Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

tìm hiểu tác động của việc phát triển cụm công nghiệp đến sinh kế nguời dân của xã đại quang, huyện đại lộc, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.74 KB, 49 trang )

MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
2.1. Cụm công nghiệp và tình hình phát triển cụm công nghiệp 4
2.1.1. Khái niệm cụm công nghiệp 4
2.1.2. Tình hình phát triển cụm công nghiệp Việt Nam 4
2.1.3. Tình hình phát triển cụm công nghiệp Quảng Nam 5
2.1.4. Tình hình phát triển cụm công nghiệp huyện Đại Lộc 8
2.2. Sinh kế và tác động cuả việc phát triển cụm công nghiệp đến sinh kế người dân 10
2.2.1. Sinh kế 10
2.2.1.1. Khái niệm sinh kế 10
2.2.1.2. Các nguồn vốn sinh kế 11
2.2.1.3. Kết quả sinh kế 13
2.2.2. Một số nghiên cứu về tác động của cụm công nghiệp đến sinh kế người dân 14
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1. Nội dung nghiên cứu 17
3.1.1. Điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội xã Đại Quang 17
3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của nhóm hộ điều tra 17
3.1.3. Thực trạng phát triển công nghiệp tại địa phương 17
3.1.4. Tác động của phát triển CCN đến đời sống hộ nông dân 17
3.1.5. Những yếu tố thuận lợi và khó khăn của người dân địa phương trước những cơ
hội mà việc phát trển công nghiệp mang lại 18
3.2. Phương pháp nghiên cứu 18
3.2.1. Phương pháp chọn điểm 18
3.2.2. Phương pháp thu thập thông tin 18
3.2.3. Phương pháp xử lý số liệu 19
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20
4.1. Điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
20


4.1.1. Điều kiện tự nhiên 20
4.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của vùng nghiên cứu 21
4.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của các hộ điều tra 23
4.3. Thực trạng phát triển CCN trên địa bàn xã Đại Quang 24
4.4. Ảnh hưởng của phát triển CCN đến sinh kế nông hộ 27
4.4.1. Ảnh hưởng đến đất đai 27
4.4.2. Ảnh hưởng đến việc làm của hộ 29
4.4.3. Ảnh hưởng đến thu nhập của hộ 30
4.4.4. Ảnh hưởng đến điều kiện sống của hộ 33
4.4.5. Ảnh hưởng đến môi trường 37
4.5. Những thuận lợi và khó khăn của người dân địa phương trước những cơ hội mà
việc phát triển công nghiệp mang lại 40
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 43
5.1. Kết luận 43
5.2. Kiến nghị 44
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ HỘP
Bảng 1 : Tình hình phát triển công nghiệp Quảng Nam 7
giai đoạn 2008-2010 7
Bảng 2: Kết quả thu hút các dự án đầu tư vào các CCN trên địa bàn huyện Đại Lộc
trong giai đoạn 2008- 2010 9
Bảng 3: Bảng giá trị sản xuất của các ngành của xã năm 2010 22
Bảng 4: Đặc điểm về nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra 23
Bảng 5: Trình độ văn hóa, tay nghề của lao động ở các hộ điều tra 24
Bảng 6: Danh mục các nhà máy xí nghiệp của CCN Đại Quang 25
Bảng 7: Biến động đất đai của hộ trước và sau khi có CCN 28
Bảng 8: Biến động việc làm của hộ trước và sau khi có CCN 29
Bảng 9: Bảng cơ cấu bình quân thu nhập của hộ trước và sau khi có CCN 31
Bảng 10: Ảnh hưởng của việc phát triển CCN đến kinh tế hộ 34
Hộp 1: Niềm vui thoát nghèo của người dân 36
Hộp 2: Đời sống người dân cải thiện khi có cụm công nghiệp 37

Bảng 11: Ý kiến của các hộ điều tra về mức độ tác động của môi trường 37
Hộp 3: Vụ kiện Công ty CP Prime Đại Lộc làm giảm năng suất lúa của người dân 2
thôn Đông Lâm và Hòa Thạch 39
Bảng 12: Các thuận lợi và khó khăn của người dân địa phương 40
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta bắt đầu công nghiệp hoá từ năm 1960 theo đường lối do đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra. Thực hiện đường lối đổi
mới đó, trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã và đang thực hiện chuyển
đổi và phát triển theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nhiều tỉnh thành
trong cả nước. Phát triển kinh tế xã hội là một mục tiêu mà mỗi quốc gia đều
mong muốn hướng tới. Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam cũng như ở các
quốc gia trên thế giới đang phát triển hiện nay dẫn tới sự hình thành các khu
công nghiệp, khu chế xuất và các cụm công nghiệp.
Tính đến cuối năm 2009 theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước có 918
cụm công nghiệp đã và đang hoạt động. Dù không phát triển nhanh, mạnh
bằng tốc độ phát triển của các khu công nghiệp, song mô hình cụm công
nghiệp ở nhiều địa phương trên toàn quốc vẫn là mô hình lan nhanh về lượng,
đạt được nhiều thành tựu. Nhận thấy việc phát triển mô hình cụm công nghiệp
trong nhiều năm qua là cần thiết và phù hợp vì vậy Nhà nước ta đã có nhiều
chính sách hỗ trợ và ưu đãi nhằm thu hút các doanh nghiệp. Nếu các doanh
nghiệp ngoài nhà nước đầu tư vào đây sẽ được hưởng các ưu đãi theo Luật
Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây Việt Nam có tốc độ phát triển Công nghiệp
hoá khá nhanh. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy công nghiệp ở Việt Nam cũng
như tại các quốc gia đang phát triển luôn làm phát sinh những vấn đề cấp
bách và kéo theo hàng loạt các vấn đề xã hội như: người lao động phổ thông
dễ mất việc làm khi kinh tế suy thoái, doanh nghiệp phá sản, tình trạng ô
nhiễm môi trường, nguồn nước bị thiếu, vô gia cư, lạm dụng vật chất, bùng nổ
dân số, những tập quán và truyền thống xã hội nông thôn bị mai một… Người

