A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách. Từ Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đã xác định việc đầu tư cho giáo dục cũng có nghĩa là đầu
tư cho sự phát triển bền vững, là đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng cao
nhằm đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy, công tác
đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức giữ
một vị trí rất quan trọng. Đây chính là yếu tố then chốt, mang tính quyết định
đưa đất nước đi lên như cha ông ta đã từng nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy’’. Để thổi
bùng lên không khí: dạy thật, học thật, thi thật và thực hiện thật tốt cuộc vận
động “ Hai không”, cũng như các cuộc vận động và phong trào thi đua khác của
Đảng, của ngành phát động. Điều đó đều nhờ vào tài đức và tâm huyết của
những người thầy. Mỗi nhà trường, mỗi nhà giáo đều có chung một quyết tâm,
có chung bầu nhiệt huyết và tất thảy cùng toàn tâm, toàn trí để hoàn thành tốt
thiên chức “ trồng người” của mình. Trong đó, Hiệu trưởng và cán bộ quản lý
giáo dục chính là người cầm lái con thuyền chất lượng giáo dục trong các nhà
trường. Hiệu trưởng là người gánh vác trọng trách lớn lao, lãnh đạo quản lí
trường học, chịu trách nhiệm cao nhất về GD&ĐT trước tập thể sư phạm, trước
cấp trên, phụ huynh, học sinh và cả dư luận xã hội. Đồng thời sẽ là người đưa
nhà trường của mình đi đến đài vinh quang hay không?
Thực trạng chung của nền giáo dục Việt Nam hiện nay là bên cạnh những
thành tựu đã đạt được còn khá nhiều điều bất cập, trong đó tồn tại lớn nhất tập
trung vào chất lượng đào tạo chưa cao. Phương pháp giảng dạy là một trong
những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Một
phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để người dạy và
người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến
thức và phát triển tư duy. Một phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm thay đổi
vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của
người học.
1
Từ thực tế cho thấy để nâng cao chất lượng đào tạo ở các bậc học và ngay từ
bậc Tiểu học, việc đổi mới phương pháp giảng dạy đối với các cấp học của nước
ta là việc làm cấp thiết và cần tiến hành một cách đồng bộ. Đổi mới phương
pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị
quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm tăng khả năng mà thực ra là
yêu cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới
của người thày trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của học sinh, mài sắc thêm
năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và
khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải
có những tài liệu dạy-học mới. Những tài liệu này phải gắn với các phương
pháp kiểm tra mới nhằm khuyến khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng
hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học sinh.
Nhìn rộng ra các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới, họ đặc
biệt quan tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và
khả năng làm việc theo nhóm của người học. Các quốc gia này áp dụng nhiều
phương pháp khác nhau nhằm khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để người học
phát triển khả năng sáng tạo của mình. Nhiều trong số các phương pháp, chúng
ta có thể học tập và áp dụng cho Việt Nam ngay cả ở những trường, đơn vị còn
khó khăn và cả trường miền xuôi cũng như miền núi.
Ví dụ: Phương pháp học theo dự án (Project Based Learning)
Phương pháp người học là trung tâm (Learner - Centered)
Phương pháp Kỹ thuật tạo ra ý tưởng (Brainstorming).
Phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Và “Mô hình trường học mới Việt Nam”( VNEN)
Gọi là mô hình trường học mới là bởi sẽ chuyển đổi hình thức giảng dạy
truyền thụ từ phía thầy giáo sang việc để cho học sinh tự học là chính. Việc thí
điểm được thực hiện ở ba môn Tiếng Việt, Toán và Tự nhiên-xã hội. Chương
trình của ba môn này vẫn giữ nguyên; chỉ có tài liệu dạy và học được biên soạn
lại theo nội dung của sách giáo khoa và yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng
hiện hành. Cái khác trước là tài liệu được biên soạn cho từng bài theo ba hoạt
2
động: hoạt động cơ bản, hoạt động thực hành và hoạt động ứng dụng. Trong
từng hoạt động, tài liệu đã thiết kế theo nhiều kiểu (hoạt động cá nhân, hoạt
động đôi, hoạt động nhóm ba người trở lên) tùy theo từng bộ môn, từng bài học.
