PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ CÁN KHÊ
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TỪ NGỮ
TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Người thực hiện: Lê Thanh Hưng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Cán Khê
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn
NHƯ THANH NĂM 2014
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Văn học trung đại là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn bậc
trung học cơ sở. Văn học trung đại Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ thứ X đến hết thế
kỷ XIX, nhiều tác phẩm đạt đến mức điêu luyện, tinh xảo về nghệ thuật và nội
dung, đã góp phần không nhỏ về mọi mặt cho nền văn học hiện đại sau này. Vì
vậy, việc giảng dạy từ ngữ trong giờ văn thời kì này rất quan trọng và cần thiết,
không những làm cho học sinh cảm thụ được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn
chương mà còn góp phần vào việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho học
sinh, cung cấp cho học sinh một số vốn kiến thức về một thời kì lịch sử hào hùng,
oanh liệt của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng cung cấp cho học sinh một số vốn
từ ngữ cơ bản để vận dụng trong giao tiếp hàng ngày và trong viết văn.
Việc giảng dạy từ ngữ trong Văn học trung đại bên cạnh một số thuận lợi vẫn
còn có không ít những khó khăn. Làm thế nào để cho giờ dạy tác phẩm văn học
trung đại đạt chất lượng, hiệu quả ? Giáo viên cần phải chọn những từ ngữ nào để
giảng dạy cho học sinh? Dạy thế nào để học sinh cảm thụ được hết cái hay, cái đẹp
của tác phẩm trung đại này? Đó còn là một điều nan giải.
Ở trường THCS Cán Khê hiện nay, tình trạng học sinh học đến phần văn học
trung đại có chiều hướng lơ là, không thích thú, điều này có nhiều lí do như khó
hiểu, khó thuộc, khó phân tích và phải nắm vững điều kiện, hoàn cảnh lịch sử…
Xuất phát từ thực tế, qua nhiều năm bản thân tôi đã dạy các khối lớp 6,7,8,9
trong đó có các tác phẩm văn học trung đại rất hay nhưng lại khó. Vì vậy bản thân
tôi đã nghiên cứu tài liệu, thử nghiệm, áp dụng một số kinh nghiệm vào quá trình
giảng dạy môn Ngữ văn THCS (phần văn học trung đại), đúc kết lại những kinh
nghiệm giảng dạy này trong đề tài Một số kinh nghiệm dạy từ ngữ trong tác phẩm
Văn học trung đại Việt Nam ở trường THCS để các đồng nghiệp cùng tham khảo.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
A. Cơ sở lí luận của đề tài:
Môn Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm
quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
“Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường
THCS: góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ
sở, chuẩn bị cho họ ra đời, hoặc tiếp tục học ở bậc cao hơn. Đó là những con
người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng
yêu nước, yêu CNXH, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng
nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái
ác ”. Đó là mục tiêu tổng quát của môn Ngữ văn THCS (Sách giáo viên Ngữ
văn 6 - Tập 1). Chương trình văn học trung đại được chọn đưa vào giảng dạy ở
trường THCS cũng nằm trong mục tiêu tổng quát ấy. Văn học trung đại là văn học
giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX ở Việt Nam. Đây là giai đoạn văn học đạt
nhiều thành tựu rực rỡ, lịch sử đã xây dựng cho nền văn học này một truyền thống
về văn học dân gian cũng như văn học bác học, về văn chương chữ Hán cũng như
văn chương chữ Nôm. Đây là một giai đoạn văn học phát triển một cách phong
phú về cả số lượng và chất lượng. Nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao về nội dung và
nghệ thuật. Các tác phẩm được đưa vào học ở trường THCS chứa chan lòng yêu
nước và lòng nhân đạo, có tác dụng tốt trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho
học sinh. Vì vậy, người giáo viên dạy văn phải chú ý một số vấn đề về giảng dạy
từ ngữ trong văn học trung đại, dạy cho các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của
ngôn từ trong các tác phẩm văn học của cha ông xưa, từ đó cảm thụ được cái hay,
cái đẹp của những áng văn chương bất hủ của dân tộc.
B. Thực trạng vấn đề dạy và học môn Ngữ văn ở trường THCS:
1. Thuận lợi:
Trong nhiều năm trở lại đây, các phương pháp dạy học theo hướng tích cực
đã được chú trọng (kể cả việc ứng dụng công nghệ thông tin). Nhất là từ khi thực
hiện chương trình thay SGK mới. Việc đổi mới chương trình và phương pháp
giảng dạy khiến cho giáo viên phải đổi mới cách dạy học, đầu tư nhiều hơn trong
giảng dạy. Trong những năm qua, Phòng giáo dục và đào tạo Như Thanh cũng rất
quan tâm đến chất lượng và hiệu quả giờ dạy, cụ thể là tổ chức những chuyên đề
cho giáo viên; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phát động phong trào viết
đề tài, sáng kiến kinh nghiệm; tổ chức thi giáo viên dạy giỏi điều đó đã từng
bước nâng cao chất lượng dạy và học ở các nhà trường.
2. Thực trạng của Giáo viên và học sinh
Tại trường THCS Cán Khê, thư viện còn quá sơ sài, tài liệu tham khảo cho
môn ngữ văn hầu như không có, đặc biệt sách viết về các tác phẩm văn học thời
trung đại lại càng thiếu, kể cả không có từ điển Tiếng Việt . Bản thân GV cũng
còn nhiều lúng túng khi khai thác các tác phẩm văn học cổ nhất là về mặt từ ngữ
khi bắt gặp những vấn đề khó.
Về học sinh, ý thức học tập của một số em còn chưa tốt, còn lơ là, ít chú trọng
học môn Văn, nhất là đối với phần Văn học trung đại do còn có nhiều chỗ khó, từ
ngữ thì phải nắm rõ cả hai phần dịch nghĩa (trong văn xuôi, trong thơ) và dịch
thơ.
Một là, văn học trung đại có nhiều từ ngữ cổ, học sinh ít gặp các từ này trong
văn học hiện đại và các em không hiểu nghĩa của từ. Mà muốn hiểu cái hay, cái
đẹp của một tác phẩm thì trước hết phải hiểu từ ngữ đó. Trong SGK có phần chú
giải các từ ngữ khó nhưng chưa giải thích hết được, vẫn còn nhiều thiếu sót. Do
vậy, điều này có ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ của học sinh.
Hai là, trong văn học trung đại có nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán do vậy có
nhiều từ gốc Hán. Vì có nhiều từ gốc Hán nên gây cho học sinh ít ham thích đọc
các tác phẩm này, một phần là do từ ngữ khó hiểu, một phần là do không quen
thuộc dẫn đến không cảm thụ được. Một số tác phẩm viết bằng chữ Hán nên học
sinh phải học qua bản dịch. Có tác phẩm, dịch giả dịch tương đối sát với
nguyên bản, nhưng cũng có tác phẩm không thể dịch sát nên chưa lột tả hết cái
hay của nguyên bản. Điều đó ảnh hưởng đến sự tiếp thu của học sinh và nhiều
giáo viên cũng gặp khó khăn trong việc bình giảng.