nông dân có thể bán đất và chuyển sang đi làm các ngành phi nông nghiệp,
lao động trong ngành công nghiệp.
Tỉnh Quảng Nam hiện nay, với 07 khu công nghiệp tập trung, 15 cụm
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và 61 làng nghề truyền thống, giải quyết
1
trên 70.000 lao động tại địa phương. Trong đó công nghiệp huyện Đại Lộc
đang có những bước đột phá vượt bật nhất cả về số lượng lẫn chất lượng, là
điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Công nghiệp
Quảng Nam đã khẳng định là ngành kinh tế chủ lực trong phát triển kinh tế-
xã hội của tỉnh. Một số nhà máy công nghiệp có quy mô lớn ở Việt Nam và
Đông Nam Á cũng đã xuất hiện tại đây như Nhà máy sản xuất và lắp ráp Ô tô
Chu Lai Trường Hải, Nhà máy Kính nổi Chu Lai, Nhà máy chế biến gạch
men Prime Đại Lộc, Nhà máy sản xuất Soda Chu Lai, Nhà máy sản xuất tấm
thu pin năng lượng mặt trời Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 đạt
8002,6 tỷ đồng, chiếm gần 40% so với GDP của tỉnh. Công nghiệp Quảng
Nam phát triển vừa là động lực kích nổ cho các ngành thương mại- dịch vụ
phát triển, đồng thời còn giải quyết được lực lượng lao động nông nhàn tại địa
phương, tạo điều kiện chuyển dịch từng bước lao động nông nghiệp sang lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ. Bên cạnh đó việc phát triển cụm công nghiệp cũng
mang đến không ít những vấn đề về xã hội và môi trường gây ảnh hưởng đến
đời sống của người dân địa phương.
Đại Lộc là huyện có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
việc giao lưu, phát triển kinh tế xã hội. Không nằm ngoài sự phát triển chung
của đất nước, quá trình phát triển cụm công nghiệp có tác động lớn đến đời
sống, kinh tế, xã hội trong huyện nói chung và vùng quy hoạch tổng thể nói
riêng. Trong đó xã Đại Quang là xã có nhiều nhà máy xí nghiệp lớn. Việc phát
triển cụm công nghiệp bên cạnh những lợi ích mang lại cho một bộ phận
không nhỏ nông hộ, cũng còn tồn tại những tác động tiêu cực đến việc thu hồi
đất, việc làm, thu nhập, các vấn đề xã hội của địa phương cũng trở nên phức
tạp. Cụm công nghiệp trên địa bàn xã chính thức đi vào hoạt động vào năm

2009, với sự non trẻ đó chưa có nghiên cứu nào cụ thể nào về những tác động
của phát triển công nghiệp đến đời sống của người dân để làm cơ sở cho việc
định hướng phát triển phát triển của vùng trong tương lai. Xuất phát từ những
yêu cầu khách quan đó, tôi thực hiện đề tài: “Tìm hiểu tác động của việc
phát triển cụm công nghiệp đến sinh kế nguời dân của xã Đại Quang,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.”
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng phát triển cụm công nghiệp tại địa phương từ 2008-
2010.
- Đánh giá tác động của cụm công nghiệp đến sinh kế của người dân địa
phương.
- Tìm hiểu những yếu tố thuận lợi và khó khăn của nguời dân địa phương
trước những cơ hội mà việc phát triển công nghiệp mang lại.
3
PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cụm công nghiệp và tình hình phát triển cụm công nghiệp
2.1.1. Khái niệm cụm công nghiệp
Cụm công nghiệp: là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN), cơ sở dịch vụ phục vụ sản
xuất CN-TTCN; có ranh giới địa lý xác định; không có dân cư sinh sống;
được đầu tư xây dựng chủ yếu để di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu
tư sản xuất, kinh doanh; do UBND tỉnh quyết định thành lập. CCN có quy mô
diện tích không quá 50 ha. Trường hợp cần thiết phải mở rộng CCN hiện có
thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng không vượt quá 75 ha [3].
Khu công nghiệp: còn gọi là khu kỹ nghệ, là khu vực dành cho phát triển
công nghiệp theo một quy hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài
hòa và cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường.
Khu công nghiệp thường được Chính phủ cấp phép đầu tư với hệ thống hạ

tầng kỹ thuật và pháp lý riêng. Những khu công nghiệp có quy mô nhỏ
thường được gọi là cụm công nghiệp [10].
Như vậy từ 2 khái niệm trên cho thấy giữa cụm công nghiệp và khu công
nghiệp đều là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên khác nhau
về quy mô, cụm công nghiệp thường có quy mô nhỏ hơn khu công nghiệp.
2.1.2. Tình hình phát triển cụm công nghiệp Việt Nam
Việt Nam bắt đầu mô hình CCN từ những năm 1991. Các CCN được hình
thành đã khẳng định vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, góp phần xóa đói giảm nghèo, và đặc biệt là đã đẩy
nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, từ
những kinh nghiệm của các nước, mà Việt Nam có những mô hình tương tự,
chúng ta cũng cần có những bước điều chỉnh cần thiết và kịp thời [6].
Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày
14/3/2008 của Chính phủ quy định về CCN. Trong năm này, Việt Nam triển
khai các cam kết với Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) trên các lĩnh vực
4
đầu tư, thương mại… Trong điều kiện tình hình khủng hoảng tài chính thế
giới chưa được ngăn chặn và có những diễn biến phức tạp ở những nền kinh
tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước Châu Âu, trước bối cảnh đổi
mới sâu sắc về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ, công tác quản lí nhà nước CCN, cũng như bản thân hoạt
động của các CCN đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực,
chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Nhờ đó,
trong năm 2008 các CCN: một mặt tiếp tục đà tăng trưởng như những năm
trước, mặt khác có những nét phát triển mới mang tính đột phá.
Tính đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 219 CCN được thành lập với
tổng diện tích đất tự nhiên là 61.472,4 ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên
cả nước. Trong đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê theo quy hoạch
đạt gần 40.000 ha, chiếm 65% diện tích đất công nghiệp.
Theo quy hoạch, từ nay đến năm 2015 sẽ thành lập thêm 91 KCN với tổng