Đặc biệt, tài liệu đã sắp xếp “ba trong một”, nghĩa là sách giáo khoa, sách giáo
viên và sách hướng dẫn học sinh tự học gộp làm một cuốn. Với tài liệu này,
ngoài học sinh và giáo viên, cha mẹ học sinh cũng có thể dùng để hướng dẫn
cho con em mình học tập. Điều quan trọng hơn cả là khi sử dụng tài liệu này,
mặc nhiên giáo viên phải thay đổi hoàn toàn cách dạy, học sinh phải thay đổi
hoàn toàn cách học – cách tiếp thu nội dung bài giảng.
Bản thân là một Hiệu trưởng, nhà quản lí mà ngay từ những buổi đầu tiên
tiếp cận đã từng gắn bó, từng trăn trở và theo sát chương trình, theo sát học trò –
trường lớp của mình, tôi nhận thấy rõ: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm theo
mô hình trường học mới thực sự phát huy tối đa khả năng tự học của học sinh.
Dù còn rất mới và còn nhiều bỡ ngỡ, khó khăn nhưng chúng tôi rất phấn khởi
khi được tham gia thử nghiệm chương trình. Đây quả là một mô hình dạy học
mới mà bản thân cũng như đội ngũ giáo viên trường chúng tôi rất tâm đắc và
chúng tôi luôn sẵn sàng dành hết tâm sức, trí tuệ của mình cho sự đổi mới hiệu
quả này của giáo dục tiểu học, tất cả vì học sinh thân yêu. Để tạo thuận lợi cho
việc thử nghiệm thành công, chúng tôi tha thiết mong muốn các bậc phụ huynh
học sinh cùng với cộng đồng hãy vào cuộc với nhà trường, hãy cùng với chúng
tôi, với giáo viên, học sinh để việc dạy học theo mô hình mới đạt hiệu quả cao
và sớm được nhân rộng tại tỉnh Thanh.
3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng:
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong tiếp cận giáo dục tiểu
học. Tuy nhiên, thách thức chính trong việc tăng cường chất lượng dạy và học
thì vẫn còn tồn tại. Để giải quyết thách thức này, Chính phủ Việt Nam đang thực
hiện nhiều cải cách trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, bao gồm việc áp dụng mô
hình giáo dục tiên tiến từ Colombia. UNESCO đánh giá mô hình Trường học
mới của Colombia là mô hình giáo dục tiểu học tốt nhất ở khu vực nông thôn
Mỹ Latin. Đây cũng được coi là một trong những mô hình giáo dục sáng tạo
nhất của thế kỷ 21.
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000,
theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Điểm nổi bật của mô hình này là đổi
mới các hoạt động sư phạm, đó là hệ thống tài liệu dạy học, đổi mới phương
pháp học, phương pháp giáo dục học sinh. Mô hình trường học kiểu mới này
thay đổi hoàn toàn cách dạy và học truyền thống: thầy giảng, trò nghe bằng
phương pháp dạy học tích cực, trò là người chủ động tiếp thu lĩnh hội các tri
thức, thầy đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn. Học sinh được sử dụng tài
liệu học tập mượn từ thư viện nhà trường, tiến tới các em được học và thể hiện
mình trong một môi trường học tập thân thiện, hiện đại, có thư viện, máy móc,
đồ dùng học tập và trang trí vui mắt phù hợp lứa tuổi các em.