Một khó khăn khác nữa trong giảng dạy từ ngữ trong văn học trung đại là phải
giảng giải điển tích, điển cố. Các tác phẩm giai đoạn này hay dùng điển tích, điển
cố vì đó là một nét nghệ thuật nhưng có khi học sinh không hiểu hết, không hiểu
thấu đáo được điển cố bởi có điển cố phải giải thích ra cả một câu chuyện dài.
Cũng có khi giáo viên chưa hiểu hết ý nghĩa của điển cố đó vì chưa có điều kiện
nghiên cứu, tìm hiểu kĩ càng vì vậy không giải thích cho học sinh hiểu thấu đáo
được.
C. Các giải pháp và tổ chức thực hiện:
1. Một số kinh nghiệm giảng dạy từ ngữ trong văn học trung đại nói
chung:
1. 1. Dạy từ ngữ cần phân tích ý nghĩa của từ ngữ:
Văn học trung đại Việt Nam có nhiều tác phẩm hay, hay về nội dung, điêu
luyện về nghệ thuật. Đó là nhờ ngòi bút tài hoa, sáng tạo của tác giả. Để giúp học
sinh hiểu được nội dung trước hết giáo viên cần phải phân tích ý nghĩa của từng từ
ngữ trong từng câu, từng bài. Học sinh cảm nhận được lời hay, ý đẹp, yêu thích tác
phẩm đó là nhờ học sinh hiểu được ý nghĩa của từ.
Trong Văn học trung đại như đã nêu ở trên, thường có nhiều từ cổ, điển cố, từ
gốc Hán, những từ ngữ này thường bao hàm nhiều nghĩa. Người giáo viên cần cho
học sinh đọc kỹ chú giải (đọc trước) đôi khi cần trở lại nguyên bản để giảng giải
cho học sinh. Nhưng cũng không nên sa đà vào việc giảng giải mà cần có sự lựa
chọn những từ ngữ tiêu biểu có liên quan đến nội dung tư tưởng, chủ đề, nội dung
hiện thực của tác phẩm đó để phân tích.
Ví dụ 1:
Trong bài “Hịch tướng sĩ” (lớp 8 tiết 93 - 94), giáo viên chọn đoạn tiêu biểu,
phân tích kỹ, đó là đoạn: “Ta thường tới bữa quên ăn ta cũng vui lòng”. Tại sao
lại lựa chọn đoạn này? Bởi đây là đoạn văn thể hiện một cách sâu sắc tấm lòng
yêu nước, căm thù giặc, lo lắng vì dân, vì nước của Hưng Đạo Vương. Đoạn này
có tác dụng khích lệ lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ thời ấy
đồng thời cũng có tác dụng giáo dục lòng yêu nước cho học sinh thời nay.
Vậy khi giảng dạy bài hịch này ta chọn hình ảnh nào? Ngoài hình ảnh tiêu biểu
của vị chủ tướng như “quên ăn, mất ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa chỉ căm tức chưa xả thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù” giáo viên cần
tập trung đến hình ảnh: “nửa đêm vỗ gối”. Có một vấn đề giáo viên cần biết “gối”
ở đây không phải là “đầu gối”, cũng không phải là gối kê đầu, gối đầu khi nằm.
Mà gối này là gối xếp, bọc bằng vải điều, có nhiều tầng. Thời xưa, quan lại hoặc
nhà quyền quý hay dùng. Cái gối đó để cho người ngồi bắt chéo chân lên sập gụ
kê tay và tựa lưng vào (ngày nay không ai dùng gối này nữa). Nếu hiểu rõ hình
ảnh này, học sinh mới thấy được hình ảnh “nửa đêm vỗ gối” thật là đẹp và gây
nhiều xúc động. Đó là hình ảnh Trần Quốc Tuấn thức suốt đêm thâu, tựa gối suy
nghĩ, lo lắng, băn khoăn vì việc nước. Ngoài hình ảnh này, động từ “vỗ” còn cho
ta tưởng tượng ra được nỗi căm giận của vị chủ tướng đối với kẻ thù xâm lược.
Ví dụ 2:
Dạy bài “Nước Đại Việt ta” (lớp 8 tiết 97), giáo viên cần tập trung giải thích
kỹ từ “nhân nghĩa” trong câu mở đầu của bài cáo “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân”. Tư tưởng nhân nghĩa bản thân nó chỉ là một sự kế thừa, một sự phát huy để
đến Nguyễn Trãi lần đầu tiên trở thành một đạo lý. “Nhân nghĩa” vốn là một khái
niệm, một sản phẩm của Nho giáo. Nó đóng khung trong một phạm trù hẹp, phạm
vi ứng xử của con người với con người, chủ yếu là trong đạo vua tôi của người
quân tử.
Đến Nguyễn Trãi lần đầu tiên khái niệm “nhân nghĩa” được mở rộng ra, nâng
cao hơn, đến cái đích tột cùng là “cốt ở yên dân”. Khái niệm “nhân nghĩa” lúc này
không dừng lại ở mối quan hệ giữa cái riêng với cái chung nữa mà then chốt chủ
yếu là sự nghiệp giữ nước, “yên dân”. Vì vậy, “nhân nghĩa” là nguyên lý cơ bản
làm nền tảng để triển khai toàn bộ bài Cáo.
Chữ nhân, chữ nghĩa ở đầu bài Cáo đã mở ra một cái nhìn rộng lớn:
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng.
Tư tưởng ấy đã tự chắt lọc cho tác giả một thi pháp dùng từ vừa đắc địa
vừađồng điệu khi nói tới người xưa. Đối lập với “tham công”, “thích lớn” của bọn
giặc phương Bắc là một nền văn hiến vững bền mà cha ông ta đã dày công tạo
dựng. Những cái mốc vẻ vang của nó được ghi nhận ở những chiến công: “Cửa
Hàm Tử bắt sống Toa Đô. Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”, “Lưu Cung tham
công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong”. Tất cả đều minh chứng cho
sức mạnh của nhân nghĩa.