diện tích 20.839 ha và mở rộng thêm 22 KCN với tổng diện tích 3.543 ha. Dự
kiến đến năm 2015 sẽ có thêm 24.381 ha đất KCN.
Qua kết quả thành lập mới và mở rộng CCN trong năm 2008, có thể thấy
rằng mặc dù sự phân bố CCN đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho
một số địa bàn đặc biệt khó khăn ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ … phát
triển CCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song các CCN vẫn tập trung ở các địa
phương thuộc ba Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
2.1.3. Tình hình phát triển cụm công nghiệp Quảng Nam
Trong những năm qua CCN của Quảng Nam phát triển nhanh và đạt được
những kết quả quan trọng. Về số lượng, cơ cấu, quy mô diện tích và ngành nghề
các CCN của Quảng Nam đã có những mặt tích cực. Chủ trương phát triển CCN
của tỉnh Quảng Nam là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội
của tỉnh, đặc biệt là phát triển công nghiệp nông thôn [12].
Từ năm 2005 đến năm 2010, Quảng Nam đã tiến hành quy hoạch chi
tiết 62 CCN, với tổng diện tích 2.788 ha. Trong đó có 49 CCN với tổng diện
tích 2.102 ha đã đi vào hoạt động, kết quả sản xuất kinh doanh tương đối ổn
định, đem lại hiệu quả.
Các CCN tập trung ở các huyện đồng bằng, đặc biệt là phân bố trên các
địa phương thuận lợi về giao thông, gần các trung tâm đô thị. Đại Lộc là
5
huyện phát triển các CCN khá thành công kể cả về số CCN và khả năng lấp
đầy. Tính đến đầu năm 2007, Đại Lộc có 11 CCN đã được quy hoạch chi tiết,
xây dựng kết cấu hạ tầng và có doanh nghiệp đã đăng ký xây dựng và đã tiến
hành sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã đem lại lợi nhuận và nộp
ngân sách. Trong đó có CCN Đại Hiệp, Đại Nghĩa 2, Đại Quang … có nhiều
doanh nghiệp đầu tư kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đa số các
CCN nằm trên tuyến đường Hồ Chí Minh và trung tâm thị trấn của huyện.
Công tác xúc tiến đầu tư được tăng cường nên số doanh nghiệp đầu tư
vào các CCN tăng nhanh chóng. Năm 2008 mới có 47 doanh nghiệp đầu tư
vào CCN và đến giữa năm 2010 tổng số doanh nghiệp đầu tư vào CCN là 83

doanh nghiệp. Ngành nghề trong các CCN phong phú đa dạng có khoảng gần
30 ngành nghề khác nhau. Trong đó chủ yếu là chế biến nông – lâm – thuỷ
sản, may mặc, dày da xuất khẩu, mây tre, vật liệu xây dựng, đồ mộc, cơ khí,
sản xuất thép xây dựng, cấp nước sinh hoạt, vật liệu xây dựng v.v … Những
ngành nghề phát triển ở CCN đã tận dụng được điều kiện về nguyên liệu, thị
trường và lao động. Phát huy được các ngành nghề truyền thống mà Quảng
Nam đã phát triển từ bao đời nay như dệt may, mộc, vật liệu xây dựng.
6
Bảng 1 : Tình hình phát triển công nghiệp Quảng Nam
giai đoạn 2008-2010
Thứ
tự
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1 Giá trị sản xuất (Tỷ đồng) 6248,22 8002,65 10125,27
- CN khai thác 316,32 366,17 428,24
- CN chế biến 5729,78 7180,32 9111,35
SX phân phối điện nước,
khí đốt 202,12 456.16 585,68
2 Số cơ sở SX CN ( Cơ sở) 13.735 14.903 15.501
- Nhà nước 18 18 18
- Ngoài nhà nước 13.694 14.859 15.453
- Đầu tư nước ngoài 23 26 30
3 Số lao động CN ( Người) 73.589 74.175 75.181
- Nhà nước 7945 8.067 8.125
- Ngoài nhà nước 53.601 53.770 54.120
- Đầu tư nước ngoài 12.043 12.338 12.936
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2008-2010)
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh cũng tăng đáng kể qua các
năm từ 2008- 2010, năm 2008 giá trị sản xuất ngành công nghiệp của toàn
tỉnh là 6248,22 tỷ đồng thì đến năm 2010 tăng lên 10125,27 tỷ đồng. Trong

đó ngành công nghiệp chế biến có giá trị sản xuất cao nhất so với công nghiệp
khai thác và công nghiệp sản xuất phân phối điện nước khi đốt qua các năm.
Số lao động được thu hút vào các CCN tăng đáng kể từ 2008 đến 2010.
Năm 2008 công nghiệp tỉnh đã thu hút 73.589 lao động vào làm việc tại
13.735 cơ sở sản xuất thì đến năm 2010 số lao động đã tăng lên 75.181 lao
động với 15.501 cơ sở sản xuất. Trong các cơ sở sản xuất thì cơ sở có vốn đầu
tư ngoài nhà nước chiếm số lượng rất cao và tăng qua các năm từ 2008 đến
2010. Xét ở thời điểm năm 2008 số cơ sở có vốn đầu tư ngoài nhà nước là
13.694 cơ sở thì đến 2010 đã tăng lên 15.453 cơ sở. Số cơ sở sản xuất nhà
nước không có sự biến động qua các năm, từ 2008 đến 2010 vẫn ở con số 28
7
cơ sở sản xuất. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển công nghiệp
của nước ta hiện nay trong xu thê hội nhập, đó là cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp ngoài nhà nước đầu tư phát
triển công nghiệp.
Các CCN trên địa bàn tỉnh đã có những nỗ lực trong giải quyết ô nhiễm
môi trường. Việc bố trí CCN là một biện pháp tích cực nhằm giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nhờ việc tập trung các doanh nghiệp tách khỏi khu dân cư
và áp dụng các biện pháp xử lý chất thải, đặc biệt là thải nước. Trong quá
trình xét duyệt các doanh nghiệp đầu tư vào các CCN, các ban quản lý và
UBND các huyện, thị đã chú ý đến phương án bảo vệ môi trường các doanh
nghiệp. Doanh nghiệp nào chưa có phương án xử lý môi trường dứt khoát
không cấp phép vào CCN. Đối với những ngành dễ gây ô nhiễm môi trường
các cấp đều cân nhắc thật kỹ trước khi cấp phép đầu tư.
Quảng Nam đã áp dụng những chính sách ưu đãi nhằm xúc tiến đầu tư
vào CCN. Các quan điểm và biện pháp được luật hoá bằng Quyết định số
40/2003/QD – UB ngày 13/5/2003 của UBND tỉnh Quảng Nam về ban hành
cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư và quản lý CCN trên địa bàn Quảng Nam.
2.1.4. Tình hình phát triển cụm công nghiệp huyện Đại Lộc
Đại Lộc là huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh Quảng Nam, cách thành phố

