế của vùng, là nhân tố chủ đạo cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cơ
cấu và chất lượng của lao động quyết định đến năng suất của lao động và kết
quả sản xuất. Tình hình dân số và lao động xã Phú Lương năm 2006 được thể
hiện qua bảng số liệu sau:
20
Bảng 6: Tình hình dân số và lao động của xã Phú Lương năn 2006
Chỉ tiêu ĐVT Số lượng Cơ cấu (%)
1. Tổng dân số Người 5.813 100,00
2. Tổng số lao động Người 2.608 44,86
3. Tổng số hộ
Trong đó: Hộ nông nghiệp
- Hộ công nghiệp
- Hộ thương nghiệp
- Hộ vận tải
- Hộ khác
Hộ
Hộ
Hộ
Hộ
Hộ
1.230
1.040
53

53
1
83
100
84,55
4,31
4,31
0,08
6,75
4. Số nhân khẩu bq/hộ Người/hộ 4,73 -
5. Số lao động bq/hộ Người/hộ 2,30 -
6. Mật độ dân số Người/km
2
321,00 -
7. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 1,20 -
[8]
Qua bảng 6, số liệu cho ta thấy tổng dân số của toàn xã năm 2006 là
5.813 người, giảm so với năm 2005 là 358 người (tương ứng giảm 5,8%) đây
là một thành tích của xã trong việc quản lý dân số và công tác kế hoạch hóa
gia đình.
Tổng số lao động của xã là 2.608 người chiến 44,86% trong tổng dân
số, đây là nguồn nhân lực chủ yếu cho hoạt động sản xuất của xã. Mật độ dân
số bình quân là 231 người/km
2
giảm so với năm 2005 là 20 người/km
2
, là xã
nằm trong nhóm xã có mật độ dân số thấp của huyện Phú Vang.
Toàn xã có 1.237 hộ trong đó hộ nông nghiệp chiến tỷ trọng cao nhất
trong tổng số hộ: Chiếm tới 1.040 hộ tương ứng với 84,55%, sở dĩ số hộ nông

nghiệp chiếm tỷ lệ cao như vậy vì Phú Lương là một xã độc canh cây lúa
nước, một năm làm hai vụ lúa là chính, diện tích đất nông nghiêp bình quân
đầu người là 1.986 m
2
/người. Nghề chính của người dân ở đây là sản xuất
nông nghiệp nên hầu hết các hộ dân nơi đây là hộ thuần nông. Bên cạnh các
hộ nông nghiệp cũng có một phần nhỏ các hộ phi nông nghiệp gồm 190 hộ
chiếm 15,45% trong tổng số hộ của xã, trong đó hộ công nghiệp là 53 hộ
21
chiếm 4,31% trong tổng số hộ, các hộ công nghiệp chủ yếu thực hiện các hoạt
động như xay xát, may quần áo, gia công gỗ, cưa xẻ, mộc dân dụng
Qua bảng 6, chúng ta cũng thấy rằng tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là
1,2%, đây là yếu tố quan trọng, là tiềm năng bổ sung nguồn nhân lực trong
tương lai cho toàn xã, song trước mắt nó là nhân tố gây sức ép lớn cho xã hội
về nhiều mặt như giải quyết công ăn việc làm, tình trạng trẻ em suy dinh
dưỡng Các tệ nạn xã hội làm mất trật tự xã hội. Nhân khẩu bình quân 4,73
người trên khẩu, bình quân lao động trên hộ là 2,3 người. Lao động trong xã
chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, hầu hết lao động có trình độ
thấp, đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế của gia đình, hạn chế
khả năng tăng thu nhập cho hộ, đồng thời ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội
như: Thực hiện kế hoạch hóa gia đình, giáo dục con cái, hạn chế khả năng
tiếp thu thông tin
Phú Lương là một xã độc canh cây lúa, lao động mang tính thời vụ, nên
lượng lao động nông nhàn ngày càng tăng lên. Đây là nguồn lực quan trong
cho nghề trồng nấm rơm phát triển, tuy nhiên nó cũng là nguyên nhân gây nên
tình trạng bỏ học sớm, suy dinh dưỡng ở trẻ em, các tệ nạm xã hội, ở trong
xã. Giải quyết lao động nông nhàn là một vấn đề kinh tế xã hội khá gay gắt ở
vùng nông thôn Việt Nam nói chung và ở xã Phú Lương huyện Phú Vang,
Thừa Thiên Huế nói riêng. Do đó phát triển nghề nấm rơm ở xã hiện nay và
trong tương lai là một giải pháp hợp lý, mang lại hiệu quả cả về kinh tế và xã