1.2. Dạy từ ngữ cần phân tích sắc thái biểu cảm của từ
Một đặc điểm nổi bật của Tiếng Việt là rất giàu từ cụ thể. A.Tôn xtôi đã nêu
một quy luật rất quan trọng của tác động nghệ thuật là “Nghệ thuật chỉ tác động
đến con người nhờ chi tiết”. Do đó, với lớp từ cụ thể, phong phú, Tiếng Việt là
công cụ lợi hại dưới ngòi bút của các tác giả sáng tác văn học, có khả năng thông
báo rõ ràng, nổi bật đồng thời có khả năng bộc lộ thái độ của tác giả. Giáo viên
cần chọn những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm có tác động mạnh đến tâm não độc
giả. Khi giảng văn thơ không nên lướt qua những từ “nên họa” ấy. Việc lựa chọn
những từ ngữ chính xác, cụ thể, tinh tế đã góp phần quan trọng trong việc khắc
họa hình tượng tạo hình (trong tác phẩm tự sự), hình tượng trữ tình (trong tác
phẩm trữ tình).
Ví dụ 1:
Dạy bài “Qua Đèo Ngang” (lớp 7 tiết 29), có hai câu mở đầu
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa.
Cần chú ý phân tích từ “chen” trong câu thơ thứ hai. Đèo Ngang thực ra chỉ có
ba loại là cỏ, cây và đá mà thôi nhưng tác giả đã thêm vào lá và hoa (có từ cỏ, cây)
đã làm cho câu thơ tăng thêm chi tiết về mặt số lượng. Tuy nhiên ấn tượng về sự
um tùm, rậm rạp, hoang dã lại được tạo ra từ điệp từ “chen” chêm vào giữa năm
yếu tố đó. Đúng là một thủ pháp nghệ thuật đầy sáng tạo. Người đọc có cảm giác
câu thơ bảy chữ bỗng trở nên chật chội bởi năm chi tiết: cỏ, cây, đá, lá, hoa và hai
lần từ “chen” đặt vào giữa chúng. Người đọc hình dung người đến Đèo Ngang như
cũng phải chen chân trong cái um tùm đến rợn ngợp của một vùng thiên nhiên
đầy hoang dã đó. Tác giả của bài thơ đã rất thành công trong việc giới thiệu
một Đèo Ngang vào buổi hoàng hôn.
Ví dụ 2:
Dạy văn bản “Cảnh ngày xuân” (lớp 9 tiết 29), cần phân tích các từ “non”,
“xanh”, “trắng”, “điểm” trong hai câu thơ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
ở đây tác giả đã tiếp thu cách thức miêu tả cảnh mùa xuân của văn học cổ
Trung Quốc, vận dụng thi liệu cổ “Phương thảo liên thiên bích. Lê chi sổ điểm
hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh. Trên cành lê có mấy bông hoa). Mùa xuân trong
thơ Tố Như cũng có cỏ, trời xanh, cành lê và mấy bông hoa như mùa xuân trong
thơ cổ Trung Quốc nhưng trong thơ mình, tác giả đã sáng tạo bằng thể thơ lục bát
miêu tả cảnh cỏ non trải dài nơi chân trời, thể hiện tính chất mới mẻ, tinh khôi,
đầy sức sống của mùa xuân, sử dụng thêm tính từ “non”, “xanh”, “trắng”, động từ
“điểm” là những từ miêu tả có tính chất tạo hình đã tạo ra bức tranh xuân tươi đẹp.
Động từ “điểm” còn có tác dụng giúp người đọc hình dung cảnh vật trở nên sinh
động, có hồn chứ không tĩnh tại. Tính từ “trắng” làm cho bức tranh xuân nổi hẳn
lên.
1.3. Dạy tác phẩm qua bản dịch
Giáo viên cần lưu ý trở lại nguyên bản. Chỗ nào chưa dịch sát thì chỉnh lại
giảng cho rõ ràng, thỏa đáng.
Ví dụ:
Khi dạy bài “Sông núi nước Nam” (lớp 7 tiết 17) có câu “Sông núi nước Nam
vua Nam ở”, giáo viên trở lại nguyên bản “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” và phân
tích từ “đế”. Trong tiếng Hán chữ “vương” cũng được coi là vua nhưng chữ “đế”
thì thường được coi là lớn hơn “vương”. Do vậy, chữ “đế” trong “Nam đế cư” tỏ
rõ thái độ của tác giả khi khẳng định rằng nước ta cũng ngang hàng với nước
Trung Hoa. Có Bắc đế thì cũng có Nam đế. Cách dùng từ ấy đã biểu đạt được nội
dung tư tưởng của một bản Tuyên ngôn độc lập. Đồng thời, từ “đế” còn được hiểu
là người đại diện cho nước, cho dân. Ngoài ra cũng cần cho học sinh hiểu thêm về
từ “tiệt nhiên” là rõ ràng, rành rành, “tiệt” là cắt, là cưa ra. Sách trời đã phân
định hai địa phận Nam, Bắc rành rành rồi, các ngươi xâm phạm bờ cõi nước
Nam, tức là xâm phạm tới uy trời đó và trời sẽ không tha thứ đâu! Câu thơ ngầm
bảo như vậy.
Bên cạnh đó, khi giảng dạy các tác phẩm thông qua bản dịch, có một số giáo
viên cho rằng từ ngữ của bản dịch là từ ngữ của người dịch nên không phân tích
hoặc chỉ phân tích ý nghĩa chứ không phân tích sắc thái biểu cảm. Trong thực tế,
từ Tiếng Việt có lớp từ gốc Hán song vẫn thuộc kho tàng Tiếng Việt. Do vậy, các
dịch giả đã giữ lại các từ này trong bản dịch (Ví dụ như từ “nhân nghĩa” trong
“Bình Ngô đại cáo”, từ “xâm phạm” trong “Sông núi nước Nam”). Giáo viên
cần có tầm nhìn hiện đại kết hợp với quan điểm lịch sử để phân tích từ ngữ đó.
1.4. Việc dạy điển tích, điển cố
Khi dạy điển tích, điển cố, giáo viên cần phải hiểu rõ ràng đến nơi đến chốn.
Giáo viên biết để giảng cho học sinh hiểu chứ không phải là giảng hết. Khi không
hiểu hoặc chưa hiểu thấu đáo thì không nên giảng.
Ví dụ 1:
Dạy bài “Hịch tướng sĩ” (Lớp 8 tiết 93 - 94) của Trần Quốc Tuấn có rất
nhiều điển tích, điển cố: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo
Khanh Tất cả những điển tích này sách giáo khoa đã chú thích rất rõ. Giáo viên
chỉ cần phân tích ý nghĩa của các điển cố này ở chỗ chúng nêu gương trung quân
ái quốc, những điển hình của lí tưởng phong kiến. Đây là những người xả thân
cho lí tưởng: trung với vua, với chủ Cũng cần hiểu rằng thời đại của Trần Quốc
Tuấn là thời đại của điền trang, thái ấp, thời đại của nhà nước phong kiến và chủ
nô đang gắn bó với quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Trần Hưng Đạo đã nêu
những gương xả thân vì lí tưởng phong kiến như vậy nhằm kích thích tinh thần
chiến đấu vì lí tưởng của các nghĩa sĩ.