Tam Kỳ 62 km, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Tây Nam.
Được Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các ngành của tỉnh quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ
để Đại Lộc phát huy lợi thế so sánh, khai thác được mọi nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội.[7]
Sau khi có Quyết định số 40/2003/QĐ-UB ngày 14/5/2003 của UBND
tỉnh Quảng Nam về phân cấp cho các huyện, thị được phép quy hoạch, quản
lý quy hoạch phát triển các CCN và thu hút đầu tư, UBND huyện đã thành lập
Ban quản lý các CCN - Du lịch & Khuyến công. Ban quản lý này làm nhiệm
vụ là cơ quan đầu mối trong công tác quản lý và thu hút đầu tư vào huyện.
Đồng thời tham mưu cho UBND huyện về công tác xây dựng kế hoạch đầu
tư, quản lý quy hoạch, thực hiện công tác đầu tư hạ tầng, quản lý hạ tầng kỹ
thuật trong các CCN, thu hút và cấp phép đầu tư, phối hợp với các ngành
chức năng, chính quyền địa phương bảo vệ an ninh trật tự trong các CCN.
8
Những năm qua, huyện đã tiếp và làm việc với gần 65 đoàn công tác và
nhà đầu tư trong và ngoài nước đến Đại Lộc tìm cơ hội đầu tư. Đến nay
huyện đã thu hút được 47 dự án đầu tư, trong đó có 42 dự án sản xuất công
nghiệp, 5 dự án dịch vụ du lịch, giải quyết việc làm cho 4.500 lao động trên
địa bàn huyện. Thu hút đầu tư là một trong số các biện pháp được đặt lên
hàng đầu trong phương hướng phát triển kinh tế của huyện Đại Lộc. Vì chỉ có
thu hút đầu tư, tức là xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp thì
mới có điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng tập trung nhiều vào
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Bảng 2: Kết quả thu hút các dự án đầu tư vào các CCN trên địa bàn
huyện Đại Lộc trong giai đoạn 2008- 2010
Năm Số
lượng
CCN
Số
lượng

các dự
án
được
cấp
phép
Diện
tích đầu

( ha)
Quy

vốn
đầu tư(
tỷ
đồng)
Số lượng
DN đã đi
vào sản
xuất
Giá trị
sản xuất(
tỷ đồng)
Thu hút
lao động
(lao
động)
200
8
4 6 33,25 953 4 301 646
200

9
6 11 215,24 1.684 7 497 1467
201
0
8 25 1784,23 7.347 21 687 2310
(Nguồn: Phòng công thương huyện Đại Lộc)
Qua số liệu bảng 2 cho thấy số lượng các CCN từ năm 2008 đến năm
2010 đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như tính đến thời điểm năm 2008 chỉ có
4 CCN thì con số đó đã thay đổi vào năm 2009 và 2010. Tổng số CCN tính
đến hết năm 2009 là 6 và lên tới 8 năm 2010. Cùng với sự tăng lên về số
lượng các CCN thì số lượng các dự án được cấp phép, diện tích và quy mô
vốn đầu tư cũng tăng lên nhanh chóng.
9
Cụ thể tính đến thời điểm năm 2008 chỉ có 6 dự án được cấp phép với
tổng diện tích đầu tư là 33,25 ha, quy mô vốn đầu tư là 953 tỉ đồng với 4
doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, đến năm 2010 tổng số tiền đầu tư cho 25 dự
án lên tới 7.347 tỉ đồng, diện tích đầu tư là 1784,23 ha với 21 doanh nghiệp
đã đi vào sản xuất.
Nguồn lao động của huyện nhìn chung là dồi dào. Tuy nhiên, nhu cầu
về công việc hiện tại là khá căng thẳng. Đặc biệt là số lao động trong các hộ
nông thôn bị mất đất cho các dự án xây dựng CCN. Mặc dù một số hộ trong
số đó đã nhanh chóng có sự chuyển đổi sản xuất đáp ứng được nhu cầu công
việc cho lao động hộ mình. Số còn lại hoặc do chưa kịp chuyển đổi sản xuất
hoặc do không đủ điều kiện chuyển đổi sản xuất và đặc biệt một số hộ đang
có sự cam kết về sử dụng lao động cho các CCN, nhà máy mà các CCN và
các nhà máy đó hiện mới đang trong tình trạng giải phóng mặt bằng hoặc bắt
đầu đi vào triển khai xây dựng. Có thể nói nhu cầu về việc làm hiện nay đối
với lao động của địa phương đang rất cấp thiết. Trong khi các trung tâm dạy
nghề của huyện thì còn nhỏ về quy mô và số lượng ngành nghề không đủ điều
kiện để đào tạo hết số lao động tại địa phương mình. Phần lớn số lao động

nam của địa phương vẫn phải tìm đến các thành phố lớn để học nghề.
2.2. Sinh kế và tác động cuả việc phát triển cụm công nghiệp đến sinh kế
người dân
2.2.1. Sinh kế
2.2.1.1. Khái niệm sinh kế
Khái niệm sinh kế được hiểu rất rộng và được sử dụng trong những bài
viết về nghèo đói và phát triển nông thôn nhưng ý nghĩa của nó trong mỗi bối
cảnh cụ thể là khác nhau. Chính sự khác nhau đó dẫn đến khái niệm sinh kế
chỉ có thể được hiểu một cách tương đối trong điều kiện cụ thể.
Sinh kế của một hộ gia đình, hay một cộng đồng còn được gọi là kế sinh
nhai hay phương kế kiếm sống của hộ gia đình hay cộng đồng đó. Theo
Chamber và Conway (1992), sinh kế bao gồm khả năng (capacity), tài sản
(assets - các nguồn dự trữ, các nguồn tài nguyên, quyền được bảo vệ và tiếp
cận) và các hoạt động cần có cho một cách thức kiếm sống. Do vậy, theo Ellis
(2000) một sinh kế bao gồm tài sản (assets - tự nhiên, phương tiện vật chất,
10
con người, tài chính và vốn xã hội), các hoạt động, và việc tiếp cận đến các tài
sản và các hoạt động này (qua thể chế, quan hệ xã hội), tất cả cùng nhau xác
định sự sống mà cá nhân hay hộ gia đình nhận được [4].
Theo tổ chức DFID thì sinh kế có thể được mô tả là một tập hợp của việc
sử dụng các nguồn lực thực hiện các hoạt động để sống. Các nguồn lực có thể
bao gồm kỹ năng và khả năng (vốn con người) của một cá nhân, đất đai, tiết
kiệm và trang thiết bị (vốn tự nhiên, tài chính và vật chất), các nhóm hỗ trợ
chính thức hay các mạng lưới không chính thức hỗ trợ cho việc thực thi hoạt
động (vốn xã hội). Đó là sự kết hợp các hoạt động được thực hiện để sử dụng
các nguồn lực để duy trì cuộc sống.
Sinh kế bền vững là khi nó có khả năng liên tục duy trì hay củng cố mức
sống ở hiện tại mà không làm huỷ hoại cơ sở các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Để có được điều này, sinh kế bền vững phải có khả năng vượt qua và
hồi phục sau các áp lực và sốc (ví dụ như các tai hoạ thiên nhiên hay suy thoái