hội.
4.2.4. Văn hóa – giáo duc – y tế.
a. Văn hóa:
Phú Lương luôn đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, góp phần làm chuyển biến tích cực đời sống ở nông thôn.
Trong năm 2007 ban chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa của xã đã cấp giấy
chứng nhận cho 320 gia đình văn hóa, và đề nghị cấp trên phê duyệt 02 đơn
vị văn hóa (trường mẫu giáo và thôn Đông B). Tuy vậy, hoạt động của các
ban điều hành làng văn hóa ở các thôn chưa mạnh, chưa có nề nếp, hiện tượng
vi phạm quy ước làng văn hóa vẫn còn sảy ra ở một số thôn.
22
b. Giáo dục:
Về lĩnh vực giáo dục, năm 2005 – 2006 chất lượng dạy và học ở các
trường có chưyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng trường học, lớp học được nâng
cấp và tăng cường dụng cụ học tập. Năm 2006 – 2007 huy động được 692 học
sinh đạt 97,46% so với năm học trước. Hạn chế được tình trạng học sinh bỏ
học giữa trừng, nâng cao tỷ lệ học sinh khá giỏi. Làm tốt công tác phổ cập
giáo dục trung học cơ sơ và tiểu học đúng độ tuổi.
c. Y tế:
Chỉ đạo trạm y tế thực hiện tốt các chương trình Quốc Gia về y tế, làm
tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân. Trong năm 2006 trạm
y tế đã duy trì tốt chế độ khám và điều trị tại trạm, đã khám cho 5.000 lượt,
trong đó trẻ em dưới 6 tuổi là 1.100 lượt. đồng thời triển khai thực hiện đạt
100% kế hoạch tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, kế hoạch uống Vitamin A và
một số chương trình khác của nghành. Năm 2007 xã đã triển khai chiến dịch
truyền thông dân số lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế
hoạch hóa gia đình 3 đợt trong năm. Tiếp tục xây dựng mô hình không sinh
con thứ 3 tại các thôn Giang Trung, Đông A, Lê Xá Trung. Tăng cường công
tác bảo vệ bà mẹ sau sinh và trẻ em có hiệu quả.[9].
Văn hóa, giáo dục, y tế ở xã tạo điều kiện cho người dân hiểu biết thêm

nhiều kiến thúc nhất là tầng lớp trẻ. Có vốn kiến thức để tiếp cận các nguồn
thông tin khoa học kỹ thuật.
Với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của xã Phú Lương như vậy là
điều kiện tốt để phát triển nông nghiệp đặc biệt là trồng lúa nước. Trên cơ sở
đó nguồn nguyên liệu rơm rạ nhiều, nguồn lao động nhàn rỗi lớn. Vì vậy nó là
tiềm năng để nâng cao hiệu quả và phát triển nghề nấm rơm ở xã Phú Lương.
23
7-10 ngày 6-7 ngày
3-5 ngày
3-5 ngày
4.3. kỹ thuật sản xuất và guyên vật liệu để sản xuất nấm rơm.
4.3.1. Kỹ thuật sản xuất nấm rơm ở xã Phú Lương.
Sơ đồ tóm tắt quy trình kỹ thuật sản xuất nấm rơm ở xã:
Ủ rơm: Nguyên liệu dùng để sản xuất nấm là rơm, rạ khô, không bị
thối mốc và rơn rạ thường phải để cách một vụ lúa mới lấy ra sản xuất nấm
rơm thì cho năng suất cao hơn so với sản xuất ngay sau vụ đó.
Rơm ra được nhúng ướt bằng nước vôi 1%, trong bể 3 - 4 m
3
nước
tương ứng với 1 - 3 kg vôi. Rơm được nhúng đẫm nước và dùng chân đạp lên
theo số lượt rơm chất lên thành đống sau đó phủ ni lông kín lại.
Ủ đống 3 - 5 ngày thì mở ni lông đảo trở cho rơm đều để tránh mặt trên
của rơm bị khô, ở dưới lại ẩm quá. Sau đó phủ ni lông kín lại.
Đạp rơm vào khuôn, cấy meo giống:
Sau một tuần ủ rơm, tháo ni lông, đảo đều và dùng chân đạp rơm vào
khuôn, khoảng 2 - 3 người đạp rơm (1 vòm 500 bánh rơm/1 buổi). Để bánh
rơm vào tấm ni lông rồi bọc lại đem phơi năng 1 buổi, sau đó bỏ meo giống (1
bánh meo bỏ được từ 5 – 6 bánh rơm).
Xếp bánh rơm ủ tiếp 1 tuần, cách xếp tùy vào mùa và thời tiết nóng hay
lạnh mà có cách xếp khác nhau. Xếp chiều cao 2 - 3 bánh, nếu mùa hè thì