Ví dụ 2:
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi giảng dạy đoạn trích “Chị em Thúy
Kiều”, (Lớp 9 tiết 28) cần giảng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”, tác giả
lấy ý tứ từ điển cố “nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc” (một lần quay lại,
tướng giữ thành bị mất thành, quay lại lần nữa, nhà vua mất nước). Câu thơ của
Nguyễn Du tạo sự súc tích, có sức gợi lớn, nó còn gợi cho ta liên tưởng tới nụ
cười của Bao Tự, cái liếc mắt của Điêu Thuyền, một chút nũng nịu của Dương
Quý Phi, cái nhăn mặt của Tây Thi, hay một nét sầu não của Chiêu Quân – những
người đã từng làm xiêu đổ bao thành trì và triều đại phong kiến Trung Quốc. Tác
giả ngầm so sánh Kiều cũng có sắc đẹp như các mĩ nhân ấy.
2. Một vài kinh nghiệm giảng dạy từ ngữ trong từng loại thể của văn học
trung đại:
Văn chương trung đại có nhiều loại thể. Mỗi loại thể có một đặc điểm, phong
cách ngôn ngữ riêng. Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm đó mới có nội
dung phân tích từ ngữ thích hợp với từng loại thể. Trong chương trình Văn học
trung đại ở trương THCS có những loại thể sau:
- Thơ Đương luật,
- Truyện thơ Nôm,
- Văn cổ (truyện, hịch, cáo, chiếu, tấu),
- Ngoài ra còn có thể thơ song thất lục bát, thơ lục bát.
2.1. Dạy thơ Đường luật
Ta thường gặp trong chương trình Trung học cơ sở các bài thơ Đường luật thất
ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt của: Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến
ở thơ Đường luật, các từ ngữ được đặt trong hệ thống niêm luật chặt chẽ. Thơ
thất ngôn bát cú chỉ gói gọn trong tám câu, bảy chữ, năm mươi sáu tiếng. Các
tiếng đó được cấu trúc thành tám câu theo trật tự sóng đôi hai câu một. Chính đặc
điểm này bắt buộc nhà thơ phải lựa chọn từ ngữ và sử dụng từ ngữ giàu sức gợi
cảm, những từ mang tính nhiều nghĩa. Đặc biệt thơ thất ngôn tứ tuyệt thì số chữ
chỉ còn bằng một nửa thơ thất ngôn bát cú. Cho nên, các từ ngữ ấy thường có
nhiều lớp nghĩa. Trong một bài thơ thường có nhiều từ ngữ ta gọi là từ “đắt”, từ
ngữ “thần”. Trong thơ Đường luật có những bài các từ ngữ thường mang tính hình
ảnh ước lệ, đó là do tâm lý thời đại phản ánh vào ngôn ngữ. Tiếng chuông buổi
chiều, tiếng mõ, mục đồng, ngư, tiều, canh, mục, tùng, cúc, trúc, mai đều là
những hình ảnh mang tính chất ước lệ. Tuy nhiên, khi phân tích các từ ngữ ấy cần
đặt chúng vào đúng thực tế của xã hội Việt Nam để học sinh có thể hiểu rõ nội
dung.
Đặc biệt, Khi phân tích từ ngữ trong thơ Đường luật cũng cần làm sáng tỏ
các lớp nghĩa của từ.
Ví dụ:
Trong bài “Nam quốc sơn hà” (lớp 7 tiết 17) từ “thiên thư” tức “sách trời” cần
cho học sinh hiểu “trời” trong quan niệm của ta và người đương thời là lực lượng
siêu nhiên, trùm lên tất cả, sinh ra tất cả. Đến vua, hoàng đế trị vì muôn dân cũng
chỉ là con trời. ở đây, trời đã công nhận, đã ghi vào bộ sách của mình quyền làm
chủ đất nước của vua Nam thì tức là chân lý đã công nhận điều đó.
Thơ Đường luật ở Việt Nam có những bài đã được Việt hóa có những điểm
khác. Chúng ta thường gặp nhiều tính từ có nhiều lớp nghĩa, các tính từ có nhiều
sức gợi tả như từ tượng hình, từ tượng thanh:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Hoặc các tính từ mang hình ảnh tượng trưng có sức tạo liên tưởng lớn:
Rắn nát mặc dầu tay kể nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Vì vậy, khi phân tích cần chú ý đến các tính từ và phân tích các lớp nghĩa của
chúng. Khi chọn từ phải đọc kỹ toàn bài.
ở thơ Đường luật được Việt hóa nhiều khi không tuân thủ mọi quy tắc niêm
luật, giáo viên cần lưu ý để giảng giải cho học sinh.
Ví dụ:
Khi phân tích bài “Qua Đèo Ngang” (lớp 7 tiết 29) ta cần giảng giải đảo ngữ
trong hai câu thực:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Từ láy “lom khom”, “lác đác” được đảo ra đầu câu đã làm nổi bật được hình
ảnh cúi người cong lưng xuống của mấy chú tiều và hình ảnh thưa thớt của mấy
nhà chợ bên sông. Điều này làm tăng thêm vẻ hoang vắng ở Đèo Ngang, có con
người đấy nhưng vừa ít ỏi, vừa nhỏ bé, họ như bị chìm lút đi dưới bóng núi và ở
bên kia sông còn có vài túp lều tranh rời rạc cách xa nhau gợi cho người đọc một
cảm giác buồn tẻ, mênh mang, vắng lặng.
Trong thơ Đường luật còn sử dụng phép đối. Phép đối không chỉ làm cho câu
thơ có vẻ của sự cân đối mà còn có tác dụng tạo nghĩa mới mà các từ ngữ đó nếu
nằm riêng rẽ, không đối nhau sẽ không tạo ra được. Khi phân tích từ ngữ cần làm
sáng rõ hơn tín hiệu đó.
Ví dụ:
Trong bài “Qua Đèo Ngang” (Lớp 7 tiết 29), hai câu luận sử dụng phép đối rất
chỉnh:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Phép đối làm cho giọng thơ có âm điệu du dương, trầm bổng của khúc nhạc
rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Nghệ thuật đối kết hợp với nghệ thuật
đảo ngữ, lối chơi chữ, phép nhân hóa và cách dùng điển cố một cách điêu luyện,
tài tình thể hiện được cái vắng lặng trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng
hôn đồng thời còn thể hiện được nỗi nhớ kinh kì Thăng Long thân thuộc của nữ sĩ.
Cũng như phép đảo ngữ, phép đối không có trong chương trình Ngữ văn THCS
nhưng khi dạy, giáo viên cũng nên mở rộng kiến thức cho học sinh để các em hiểu
bài tốt hơn.