kinh tế).
Theo CRD khái niệm sinh kế và sinh kế bền vững được hiểu là tập hợp
các nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết hợp với những quyết
định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được
các mục tiêu và ước nguyện của họ. Các nguồn lực mà con người có được bao
gồm vốn con người, vốn xã hội, vốn vật chất, vốn vốn tự nhiên, vốn tài chính.
Như vậy sinh kế được hiểu một cách đơn giản là hệ thống các hoạt động
để có thể tạo ra thu nhập và tập hợp các nguồn vốn để hỗ trợ cho người dân
thực hiện các hoạt động tạo thu nhập đó, và đây cũng là khái niệm được áp
dụng trong nghiên cứu này.
2.2.1.2. Các nguồn vốn sinh kế
Nguồn vốn con người
Đây là nhân tố quan trọng nhất. Nó có vai trò quyết định đối với việc sử
dung có hiệu quả, quyết định khả năng của một cá nhân, một hộ gia đình sử
dụng và quản lí các nguồn vốn khác. Nguồn lực con người thể hiện kĩ năng,
kiến thức, năng lực để lao động, và cùng với sức khỏe, thời gian và khả năng
làm việc giúp con người theo đuổi những chiến lược sinh kế khác nhau và đạt
được mục tiêu sinh kế của mình. Ở mức hộ gia đình thì nguồn lực con người
là yếu tố về số lượng và chất lượng lao động sẵn có. Tuỳ theo quy mô hộ, cấu
11
trúc nhân khẩu và số lượng người không thuộc diện lao động, giới tính của
các thành viên, giáo dục, tình trạng sức khỏe mà khả năng lao động của họ là
khác nhau [7].
Nguồn vốn tài chính
Đây là yếu tố trung gian cho sự trao đổi có ý nghĩa quan trọng đối với việc
sử dụng thành công các yếu tố/tài sản khác. Nguồn tài chính nghĩa là các nguồn
lực tài chính (chủ yếu là tiền mặt và các khoản tài chính tương đương) mà con
người sử dụng để đạt được mục tiêu sinh kế của mình. Có hai nguồn tài chính
cơ bản, đó là nguồn vốn sẵn có và nguồn vốn vào thường xuyên, nguồn sẵn có
như: tiết kiệm, tiền gửi ngân hàng, vật nuôi, khoản vay tín dụng và nguồn vốn

vào thường xuyên như: trợ cấp, các khoản tiền chuyển nhượng từ nhà nước
hoặc các khoản tiền gửi, của người thân chuyển về, tiền lương hưu.
Nguồn vốn vật chất
Đề cập đến tài sản do con người tạo nên và các dạng tài sản vật chất.
Nguồn vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng cơ bản và công cụ sản xuất hàng
hóa cần thiết để hỗ trợ sinh kế, như giao thông, hệ thống cấp nước và năng
lượng, nhà ở và các đồ dùng, dụng cụ trong gia đình, các cộng cụ máy móc
phục vụ sản xuất. Cơ sở hạ tầng được hiểu là một loại hàng hóa công cộng sử
dụng mà không cần trả phí trực tiếp, bao gồm những thay đổi trong môi
trường vật chất mà chúng giúp con người đáp ứng nhu cầu cơ bản của mình
và đem lại nhiều lợi ích hơn.
Công cụ sản xuất hàng hóa là những công cụ và thiết bị mà con người sử
dụng để hoạt động mang lại năng suất cao hơn. Các công cụ đó có thể do một
cá nhân hay nhóm người sở hữu, cũng có thể thuê hoặc mua, phổ biến là đối
với các thiết bị phức tạp.
Nguồn vốn xã hội
Là các tiềm lực xã hội mà con người vạch ra nhằm theo đuổi các mục tiêu
sinh kế của mình. Các mục tiêu này được phát triển thông qua các mạng lưới và
các mối liên kết với nhau, tính đoàn hội của các nhóm chính thức; và mối quan
hệ dựa trên sự tin tưởng, sự trao đổi, và ảnh hưởng lẫn nhau. Đề cập đến mạng
lưới và mối quan hệ, các tổ chức xã hội và các nhóm chính thức cũng như phi
chính thức mà con người tham gia để từ đó được những kết quả sinh kế.
12
Nguồn vốn tự nhiên
Nguồn vốn tự nhiên bao gồm những yếu tố thuộc về tự nhiên như đất,
nước và các nguồn tài nguyên được con người sử dụng để làm phương tiện
kiếm sống. Khi xem xét đến nguồn vốn tự nhiên cần chú ý đến các tài nguyên
có thể phục hồi được và các tài nguyên không thể phục hồi được để làm cơ sở
để phát triển các hoạt động nông nghiệp cũng như phi nông nghiệp.
Như vậy sinh kế con người bao gồm năm loại nguồn vốn khác nhau, mỗi