Tại tỉnh Thanh Hóa, tháng 7/2012, Sở GD&ĐT đã tiến hành triển khai tập
huấn mô hình trường học mới cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy lớp 2,
lớp 3 và giáo viên bộ môn Âm nhạc, Mỹ thuật ở các trường Tiểu học được chọn
thực hiện thí điểm. Trong đợt tập huấn, giáo viên được nghiên cứu, trao đổi tìm
hiểu cấu trúc của mô hình, nội dung của tài liệu, cách tổ chức lớp học theo
phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, tức là học sinh tự giác, tự quản, tự
trọng, tự tin, tự học, tự đánh giá và hợp tác; giáo viên thực hiện vai trò là người
giám sát, hỗ trợ. Giáo viên phải nắm vững 5 bước giảng dạy: Tạo hứng thú cho
học sinh, tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích - khám phá - rút ra kiến
thức, thực hành - củng cố bài học, ứng dụng và cùng học sinh thành thạo 10
4
bước học tập. Với trường chúng tôi, ngay từ đầu năm học chúng tôi đã tổ chức
tập huấn VNEN cấp trường cho Ban giám hiệu và tất cả giáo viên dạy lớp 2 và
lớp 3 cũng như giáo viên toàn trường một cách qui lát và hiệu quả nhất. Đồng
thời nhà trường đã tiến hành tổ chức đầu tư kinh phí chuyên môn để bổ sung về
CSVC, đồ dùng học tập, rồi thực hiện công đoạn trang trí lớp học, mua sắm một
số trang thiết bị phục vụ dạy và học của chương trình, vận động phụ huynh và
giáo viên đầu tư trong các khâu trang trí, trưng bày đồ dùng, sách vở trong lớp,
đồng loạt và nhanh chóng hoàn tất nhanh việc trang trí và ổn định tổ chức lớp
cuối tháng 8, xây dựng môi trường lớp học theo đúng tinh thần chỉ đạo của mô
hình VNEN. Ngoài các tiêu chí cứng đã đặt ra trong yêu cầu như: thành lập Hội
đồng tự quản, hộp thư dành cho những điều em muốn nói, hộp thư góp ý còn
có trang trí sáng tạo thêm các vị trí dành cho học tập, rèn luyện của học sinh,
gồm các góc: thư viện, toán, tiếng Việt, cộng đồng Cách thức tổ chức lớp học
cũng có khác so với lớp học truyền thống. Mỗi lớp học là một hội đồng tự quản,
chia ra các ban tự quản về học tập, sức khỏe, văn nghệ
5
Nm hc 2012-2013, trng Tiu hc Lam Sn ang thc hin thớ im 8
lp ca khi 2 - 3 (mi khi 4 lp); vi cỏc lp khỏc chỳng tụi cng
khuyn khớch cụ trũ tip cn, vn dng theo mụ hỡnh v phng phỏp dy
hc ny vỡ ó thy c nhng u im ca nú; Riờng trang trớ lp theo mụ
hỡnh ny thỡ Tụi tin rng mi ch trng tụi t chc thc hin ng lot c
trng (22 lp): Chỳng tụi t chc cuc thi trang trớ lp theo mụ hỡnh
VNEN v kộo theo s nhp cuc ca ph huynh cỏc lp (ph huynh n
trng ct, dỏn trang trớ cựng cụ trũ v tham gia Ban giỏm kho chm
im, chn gii. Tuy cũn rt mi v rt sm núi li nhn xột nhng thc
t ch sau mt hc k trin khai, mụ hỡnh VNEN ó thc s to c nhng
thay i tớch cc trong hot ng dy v hc di mỏi trng tiu hc Lam
Sn ny. n nay, cỏc lp hc VNEN ca trng chỳng tụi ó thc s i
vo n np hot ng cú hiu qu.
II. Gii phỏp thc hin:
Sau khi nghiờn cu cỏc vn bn ch o, hng dn ca B v ca S
GD&T t chc d ỏn th nghim mụ hỡnh Trng hc mi Vit Nam. Nh
trng chỳng tụi ó t chc theo mt qui trỡnh sau: Ra quyt nh thnh lp Ban
Ch o cp trng v qun lớ chng trỡnh th nghim ny ngay t u nm
hc 2012 2013. Tuy nhiờn, do cũn mi bt u nờn t nm hc ny chỳng tụi
xõy dng cú k hoch chi tit sỏt thc t v trin khai cú hiu qu thit thc tng
vic trong cỏc yờu cu ca mụ hỡnh. Di õy l cỏc bin phỏp c thc hin:
1. Kho sỏt thc trng v chun b CSVC-TTB ti trng:
Chúng tôi đã t chc kho sỏt, ỏnh giỏ thc trng ca trng (i ng,
CSVC, TTB, iu kin khỏc,) bỏm theo cỏc mc tiờu, yờu cu v nhng ni
dung ca chng trỡnh. Vic kho sỏt ny giỳp cho BC thy rừ tỡnh hỡnh, iu
kin ca mỡnh khi tham gia d ỏn. Kt qu kho sỏt l cn c giỳp chúng tôi
ra k hoch xõy dng v trin khai tng vic ra sao (nh trng, cỏc phũng hc
ó cú nhng gỡ, cũn thiu v cn nhng gỡ trc nht,). Cựng vi k hoch di
hn, ngn hn y, Ban chỉ đạo, các trởng đoàn thể nhà trng v hai khi trng
6
tổ chức khảo sát giáo viên và học sinh giúp BGH xây dựng lộ trình và điều kiện
triển khai thực hiện thí điểm mang tính khả thi nhất ngay từ bước đầu.