2.2. Dạy truyện thơ Nôm:
Ngôn ngữ của truyện thơ Nôm vừa là ngôn ngữ truyện vừa là ngôn ngữ thơ.
Ngôn ngữ truyện là ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật,
ngôn ngữ đối thoại. Nói đến ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ cô đúc, giàu hình tượng và
nhạc tính. Đa số truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát, thể thơ nhịp nhàng,
uyển chuyển duyên dáng. Vì vậy, khi giảng dạy từ ngữ trong truyện thơ Nôm cần
lưu ý những điểm sau.
a. Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ, ngôn ngữ
truyện
Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ, ngôn ngữ
truyện tức là phân tích ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại
trong truyện thơ Nôm.
- Về ngôn ngữ miêu tả:
Ví dụ:
Khi phân tích văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Lớp 9 tiết 32,33)
đoạn“Buồn trông cửa bể chiều hôm ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”, tác
giả sử dụng những từ ngữ miêu tả cảnh vật: cửa bể chiều hôm, thuyền ai thấp
thoáng, ngọn nước mới sa, hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu, mặt đất một màu
xanh xanh, gió cuốn ầm ầm tiếng sóng Cần chú ý phân tích các từ láy: thấp
thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, xa xa, ầm ầm. Tất cả đã tạo nên bức
tranh thiên nhiên có màu sắc đượm buồn cũng chính là cảnh trong lòng người.
Với gam màu lạnh, nhà thơ Nguyễn Du, nhà họa sĩ đã vẽ và treo lên bốn bức
tranh liên hoàn tâm trạng từ mong đợi đến băn khoăn, day dứt tiếp tới là buồn
chán, thất vọng và cuối cùng là bàng hoàng, lo sợ hãi hùng.
- Về ngôn ngữ kể chuyện:
Ví dụ:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương”
Đây là đoạn trích trong bài “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” (Lớp 9
tiết 38 - 39). Tác giả sử dụng các từ ngữ: ghé lại, bẻ cây, xông vô, tả đột hữu xông
miêu tả trận giao chiến không cân sức giữa Lục Vân Tiên và bọn cướp. Nhà thơ
Nguyễn Đình Chiểu không miêu tả tỉ mỉ trận đánh mà chỉ dùng ngôn ngữ kể
chuyện, kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một câu so sánh và dăm ba từ đặc sắc
nêu trên để kể việc Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân trừ ác
xuất phát từ lòng nhân. Giản dị vô tư mà đẹp đẽ biết bao!
b. Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ của thơ,
ngôn ngữ của thơ
Phân tích từ ngữ, ngôn ngữ truyện thơ Nôm với tư cách là từ ngữ của thơ, ngôn
ngữ của thơ tức là phân tích biện pháp tu từ, từ láy, từ có tính biểu cảm và từ nhiều
nghĩa Phân tích từ ngữ gắn với phân tích hình ảnh thơ thể hiện tâm trạng cùng
cảm xúc của tác giả
2.3. Dạy văn cổ (truyện, hịch, cáo, chiếu ):
a. Đối với việc dạy truyện:
ở lớp 6 có hai truyện trung đại được học đó là truyện “Con hổ có nghĩa” và
truyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng”. ở chương trình lớp 9 có truyện
“Chuyện người con gái Nam Xương”. Trong truyện trung đại, trình độ xây dựng
cốt truyện còn đơn giản. Cần phân tích tính cách nhân vật chủ yếu qua lời kể của
người dẫn truyện và qua hành động, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng có
nghĩa là giáo viên nên chú ý phân tích các từ ngữ kể chuyện của tác giả, ngôn ngữ
đối thoại của nhân vật.
Ví dụ:
Dạy bài “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” (lớp 6 tiết 65). Đây là loại
truyện có cách viết gần với cách ghi chép sự việc (ký). Ghi chép truyện thật lịch
sử thường mang tính chất giáo huấn. Khi phân tích truyện này cần chú ý đến ngôn
ngữ nhân vật. Cách diễn đạt lời nói của nhân vật có khả năng chứa đựng nhiều ý
nghĩa tư tưởng buộc người đọc phải suy nghĩ. Trong truyện, khối lượng lời văn
dành cho việc kể lại hành động của nhân vật chiếm nhiều nhất. Tác giả tập trung
vào việc kể những hành động của nhân vật trong tình huống có tính chất gay cấn,
từ đó làm nổi bật phẩm chất, tính cách, bản lĩnh của nhân vật. Cần chú ý phân tích
cách xây dựng tình huống: Đưa ra lời nói đầy tức giận của quan trung sứ “Phận
làm tôi, sao được như vậy? ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính
mạng mình chăng?”. Đây là tình huống bất ngờ đặt ra cho vị Thái y một sự khó
xử. Nếu không tuân lệnh nhà vua sẽ tự hại mình bởi phận làm tôi trái lời vua là có
tội. Đây là một tình huống gay cấn đặt vị thái y trước những mâu thuẫn quyết liệt
(chọn việc cứu người dân thường hay là cứu tính mạng mình trước uy quyền của
nhà vua?). Trong tình huống đó, giải pháp của vị thái y như thế nào? Giáo viên
chú ý phân tích lời nói của vị thái y: “Tôi mắc tội, tôi cũng không biết làm thế nào.
Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào
đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng, may ra thoát. Tội
tôi xin chịu”. Câu nói ấy đã bộc lộ rõ nhân cách của một vị lương y: cứu người là
trên hết. Câu nói thể hiện đạo đức của một người thầy thuốc giỏi có tấm lòng nhân
hậu đồng thời thể hiện rõ bản lĩnh, khả năng trí tuệ trong cách ứng xử của vị Thái
y. Cũng cần chú ý đến lời của vua Trần Anh Vương: “Người là bậc danh y chân
chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức ” lời nói của vua chứng tỏ
ông là vị vua có lòng nhân đức, trọng người tài, trọng người có đức, một vị vua
nhân từ, hiểu lẽ phải.
b. Đối với việc dạy thể hịch:
ở lớp 8 tiết 93 - 94 có bài “Hịch tướng si” của Trần Quốc Tuấn. Yêu cầu về
hịch là phải có nội dung, cấu trúc ngôn ngữ khích lệ, động viên được người đọc để
kích thích ý chí chiến đấu và niềm tin chiến thắng, thấy được phải trái, thấy được
sức mạnh của chính nghĩa. Vì vậy, người dạy phải phân tích sự phản ánh tâm lý
trong ngôn ngữ và tác dụng của ngôn ngữ đối với tâm lý trong bài hịch.