nguồn vốn đóp góp nhất định vào khả năng tạo thu nhập của nông hộ và sự
bền vững sinh kế của người dân. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này chỉ chú
trọng tập trung vào vốn tự nhiên và vốn tài chính của người dân dân. Cụ thể là
những chỉ tiêu về đất đai, thu nhập, việc làm.
2.2.1.3. Kết quả sinh kế
Khái niệm
Kết quả sinh kế được khái niệm là những mục tiêu và ước nguyện đạt
được. Đó là những điều mà con người muốn đạt được trong cuộc sống cả
trước mắt và lâu dài.
Những yếu tố cần đạt được của kết quả sinh kế
Sự hưng thịnh hơn: thu nhập cao hơn và ổn định hơn, cơ hội việc làm tốt
hơn, kết quả của những công việc mà người dân đang thực hiện tăng lên. Nhìn
chung lượng tiền thu được của hộ gia đình tăng lên.
Đời sống được nâng cao: Ngoài tiền và những thứ mua được bằng tiền,
người ta còn đánh giá đời sống bằng giá trị của những hàng hóa phi vật chất
khác. Sự đánh giá về đời sống của người dân chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều
yếu tố. Ví dụ căn cứ vào vấn đề giáo dục và y tế cho các thành viên trong gia
đình được đảm bảo, các điều kiện sống tốt, khả năng tiếp cận các dịch vụ tốt,
sự an toàn của đời sống vật chất và tinh thần…
Khả năng tổn thương giảm: Người nghèo luôn phải sống trong trạng thái
dễ bị tổn thương. Do vậy, sự ưu tiên của họ có thể là tập trung cho bảo vệ gia
đình khỏi những đe dọa tiềm ẩn, thay vì phát triển tối đa những cơ hội của
mình. Việc giảm khả năng có trong ổn định giá cả thị trường, an toàn sau các
thảm họa của tự nhiên, khả năng kiểm soát dịch bệnh gia súc…
An ninh lương thực được củng cố: An ninh lương thực là một vấn đề cốt
lõi trong sự tổn thương và đói nghèo. Việc tăng cường an ninh lương thực có
13
thể được thực hiện thông qua đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên
đất, nâng cao và ổn định thu hoạch mùa màng, đa dạng hóa sản xuất, tăng
việc làm phi nông nghiệp,

Sử dụng bền vững hơn cơ sở nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sử dụng môi
trường là một mối quan tâm mang ý nghĩa quan trọng và hỗ trợ cho các kết
quả sinh kế khác.
2.2.2. Một số nghiên cứu về tác động của cụm công nghiệp đến sinh kế
người dân
Vấn đề phát triển công nghiệp hóa được chú ý nghiên cứu từ nhiều năm
nay, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động & Xã
hội- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Viện Chiến lược phát triển- Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Trường
Đại học Lao Động – Xã Hội, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và nhiều nhà
nghiên cứu khác. Trong đó, có thể kể đến các công trình nghiên cứu có liên
quan sau:
Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây
dựng các cụm công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia. Nghiên cứu này được thực hiện tại
8 tỉnh/ thành phố: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắc Ninh,
Hà Tây, Cần Thơ và Bình Dương với mục tiêu: Đánh giá thực trạng thu nhập,
đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các cụm công
nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhu cầu công cộng
và lợi ích quốc gia hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn
chế của vấn đề này. Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp và các
điều kiện giải quyết thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để
xây dựng các cụm công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia những năm tới [2].
Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông
thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá gắn với công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cùng với xu thế khách quan và
tất yếu của đô thị hoá là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
ở các vùng bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, trong đó vấn đề giải quyết
14

việc làm cho người lao động thuần nông gặp phải những trở ngại lớn khi họ
buộc phải chuyển đổi từ việc làm nông nghiệp không cần đến trình độ
chuyên môn kĩ thuật sang việc làm phi nông nghiệp đòi hỏi phải có trình độ
chuyên môn kĩ thuật. Nghiên cứu này hướng đến đề xuất những giải pháp
phát triển nguồn nhân lực nông thôn với phương án khả thi và mô hình phù
hợp với xu thế đô thị hoá nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoại thành Hà
Nội [12].
Trường Đại học Kinh tế quốc dân trong đề tài độc lập cấp nhà nước
KX.01 -2005 đã đề cập đến vấn đề việc làm và thu nhập cho lao động bị thu
hồi đất trong quá trình CNH-HĐH và đô thị hoá. Về mặt lý luận nghiên cứu
đã đề cập đến sự cần thiết phải thu hồi đất, CNH-HĐH và đô thị hoá tất yếu
sẽ dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp và do đó một bộ phân dân sẽ mất việc làm
trong nông nghiệp. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với nước ta trong
quá trình phát triển. Về mặt thực tiễn nghiên cứu chỉ ra những bất cập về vấn
đề đảm bảo thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi. Việc thu
hồi đất là điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ nhưng kế
hoạch thu hồi đất không gắn với kế hoạch đào tạo nghề nên người dân mất đất
không có việc làm và thu nhập, đời sống người dân tiềm ẩn sự bất ổn bên
trong. Nghiên cứu dự báo nhu cầu thu hồi đất và đưa ra khung chính sách
đồng bộ bao gồm: Chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại; Chính sách tạo
việc làm; Chính sách tái định cư; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của
các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các
cụm công nghiệp, khu đô thị và các chính sách xã hội liên quan để đảm bảo
việc làm và thu nhập cho đối tượng bị thu hồi đất [14].
TS. Nguyễn Hữu Dũng và các tác giả khác (1997) đề cập đến chính sách
giải quyết việc làm của nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Về mặt lý luận nghiên cứu đã nêu khá chi tiết về phương pháp luận, cách tiếp
cận về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động - việc làm và
phương pháp tính. Đặc biệt công trình nghiên cứu đã bước đầu đề cập đến
khái niệm thị trường lao động, mối quan hệ giữa cung- cầu lao động và vai trò

đối với giải quyết sức ép về việc làm trong quá trình thu hồi đất để xây dựng
các cụm công nghiệp, khu đô thị. Về mặt thực tiễn các tác giả đã phân tích
15
đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta nói chung, trong NN, nông thôn
nói riêng và những nguyên nhân chủ yếu; khái quát dòng di chuyển lao động
trên thị trường lao động, nhất là di chuyển từ nông thôn ra thành thị tìm việc
làm khi bị thu hồi đất để xây dựng các CCN, khu đô thị. Trên cơ sở đó đưa ra
hệ thống quan điểm giải quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH
ở nước ta. Giải pháp cơ bản cho khu vực nông thôn đó là giải quyết nạn thiếu
việc làm còn rất phổ biến và nghiêm trọng, việc làm kém hiệu quả và thu
nhập thấp thông qua chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
theo hướng CNH- HĐH [6].
Về vấn đề giải quyết việc làm đề tài cấp Bộ năm 2000 do Trung tâm
Nghiên cứu Dân số và Nguồn lao động - Viện Khoa học Lao động và Xã hội
thực hiện, đã đưa ra nhận định: Khả năng tạo việc làm ở khu vực nông thôn
hiện nay rất phong phú và đa dạng, tạo việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa
phương thông qua việc thu hút phát triển các cụm công nghiệp tại địa phương,
tăng cường dạy nghề cho lao động nông thôn. Đặc biệt ưu tiên các dự án quốc
gia và quốc tế cho việc giải quyết việc làm, dạy nghề và nâng cao dân trí
thông qua quá trình công nghiệp hóa nông thôn.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về mối quan hệ tương
tác giữa công nghiệp hoá đến sinh kế của các hộ gia đình trong khu vực cụm
công nghiệp. Chính vì vậy, nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết nhằm phát
hiện ra các tác động của việc phát triển cụm công nghiệp đến sinh kế của
người dân.
16
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
3.1.1. Điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội xã Đại Quang
- Vị trí địa lý