2. Tổ chức quán triệt chủ trương và phối hợp thực hiện: Sau khi thành
lập Ban chỉ đạo, BCĐ đã thống nhất cao trong việc xây dựng kế hoạch thực
hiện chương trình và thời gian biểu triển khai thí điểm, chóng t«i đã đồng thời
tổ chức 3 cuộc họp để tuyên truyền và đặt yêu cầu phối hợp thực hiện, đó là:
a) Cuộc họp với lãnh đạo Đảng ủy, UBND, MTTQ và các đoàn thể trong Thị
trấn như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Khuyến học và
Ban Đại diện cha mẹ học sinh nhµ trường nhằm tuyên truyền sâu rộng mô hình.
Tại cuộc họp này, chóng t«i đã giới thiệu các văn bản của Bộ Giáo dục –
Đào tạo, Kế hoạch của Bộ GD-ĐT, và của Sở GD&ĐT, kế hoạch xây dựng của
nhµ trường năm học vµ kÕ ho¹ch dµi h¹n. Do đó đã tranh thủ được sự lãnh đạo
của cấp ủy, chính quyền địa phương để tuyên truyền sâu rộng chủ trương này
đến các lực lượng xã hội. Ban đại diện Hội cha mẹ học sinh nhµ trường đã đề ra
chủ trương vận động phụ huynh xây dựng gia đình thân thiện gắn bó hơn với
nhà trường, có sự phối hợp chặt chẽ hơn. Cũng tại cuộc họp, Ban đại diện cha
mẹ học sinh đã đề nghị UBND thị trấn cho phép mở rộng khuôn viên trường,
làm bồn hoa và nâng cấp sân trường, tường rào, cổng trường trong năm học.
b). Tæ chøc cuộc họp với các đoàn thể và giáo viên trong nhµ trường để
quán triệt và tiếp tục làm tốt kế hoạch xây dựng THTT- HSTC để hiệu quả của
phong trào cùng đồng hành với mô hình dạy học mới (nó có sự hỗ trợ tương tác
lẫn nhau). Chúng tôi đã tập trung thảo luận các giải pháp thực hiện các nội
dung của trường học thân thiện. Trường còn thông báo kết quả khảo sát giáo
viên và học sinh; tình hình về CSVC,TTB, các điều kiện cần và đủ trước khi
triển khai thực hiện chương trình thí điểm. Bởi các việc làm trên chính là
những yếu tố căn bản và rất sát thực với các yêu cầu của chương trình thí điểm.
c) Chóng t«i cßn tæ chøc cuộc họp các tổ khối trưởng chuyên môn, ngoài
việc thảo luận về chương trình hiện hành, còn nhằm xây dựng chuyên đề“thân
thiện trong giảng dạy và trong công tác chủ nhiệm ” để thực hiện tốt “dạy và
7
học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi lớp và ở cả
2 chương trình, giúp các em tự tin trong học tập”.
3. Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ của hiệu trưởng, giáo viên:
Ở bậc Tiểu học nói riêng, trong thời gian diễn ra cuộc cải cách quyết liệt về
thay đổi tiếp cận chương trình sách giáo khoa, liền sau đó là tổ chức triển khai
lồng ghép các cuộc vận động lớn của Đảng, của Ngành. Cộng với một số yêu
cầu đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện ở từng địa phương, nhà trường, có
thể nói áp lực công việc cho từng giáo viên tiểu học là rất lớn, mỗi năm học đến
lại có thêm những yêu cầu mới, chưa nói đến vấn đề giáo viên muốn phấn đấu
trở thành giáo viên giỏi, có học sinh giỏi,… thì đòi hỏi về phẩm chất năng lực
chuyên môn nghiệp vụ, sự hỗ trợ từ phía lãnh đạo nhà trường, tập thể giáo viên
và học sinh, kể cả gia đình. Người giáo viên phải vượt lên không ít khó khăn mà
chỉ bản thân họ mới làm được. Với những yêu cầu cấp bách về chuyên môn
nghiệp vụ, người giáo viên còn phải mẫu mực về đạo đức, phải tự học không
ngừng và sáng tạo trong soạn giảng để tâm hồn sáng trong không toan tính hơn
thiệt khi phải hy sinh nhiều thời gian, công sức trí tuệ cho nhà trường với đồng
lương còn ít ỏi, giá cả thị trường không tương xứng với mức thu nhập của mình,
người giáo viên phải có bản lĩnh và lương tâm nghề nghiệp để vượt qua.
Với mô hình giáo dục tiên tiến này thì đòi hỏi giáo viên phải chủ động tự học,
tự tìm tòi, bồi dưỡng. Giáo viên dạy học theo mô hình trường học mới phải là
người có tâm huyết, có khả năng xem xét, đánh giá và mạnh dạn điều chỉnh
những nội dung chuyên môn cũng như trong hoạt động sư phạm được thiết kế
trong tài liệu Hướng dẫn học tập. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ để hiểu mục tiêu
và ý tưởng của tài liệu; trao đổi những băn khoăn hoặc sáng kiến, kinh nghiệm
với đồng nghiệp; theo dõi lắng nghe những phản hồi từ phía học sinh; phối hợp
chặt chẽ để hiểu rõ nhu cầu của gia đình và cộng đồng; chuẩn bị phương án linh
hoạt, chủ động điều hành hoạt động lớp học. Còn học sinh thì tự học, tự quản lý,
tự đánh giá thể hiện qua hình thức học nhóm theo 10 bước học tập của mình.
Chính yêu cầu này đặt ra cho cả giáo viên và học sinh cần có sự điều chỉnh, thay
8
đổi trong cách dạy và học nhằm thích ứng một cách nhanh nhất để chất lượng
học tập ngày càng đạt hiệu quả cao đáp ứng với mục tiêu của dự án.
* Một số vấn đề nhà trường chủ động điều chỉnh khi thực hiện mô hình:
Việc triển khai thí điểm mô hình giáo dục mới chúng tôi đang thực hiện ở ba
môn Toán, Tiếng Việt và Tự nhiên - Xã hội như qui định. Tài liệu của 3 môn
học này được sử dụng thay sách giáo khoa, sách giáo viên và vở bài tập hiện
hành theo thiết kế ba trong một. Về nội dung thì chương trình vẫn được giữ
nguyên, duy chỉ có điểm khác biệt rõ nét giữa tài liệu hiện hành và sách giáo
khoa cũ đó là tài liệu hướng dẫn cụ thể về nội dung học tập và các yêu cầu được
ghi một cách rõ ràng, chi tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên thay đổi
phương pháp giảng dạy và học sinh thay đổi phương pháp học tập. Một bài học
theo thiết kế của mô hình giáo dục mới bao gồm: Hoạt động cơ bản, hoạt động
thực hành và hoạt động ứng dụng. Tùy từng môn học cụ thể mà tài liệu sẽ có sự
thiết kế phù hợp như hoạt động cá nhân, hoạt động đôi hoặc hoạt động theo
nhóm 3, 4 hoặc 5 người.