Ví dụ:
Khi phân tích đoạn nói về tội ác của bọn giặc cần chú ý đến các từ ngữ “đi lại
nghênh ngang”, “sỉ mắng triều đình”, “bắt nạt tể phụ”, “đòi ngọc lụa”, “thu bạc
vàng”, “vét của kho”, tác giả liệt kê rất cụ thể hành vi ngạo mạn vi phạm chủ
quyền quốc gia dân tộc Đại Việt của bọn sứ giả phương Bắc. Các hình ảnh ẩn dụ
“cú diều”, “dê chó”, “hổ đói” tác giả đã cho người đọc thấy rõ chúng không phải
là con người đại diện cho một quốc gia, một dân tộc nữa mà chỉ là loài ác thú gian
manh. Các từ ngữ ấy thể hiện rõ thái độ căm thù của Trần Quốc Tuấn với bọ giặc
xâm lược. Hình ảnh đẹp nhất trong bài hịch là đoạn: “Ta thường tới bữa quên
ăn ta cũng vui lòng”. Lòng căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn không chỉ dừng
lại ở thái độ u uất, đau xót, trăn trở mà còn dâng lên đến mức cao hơn, quyết liệt
hơn: “chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”. Các động từ
“xả, lột, nuốt, uống” rồi những điển tích “trăm thân, nghìn xác” gây xúc động lòng
người, tạo được sự đồng cảm của các tướng sĩ. Bài văn thuộc thể loại văn thư quân
sự nhưng lời lẽ không chỉ đanh thép mà còn mềm mại, thắt buộc, kích động, đằng
sau lý lẽ đanh thép ấy, mệnh lệnh dứt khoát ấy ẩn chứa một tấm lòng ưu ái và tin
tưởng
của một vị chủ tướng.
c. Đối với việc dạy thể cáo:
Trong chương trình lớp 8 tiết 97 có học bài “Bình Ngô đại Cáo”. Với thể loại
này cần phân tích ngôn ngữ chính luận và ngôn ngữ đặc tả vì đặc trưng của thể
loại cáo như chúng ta đã biết là sử dụng ngôn ngữ chính luận. ở lớp 8 chỉ học phần
đầu có tên là “Nước Đại Việt ta”. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản, giáo
viên cho học sinh tìm hiểu từ “nhân nghĩa” (như đã nêu ở trên). Suy rộng câu văn
của Nguyễn Trãi và tìm hiểu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ta hiểu hai chữ “nhân
nghĩa” này mang một triết lý sâu sắc. Vì thương người mà chiến đấu, vì ý nghĩ
thương dân mà đánh giặc. Qua đó, ta hiểu tư tưởng nhân nghĩa vô cùng cao đẹp, là
nguồn gốc của sức mạnh dân tộc. Nguyễn Trãi đã đứng trên tầm cao của thời đại,
phát ngôn cho triết lý nhân nghĩa Đại Việt. Ngoài ra cũng cần nhấn mạnh cho học
sinh hiểu việc tác giả dùng từ “văn hiến”. Cần hỏi học sinh tại sao tác giả lại đặt từ
“văn hiến” lên vị trí hàng đầu so với các yếu tố khác để xác định độc lập, chủ
quyền dân tộc. Ta có thể hiểu, đặt trong bất cứ hoàn cảnh nào thì yếu tố “văn hiến”
cũng là yếu tố cơ bản nhất để xác định tư cách tồn tại của một dân tộc. Thời đại đó
bọn phong kiến phương Bắc rất coi thường dân ta, gọi dân ta là man di, mọi rợ.
Với lời lẽ này, Nguyễn Trãi đã đập thẳng vào luận điệu coi thường đó của chúng,
khẳng định chủ quyền của dân tộc, khẳng định nền văn hóa cổ truyền của dân tộc
ta. Cái khung bờ cõi của dân tộc Đại Việt không thể là cái mà bọn phong kiến
phương Bắc có thể tùy tiện kéo về mình. Nước Việt, cái nội dung mà người Việt
làm chủ, là phong tục tập quán, là một nền văn hiến đã có từ lâu đời. Một đất nước
như thế thì triều đại của nó kém gì các triều đại ở phương Bắc, hai vương triều, hai
nước song song tồn tại, phát triển như hai lực lượng đối diện: “Từ Triệu, Đinh, Lý,
Trần bao đời gây nền độc lập. Cung Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ
một phương”. Chỉ một đoạn cáo ngắn gọn nhưng đã đề cập đến nhiều nội dung.
Đoạn mở đầu như một bản tuyên ngôn độc lập, kế thừa và phát huy những tư
tưởng thời phong kiến phồn vinh. Và khi Nguyễn Trãi viết những dòng chính luận
này trong một văn bản chính cần nhấn mạnh cho học sinh thấy rõ lời văn trang
nghiêm, trịnh trọng, đanh thép, đĩnh đạc, uy nghi trong bài cáo. Hình như Nguyễn
Trãi cân nhắc từng chữ, từng lời, từng ý. Mỗi chữ dùng đều có chọn lọc sao cho có
sức biểu cảm âm vang, tất cả đều hợp lý, không một câu lép ý, không một chữ nhẹ
lời. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Bình Ngô đại cáo hạ một chữ như đổ một
trái núi” đúng là một áng thiên cổ hùng văn bất hủ, ông đã khẳng định tính độc lập
của nền văn hóa dân tộc.
d. Đối với việc dạy thể chiếu:
ở lớp 8, tuần 23, tiết 90 có bài “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn. Chiếu là thể
văn cổ mang chức năng hành chính do vua dùng để ban bố mệnh lệnh. Một số bài
chiếu thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến cả triều đại, đất nước.
“Chiếu dời đô” gắn với sự kiện lịch sử - chính trị hết sức quan trọng của năm
1010 đưa đến một bước ngoặt vĩ đại cho sự phát triển của dân tộc Đại Việt.
Ngoài việc thể hiện những chức năng của thể chiếu, văn bản này còn có những đặc
điểm riêng mà giáo viên cần lưu ý cho học sinh đó là tính chất tâm tình bên cạnh
tính chất mệnh lệnh, bên cạnh ngôn ngữ đơn thoại, một chiều của một vị vua ban
bố mệnh lệnh còn có ngôn từ mang tính chất đối thoại, trao đổi. Đó chính là yếu tố
trữ tình thể hiện trong bài chiếu. Bộc bạch trực tiếp tâm tư, mong muốn của mình
với tâm hồn cởi mở, người ban chiếu đã tìm đến sự giao cảm, đồng lòng của thần
dân trong nước. Những câu: “Trẫm rất đau xót về việc đó”, “Trẫm muốn dựa vào
sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” cho thấy thái độ
của Lý Công Uẩn là rất đau xót cho muôn dân phải sống nơi chật hẹp, vạn vật
không thích nghi, triều đại ngắn ngủi, đất nước không phát triển thịnh vượng. Từ
đó, tác giả bày tỏ thái độ dứt khoát về việc phải dời đô. Ngôn ngữ đối thoại có tính
chất trao đổi ấy đã tạo sự đồng cảm giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Nhờ đó
mà bài chiếu có sức thuyết phục.