- Điều kiện khí hậu
- Tình hình dân số và lao động
- Tình hình sử dụng đất của toàn xã
- Đặc điểm về cơ sở hạ tầng
3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của nhóm hộ điều tra
- Nghề nghiệp, tuổi, giới tính, trình độ văn hóa của chủ hộ
- Trình độ chuyên môn lao động của hộ
- Số khẩu/ hộ
- Số lao động chính/ hộ
- Thu nhập bình quân của hộ/ năm
- Chi phí bình quân của hộ/ năm
- Tổng diện tích đất của hộ
3.1.3. Thực trạng phát triển công nghiệp tại địa phương
- Vị trí địa lý của CCN.
- Số nhà máy xí nghiệp được xây dựng.
- Các lĩnh vực sản xuất chủ yếu của các nhà máy xí nghiệp.
- Quy mô, diện tích của từng nhà máy xí nghiệp.
- Quy mô lao động của từng nhà máy.
- Quy mô nguồn vốn của từng nhà máy.
3.1.4. Tác động của phát triển CCN đến đời sống hộ nông dân
- Tác động đến đai
+ Diện tích đất trước khi có CCN
17
+ Diện tích đất bị quy hoạch cho CCN
+ Diện tích đất sau khi có CCN
- Tác động đến việc làm
+ Các loại ngành nghề lao động của hộ tham gia trước khi có CCN
+ Các loại ngành nghề lao động của hộ tham gia sau khi có CCN
- Tác động đến thu nhập
+ Thu nhập bình quân của hộ trước khi có CCN

+ Thu nhập bình quân của hộ sau khi có CCN
- Tác động đến điều kiện sống
+ Chi phí bình quân của hộ trước khi có CCN
+ Chi phí bình quân của hộ sau khi có CCN
- Tác động đến môi trường
+ Tác động đến môi trường nước
+ Tác động đến môi trường không khí
+ Tác động đến môi trường nước
3.1.5. Những yếu tố thuận lợi và khó khăn của người dân địa phương
trước những cơ hội mà việc phát trển công nghiệp mang lại
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp chọn điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh
Quảng Nam. Đề tài tiến hành nghiên cứu tại xã Đại Quang vì đây là xã có
nhiều công ty, nhà máy của CCN Đại Lộc đang hoạt động. Hơn nữa CCN gần
khu dân cư. Những cơ sở trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra thu
thập số liệu trong quá trình nghiên cứu.
3.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
* Thu thập thông tin thứ cấp: Số liệu thứ cấp được thu thập từ: (1)
các sách báo, báo cáo khoa học, tài liệu nghiên cứu, tạp chí, thông tin trên
mạng internet liên quan đến tác động của việc phát triển cụm công nghiệp đến
sinh kế người dân; (2) các báo cáo về kết quả thu hút các dự án đầu tư trên địa
bàn huyện 2008, 2009, 2010; (3) báo cáo kinh tế xã hội năm 2008, 2009,
2010 của xã nhằm thu thập các thông tin về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội
của địa phương, thực trạng chung về phát triển của CCN.
18
* Phỏng vấn sâu: Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu với các đối
tượng khác nhau nhằm thu thập các thông tin liên quan đến tác động của việc
phát triển cụm công nghiệp. Thứ nhất, phỏng vấn trưởng ban quản lý CCN để
thu thập thông tin về thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn xã Đại

Quang. Thứ hai, phỏng vấn chủ tịch UBND Xã Đại Quang để thu thập các
thông tin liên quan đến việc phát triển của CCN trên địa bàn xã, tác động của
việc phát triển CCN đến đời sống hộ nông dân.
* Thảo luận nhóm: Đề tài tiến hành thảo luận nhóm 2 buổi với 2 nhóm
hộ khác nhau. Đầu tiên thảo luận nhóm được tiến hành với 6 người là người
sống gần CCN, nhằm thu thập các thông tin về tác động của CCN đến đời
sống của người dân. Sau đó, nghiên cứu cũng tiến hành thảo luận với 6 người
là người địa phương đang hoạt động trong CCN và có đất bị quy hoạch để xây
dựng CCN, nhằm thu thập các thông tin về những thuận lợi và khó khăn của
người dân địa phương trước cơ hội mà việc phát triển CCN mang lại.
Để thu thập các thông tin này, đề tài sử dụng một số công cụ: (1) Liệt
kê và so sánh cặp đôi nhằm tìm hiểu các tác động của việc phát triển cụm
công nghiệp đến sinh kế người dân; (2) SWOT nhằm tìm những thuận lợi và
khó khăn trước những cơ hội mà việc phát triển cụm công nghiệp mang lại.
* Phỏng vấn hộ: Đề tài tiến hành phỏng vấn 30 hộ. Hộ được chọn ngẫu
nhiên có định hướng để phỏng vấn , đảm bảo tiêu chí sau: sống gần CCN, có
đất bị quy hoạch để xây dựng CCN. Phỏng vấn hộ nhằm lấy các thông tin liên
quan đến đặc điểm kinh tế xã hội của hộ; tác động của cụm công nghiệp đến
đời sống hộ; thuận lợi và khó khăn của người dân địa phương trước những cơ
hội mà việc phát triển công nghiệp mang lại.
3.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tất cả các số liệu được mã hoá, nhập và xử lý thống kê bằng các phép
tính trên phần mềm Excel.
19
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã hội xã Đại Quang, huyện Đại Lộc,
tỉnh Quảng Nam
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
Xã Đại Quang là xã nằm về phía Tây của huyện Đại Lộc, cách trung
tâm huyện 6 km về phía Tây, cách thành phố Tam Kỳ 80 km về phía Nam.