khoảng cách hàng cách hàng là 15 - 20 cm, mùa đông thì có thể xếp các hàng
24
Nguyên liệu rơm
đươc tầm ướt
bằng nước vôi
1%
Ủ đống
Đảo đống ủ
lần 1
Đạp rơm ủ
vào khuôn,
cấy meo
giống, ủ
bánh rơm
Mở ni lông,
gác bánh
rơm
Chăm sóc
giữ ấm và
thu hoạch
gần nhau. Xếp song tủ ni long lại, tốt nhất là ủ bánh rơm nơi có mái tre để
nhiệt độ trong bánh rơm ít bị biến đổi bởi thời tiết.
Gác bánh rơm vào vòm: Sau khi ủ bánh rơm 7 - 8 ngày bánh rơm đã
có mốc meo giống như meo giống thì tháo ni lông và gác bánh rơm vào vòm.
Cách gác: Gác mỗi tầng 2 - 3 lớp bánh rơm để trồng lên nhau. Tùy theo
mùa mà có thể gác nhiều tầng hay ít tầng. Các bánh rơm được xếp sát vào
nhau, nấm rơm sẽ phát triển ở hai đầu bánh rơm. Ưu điểm của cách gác này là
các bánh rơm xếp trồng lên nhau sẽ giữ ấm cho nhau vào mùa lạnh, nấm sẽ
hút dinh dưỡng của những bánh bên cạch tương đối rễ dàng.
Chăm sóc và tưới đón nấm: Chủ yếu là theo dõi nhiệt độ (trong suốt

quá trình nuôi trồng), nếu nhiệt độ cao thì tháo bớt ni lông bọc vòm nấm để
trong vòm thông thoáng hơn. Nếu nhiệt độ thấp phải tăng nhiệt độ bằng cách
dùng than củi đốt ở 4 góc vòm hoặc thắp điện,…
Sau khi gác 2 - 3 ngày thấy mặt ngoài của bánh rơm khô phải dùng
bình phun, phun nước cho bánh rơm. Công việc này phải cực kỳ cẩn thận vì
nếu làm mạnh mốc meo sẽ bị trôi theo nước. Khi thấy có nước đọng trên bánh
rơm từng giọt mà không rơi là đủ nước.
Cuối mỗi giai đoại tưới nước nhiều hơn để đón nấm ra, bình quân mỗi
ngày 2 lần tưới (sáng sớm và chiều tối).
Thu hoạch: Sau 6 - 8 ngày nấm ra thì thu hái nấm ở dạng chứng. Nấm
thường nở rộ vào đầu sáng 1 - 4 giờ sáng, nên người dân gặp nhiều khó khăn
trong khâu thu hái củng như thu mua nấm.
Sau mỗi đợt thu hái nấm ngừng tưới nước để tơ nấm phục hồi.
Thu hái xong xử lý nền trước khi trồng đợt kế tiếp bằng cách chùi rửa,
vải vôi bột vào nềm vòm và mở cửa thông thoáng khí cho vòm,…
[10]. (Nguồn: Thông tin của các hộ điều tra năm 2008).
4.3.2. Nguyên vật liệu sản xuất nấm rơm.
Nguyên vật liệu dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất nấm rơm gồm
những loại sau:
a. Vật liệu:
Tre: là loại vật liệu chủ yếu phục vụ để làm vòm nấm trung bình một
vòm nấm phải tốn từ 50 – 60 cây tre. Cây tre có ý nghĩa quyết định đến tuổi
đời sử dụng vòm nấm, thời gian sử dụng của từng vòm dài hay ngắn chủ yếu
25

×