Nói tóm lại, mỗi thể văn cổ đều có những đặc trưng riêng, khi giảng dạy các
từ ngữ trong từng thể loại, giáo viên cần chú ý đến những đặc trưng cơ bản đó để
giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn.
D. Kiểm nghiệm:
Có thể nói, dạy từ ngữ rất quan trọng đối với việc dạy Văn học trung đại Việt
Nam. Để dạy học sinh hiểu sâu sắc một bài văn, một bài thơ trung đại thì giáo viên
phải phân tích các hình tượng nghệ thuật nói chung đồng thời phải có phương
pháp phân tích ngôn ngữ thích hợp, thích đáng. Vì tất cả những gì ở tác giả, hoàn
cảnh lịch sử, cá tính, thực tế cuộc sống, quan điểm chính trị, nghệ thuật tạo nên
một tác phẩm phải thông qua ngôn ngữ mới thể hiện được. Đề tài này chỉ là một
vài kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy tôi tích lũy được. Trong mức độ
hạn hẹp tôi chỉ xin đưa ra một tiết giáo thực tế để minh họa kiểm nghiệm.
Giáo án minh họa
Giáo án ngữ văn 8
Tuần 26, bài 24
Tiết 97 Nước Đại Việt ta
(Trích Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
A.Mục tiêu bài học
I. mức độ cần đạt
- Bổ sung kiến thức về văn nghị luận trung đại
- Thấy được chức năng, yêu cầu nội dung, hình thức của một bài cáo
- Nắm được đặc điểm nội dung và hình thức của đoạn trích
II. trọng tâm kiến thức kĩ năng
1. Kiến thức
- Sơ giản về thể cáo
- Hoàn cảnh lịch sử liên quan đến sự ra đời của Bình Ngô đại cáo
- Nội dung tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi về đất nước, dân tộc
- Đặc điểm văn chính luận của Bình Ngô đại cáo ở một đoạn trích
2. Kĩ năng
- Đọc- hiểu một văn bản viết theo thể cáo
- Nhận ra, thấy đựơc đặc điểm của kiểu văn bản nghị luận trung đại ở thể loại
cáo
III. Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục
- Giao tiếp
- Suy nghĩ sáng tạo
- Xác định giá trị của bản thân
II. Chuẩn bị
- Giáo viên:
+ Tài liệu tham khảo: các văn bản bình luận về tác phẩm Bình Ngô đại cáo, sách
viết về tác giả Nguyễn Trãi.
+ Đồ dùng dạy học: tranh chân dung Nguyễn Trãi, bảng phụ.
- Học sinh: Đọc văn bản và trả lời câu hỏi trong phần đọc - hiểu (SGK)
III. Hoạt động dạy và học
1. ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới
Hoat động của giáo viên và học sinh Nội dung chính
Hoạt động 1: HD HS đọc và tìm hiểu chung
- GV yêu cầu HS đọc với giọng rõ ràng, hùng hồn,
biểu lộ cảm xúc tự hào
- GV đọc 1 lần
- 2 HS đọc lại
I. Đọc và tìm hiểu chung
- HS khác nhận xét, sửa chữa cách đọc của bạn
- GV sửa chữa, nhận xét cách đọc của HS
- Hãy nhắc lại hiểu biết của con về tác giả Nguyễn
Trãi (đã học ở học kì I).
(Nguyễn Trãi là người anh hùng dân tộc, một
danh nhân văn hoá, một người có tài năng lỗi lạc về
chính trị, quân sự, ngoại giao, tư tưởng, lịch sử, địa lí.
Riêng về lĩnh vực văn học, ông là một trong những
tác giả lớn nhất của văn học trung đại. Dù là văn
chính luận chữ Hán hay chữ Nôm, ông đều có
thành tựu lớn.)
- Hãy nêu xuất xứ đoạn trích Nước Đại Việt ta?
(Đoạn trích này nằm ở phần đầu tác phẩm Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi viết vào năm 1428
Khi Lê Lợi đánh thắng giặc Minh)
- Em hiểu gì về thể Cáo?
(Là thể văn nghị luận cổ thường được vua chúa
hoặc thủ lĩnh viết, dùng để trình bày một chủ
trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để mọi
người cùng biết)
- GV giải thích nghĩa Bình Ngô đại cáo
Hoạt động 2: HD HS tìm hiểu chi tiết văn bản
- HS đọc 2 câu đầu
- Trong 2 câu đầu, tác giả đã đề cập đến điều gì?
(Nguyên lí nhân nghĩa)
- Theo em, vị trí nội dung nguyên lí nhân nghĩa
đặt trong bài Cáo này là gì?
(Là nguyên lí cơ bản làm nền tảng triển khai toàn
bộ nội dung bài Cáo nên được đặt ở vị trí đầu bài
Cáo)
- Em hiểu gì về các từ “yên dân”, “trừ bạo”?
(+ “yên dân”: làm cho dân được hưởng thái bình,
hạnh phúc, yên ổn
+ “trừ bạo”: diệt trừ mọi thế lực bạo tàn)
- Dựa vào thế kỉ 15, em hiểu “dân” ở đây là ai,
“bạo” là ai?
(“dân” là người dân đất Việt, “bạo” là bọn giặc
Minh xâm lược)
- Từ đó, em hiểu gì về tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi trong bài?
(Nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm
lược)
1. Tác giả
- Nguyễn Trãi (1380 -1442)
- Là danh nhân văn hóa, nhà
Văn, nhà thơ lớn, nhà quan
sự, chính trị lỗi lạc của dân
tộc Việt Nam.
2. Tác phẩm
Trích trong Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi (1428)
II. Tìm hiểu chi tiết văn bản
1. Hai câu đầu
- Là nguyên lí cơ bản làm nền tảng
triển khai toàn bộ nội
dung của bài
- Khẳng định nhân nghĩa
gắn liền với yêu nước chống
- HS đọc 8 câu tiếp
- Em có nhận xét gì về ý nghĩa cách dùng các từ
ngữ “từ trước”, “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”,
“đã khác”?
(Các từ ngữ này thể hiện tính chất hiển nhiên vốn
có lâu đời của nước Đại Việt độc lập, tự chủ)
- Em hãy trình bày ý kiến của mình về lối văn
trong đoạn này? Nêu tác dụng của lối văn đó?
(Tác giả sử dụng câu văn biền ngẫu, sóng đôi cân
xứng tạo cho âm điệu câu văn nhịp nhàng, nhấn
mạnh ý thức về độc lập, về chủ quyền dân tộc)
- Em hiểu “văn hiến” là gì? Tại sao tác giả lại
đưa văn hiến lên vị trí hàng đầu so với các yếu tố
khác?