Toàn xã có tổng diện tích đất tự nhiên là 3680,60 ha.
Xã Đại Quang cũng như các địa phương trong huyện nằm trong vùng
nhiệt đới gió mùa, có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ trung bình hằng
năm từ 22
0
C - 28
0
C. Lượng mưa trung bình hằng năm là 2.084 ml. Độ ẩm
trung bình hằng năm là 80%.
Nhìn chung từ sau ngày giải phóng 1975 đến trước năm 1990, đất đai
trên địa bàn xã ít có biến động. Trong 2 năm 1998 và 1999 tại đây đã có biến
động bồi lỡ và vùi lấp hằng trăm ha đất. Sự biến động đất làm cho diện tích
đất NN ngày càng giảm lại, đất hoang cát tăng lên, những khu đất dân cư ven
sông cũng bị cuốn trôi, sạt lỡ nghiêm trọng. Trong những năm gần đây việc
quy hoạch bố trí xây dựng CCN Đại Quang cũng làm cho diện tích đất sản
xuất NN giảm dần. Đựợc sự quan tâm của các cấp chính quyền, địa phương
đã bố trí quy hoạch dân cư, hạn chế tối đa việc lấy đất NN làm đất ở. Từ khi
có luật đất đai ra đời, ranh giới hành chính được xác lập cụ thể, việc quản lý
và sử dụng đất được ổn định hơn, sát thực hơn với người dân như: Nghị định
181/CP, 84/CP của Chính phủ được ban hành và thực hiện, tạo nên sự ổn
định về đất đai trong nhân dân và trong cung cách quản lý Nhà nước.
Hiện nay các nhà máy xí nghiệp trên địa bàn xã được xây dựng một
cách ồ ạt. Diện tích đất NN bị thu hẹp để nhường chỗ cho các nhà máy xí
nghiệp, vì vậy có sự biến động đất NN và phi NN qua các năm. Cụ thể qua
biểu đồ 1 cho thấy vào năm 2008 diện tích đất NN chiếm 95,1% so với tổng
diện tích đất, qua năm 2009, tỷ lệ tương ứng là 94,1%, và năm 2010 là 93,3%.
Như vậy trong vòng ba năm từ 2008- 2010, diện tích đất NN giảm đi 1,8%.
Toàn bộ diện tích đất NN được đưa vào việc quy hoạch các nhà máy xí
nghiệp trong CCN, do đó diện tích đất phi NN tăng lên rõ rệt qua từng năm từ
2008 đến 2010.

20
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội xã trong ba năm 2008- 2010)
Biểu đồ 1: Biến động đất đai của xã giai đoạn 2008- 2010
4.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của vùng nghiên cứu
Xã Đại Quang có tổng dân số 10.523 khẩu, với 2.953 hộ, trong đó có
1.512 hộ nông nghiệp. Cơ cấu lao động (%) theo các ngành nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ như sau: lao động nông nghiệp chiếm 60,67%, lao động
dịch vụ chiếm 6,22%, lao động ngành nghề chiếm 33,11%. Lao động phân
theo kiến thức phổ thông( tiểu học 39%, trung học cơ sở 34%, trung học phổ
thông 27%). Tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên môn( Sơ cấp (3 tháng trở
lên) 3,67% tổng số lao động, trung cấp chiếm 6,3% tổng số lao động, cao
đẳng, đại học chiếm tỷ lệ 4,48% tổng số lao động.)
Đại Quang là một xã có đa phần người dân làm nông nghiệp, với một
nền kinh tế thuần nông. Trong nhiều năm qua nền kinh tế của xã đang từng
ngày phát triển hơn trước và đã có nhiều sự đổi khác. Giá trị sản xuất ngành
nông nghiệp năm 2010 là 162,1 tỷ đồng chiếm 15,48% so với tổng giá trị sản
xuất, tăng 52,9% so với năm 2009.
Năm 2010 do biến động của nền kinh tế các cơ sở kinh doanh của địa
phương gặp nhiều khó khăn, đặc biệt các công ty kinh doanh tại CCN Đại
Quang hoạt động cầm chừng do không có thị trường. Một số cơ sở ngừng
21
hoạt động như gia công mây tre, gia công thủy sản (cá)… Tuy nhiên, nhà máy
sản xuất gạch men của Công ty Cổ Phần Prime Đại Lộc đưa vào vận hành sản
xuất tạo thêm giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn và với số lượng giá trị
lớn, đơn vị đã góp phần bù vào sự thiếu hụt của các đơn vị khác giúp cho tổng
giá trị ngành công nghiệp sản xuất gần đạt kế hoạch đề ra. Giá trị sản xuất
ngành công nghiệp khá cao, ước tính đạt 115 tỷ đồng chiếm 70,94% so với
tổng giá trị sản xuất trên địa bàn xã.
Toàn xã có 32 cơ sở dịch vụ và buôn bán chính, 2 chợ trao đổi mua bán
hàng hóa, dịch vụ vận tải với 5 chiếc xe hoạt động không liên tục cho giá trị

thấp. Giá trị sản xuất toàn ngành ước tính khoảng 22 tỷ đồng, chiếm 13,58%
so với tổng giá trị sản xuất.
Bảng 3: Bảng giá trị sản xuất của các ngành của xã năm 2010
Lĩnh vực Tổng giá trị sản xuất
( tỷ đồng)
Tỷ lệ (%)
NN 25,1 15,48
CN- TTCN 115 70,94
TM- DV 22 13,58
Tổng giá trị sản xuất 162,1 100
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội xã 2010)
Trên địa bàn xã Đại Quang trong những năm qua, việc đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng được chú trọng phát triển. Từ khi có CCN thì nguồn ngân sách
địa phương đã tăng lên đáng kể, vì thế địa phương chú trọng nhiều hơn đến
việc nâng cấp cấc cơ sở hạ tầng. Địa phương đã xây dựng và phát triển trường
học từ tiểu học đến trung học cơ sở được tầng hóa theo tiêu chuẩn với 44
phòng học. Hiện nay đã xây dựng hoàn thành Trường Mầm Non chuẩn quốc
gia. Ngoài ra ở mỗi thôn có cụm văn hóa và phòng học cho hệ mầm non. Một
trạm xá đã được hạ tầng hóa với 8 phòng bệnh khang trang, sạch đẹp đảm
bảo việc khám và chữa bệnh cho nhân dân trong xã.
Trong những năm qua địa phương đã tập trung đầu tư nâng cấp đường
giao thông nông thôn với tổng chiều dài đã được lập dự toán thiết kế và xây
dựng là 24,92 km đường bê tông, với chiều rộng đường là 3 m và 2,5 m. Xây
22

×