- HS thảo luận, trả lời
(+ “Văn hiến”: truyền thống văn hoá lâu đời và tốt
đẹp.
+ Đặt trong bất cứ hoàn cảnh nào thì văn hiến
cũng là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác
định tư cách tồn tại độc lập của một dân tộc. Việc
tác giả đưa yếu tố văn hiến lên đầu và việc nhấn
mạnh thêm nền văn hiến nước ta ở sự có mặt luôn
luôn của những người tài giỏi “đời nào cũng có”
là cách đập thẳng vào luận điệu coi thường dân ta,
gọi dân ta là man di, mọi rợ của bọn phong kiến
phương Bắc)
- Biện pháp sử dụng cặp câu sóng đôi “từ Triệu….
xưng đế một phương” có hiệu quả như thế nào?
(Qua cặp câu sóng đôi, bút pháp liệt kê, đối chiếu
để so sánh, tác giả đã đặt nước ta ngang hàng với
các triều đại lớn của Trung Quốc về trình độ chính
trị, tổ chức, quản lí quốc gia. Điều đó khẳng định
chủ quyền dân tộc Đại Việt, thể hiện niềm tự hào
dân tộc)
- Qua các nội dung trên, em hãy cho biết để
khẳng định chủ quyền dân tộc, tác giả đã đưa ra
những yếu tố nào?
(Tác giả dựa vào các yếu tố căn bản sau để xác
định chủ quyền dân tộc: văn hiến lâu đời, cương
vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng chế
độ riêng -> Quan niệm hoàn chỉnh về Quốc gia
dân tộc)
xâm lược
2. Tám câu tiếp
- “Nhà nước … cũng khác”:
Khẳng định tính chất hiển
nhiên, vốn có lâu đời của
nước Đại Việt độc lập, tự
chủ.
- “Từ Triệu…một phương”:
+ Cặp câu sóng đôi, bút
pháp liệt kê, đối chiếu,
so sánh
+ Khẳng định chủ quyền
dân tộc
- Trong lịch sử văn học dân tộc có văn bản nào
tương tự văn bản này?
- Có ý kiến cho rằng: ý thức dân tộc ở đoạn trích
Nước Đại Việt ta là sự tiếp nối ý thức dân tộc của
Nam quốc sơn hà, con có đống ý với ý kiến đó
không?
- GV treo bảng phụ ghi bài Nam quốc sơn hà , gợi
ý cho HS trao đổi trả lời: Hãy tìm xem những yếu
tố nào đã được nói đến trong bài Nam quốc sơn hà
và yếu tố nào được bổ sung trong Nước Đại Việt
ta?
- Tác giả đưa ra những dẫn chứng lịch sử nào
trong đoạn trích này? (Lưu cung… tiêu vong)
- Nêu cảm nhận của em về việc tác giả lấy dẫn
chứng thực tiễn lịch sử đưa vào bài Cáo? Mục
đích của tác giả là gì?
(Đây là những dẫn chứng đầy thuyết phục, mục
đích là để chứng minh cho sức mạnh của nhân
nghĩa, của chính nghĩa đồng thời thể hiện niềm tự
hào dân tộc)
- Qua bài này, em hãy nêu nhận thức của em về
cách sử dụng dẫn chứng, lí lẽ trong bài văn nghị
luận?
(+ Cần kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng
+ Dẫn chứng phải xác thực, lí lẽ phải sắc bén
+ Việc sử dụng cách chuyển đoạn bằng từ ngữ
chuyển tiếp cho thấy phần trên và phần này có
mối quan hệ nhân quả, thể hiện sự lập luận chặt
chẽ của tác giả)
Hoạt động 3: HD HS tổng kết
- HS khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn
trích.
- GV gọi 1 HS đọc phần Ghi nhớ (SGK).
3. Sáu câu cuối
- Nêu rõ thất bại thảm hại
của quân xâm lược và chiến
thắng oanh liệt của ta.
- Khẳng định sức mạnh của
lòng nhân nghĩa, sức mạnh
của chân lí, của chính nghĩa
quốc gia dân tộc
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật: Lập luận
chặt chẽ, chứng cứ hùng
hồn, câu văn biền ngẫu,
biện pháp liệt kê, so sánh,
đối lập.
2. Nội dung: Đoạn trích
có ý nghĩa như một bản
Tuyên ngôn độc lập, khẳng
định chủ quyền của dân
tộc Việt Nam.
3. ý nghĩa văn bản
Nước Đại Việt ta thể hiện quan
niệm, tư tưởng tiến bộ của NTrãi về
Tổ Quốc, đất nước và có ý a như
nghĩa như bản tuyên ngôn độc
lập
4. Hướng dẫn tự học
- Học thuộc đoạn trích và nắm vững nội dung nghệ thuật.
- Đọc, viết bài giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm,
làm rõ Bình Ngô đại cáo là áng văn chương tràn đầy lòng tự hào dân tộc.
- Chuẩn bị bài: Hành động nói
Kết quả:
Lớp
Số
học
sinh
Hiểu bài tốt Hiểu bài khá Có hiểu bài Chưa hiểu bài
SL % SL % SL % SL %
8A 31 6 19.4 10 32.3 12 38.7 3 9.6
8B 26 3 11.5 11 42.3 9 34.6 3 11.5
III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
a. Kết luận
Qua thực tế giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy học sinh đã tập trung hơn
vào giờ học môn Văn phần văn học trung đại, các em có sự hứng thú hơn, nhất là
khi được giáo viên phân tích các điển tích, điển cố, các từ ngữ có giá trị tạo hình,
các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Tỉ lệ học sinh phát biểu ý kiến xây dựng bài
nhiều hơn, giờ học cũng vì thế mà đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, tỉ lệ học sinh
làm bài kiểm tra phần Văn học trung đại đạt kết quả từ trung bình trở lên cao hơn
b. Đề xuất:
Đề tài: Một số kinh nghiệm dạy từ ngữ trong tác phẩm Văn học trung đại
Việt Nam ở trường THCS mới chỉ được áp dụng ở trường THCS Cán Khê mà bản
thân tôi tham gia giảng dạy cho nên tôi chưa thấy rõ được hiệu quả của đề tài được
nhiều. Trong quá trình giảng dạy, tài liệu tham khảo cho bản thân giáo viên và học
sinh rất hạn chế mong nhà trường và các cấp nên có kế hoạch bổ sung thêm sách
nghiên cứu tham khảo về môn Ngữ Văn, nhất là sách tham khảo về phần Văn học
trung đại.
Trong phạm vi hạn hẹp của SKKN rất mong nhận được sự trao đổi góp ý của
các bạn đồng nghiệp, xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Như Thanh, ngày 20 Tháng 3 năm 2014
CAM KẾT KHÔNG COPPY SAO CHÉP
Lê Thanh Hưng