9
Một điểm mới nổi bật và khác biệt nữa của mô hình giáo dục mới đó là hình
thức tổ chức lớp học có nhiều thay đổi căn bản: Ban cán sự lớp được thay thế
bằng Hội đồng tự quản do tập thể lớp bầu ra. Hội đồng tự quản gồm có Chủ tịch,
hai Phó Chủ tịch phụ trách các nhóm để làm quen với phương pháp tự học, tự
làm việc. Các nhóm học tập sẽ được bầu nhóm trưởng riêng. Việc này trường tôi
cũng yêu cầu giáo viên và giúp họ thực hiện ngay từ đầu: thời gian đầu học sinh
nào có năng lực tốt nhất sẽ được bầu làm nhóm trưởng nhưng sau một thời gian
thích ứng thì vị trí này chúng tôi đã phân công luân phiên giữa các thành viên
trong nhóm cụ thể với các lớp (tạo cơ hội cho nhiều học sinh).
Hai năm học vừa qua trường chúng tôi đã thực hiện tốt khâu trang trí lớp theo
tiêu chí trường học thân thiện, vậy nên để áp dụng cho dạy mô hình này càng
gặp thuận lợi, giáo viên chỉ tập trung cho các yêu cầu cơ bản mà mô hình đề ra
có thêm phần sáng tạo của riêng mình. Bản thân tôi đã dành thời gian tham
khảo, tư duy theo phương diện các phòng học của nhà trường để đặt ra một số
yêu cầu và gợi ý riêng, tôi khuyến sự sáng tạo của họ và ngay những đêm đầu
tiên giáo viên-phụ huynh đến thực hiện công việc này luôn có mặt tôi, cả 8 lớp
đều có một phần ý tưởng sáng tạo riêng tôi dành cho họ cũng như có một phần
10
nhỏ bàn tay tôi cắt-dán để động viên tinh thần. Có thêm mô hình này, không
gian lớp học cũng được bố trí lại cho phù hợp và lớp học trông càng sinh động
hơn. Lớp học của chúng tôi cũng thường xuyên học nhóm ở nhiều tiết nên vấn
đề mới là ngồi và học theo nhóm không có gì khó khăn, có khác hơn là ở giữa
bàn của mỗi nhóm sẽ có một thẻ “cứu trợ” được sử dụng khi cả nhóm có điều
thắc mắc mà chưa thể giải đáp và cần đến sự giúp đỡ của các thầy cô giáo. Cùng
với đó, không gian trong mỗi lớp học tăng thêm phần sinh động, hấp dẫn khi có
sự góp mặt thêm góc Toán, góc Tiếng Việt, góc Tự nhiên - Xã hội, 10 bước học
tập để các em thực hiện, góc cộng đồng, hộp thư ý kiến của bạn, góc trưng bày
sản phẩm, một số đồ dùng hoặc mô hình trang trí phù hợp và bổ ích khác…
Đồng thời với việc tham gia rất sát công việc trang trí lớp, mua sắm, sắp xếp
các phòng học, bình chọn, tập dượt cho Hội đồng tự quản cùng với giáo viên.
Tôi đặc biệt quan tâm và chú ý tới khâu dự giờ thăm lớp thường xuyên để giúp
họ tháo gỡ những vướng mắc ban đầu. Vì thế tôi thống nhất với chuyên môn có
một số cách chỉ đạo và định hướng khắc phục tạm thời như: Cho phép giáo viên
trên cơ sở học sinh và thực tế trường lớp để quyết định đưa ra những điều chỉnh
trong quá trình thực hiện như: đặc điểm sinh lý học sinh, năng lực học tập của
học sinh, kinh nghiệm, năng lực sư phạm của giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất
của trường lớp, nhu cầu cộng đồng (phụ huynh). Trên cơ sở đó, để:
1. Thống nhất tăng cường thời lượng cho 1 tiết dạy ở thời gian đầu:
Tài liệu hướng dẫn học tập cho học sinh được thiết kế dưới dạng các hoạt
động học nhằm tạo điều kiện cho các em tự học dưới sự hướng dẫn của giáo
viên và sự hỗ trợ của các bạn trong nhóm. Thời gian đầu, khả năng đọc hiểu của
các em lớp 2 còn hạn chế, các em chưa quen với cách học mới nên thời gian
thực tế cho một tiết học cần tăng cường nhiều hơn một tiết. Do vậy yêu cầu tổ
trưởng chuyên môn cùng với giáo viên dạy nắm vững để đề xuất và tôi đã quyết
định tăng thời lượng dạy học cho từng bài học, môn học trong tuần cho phù hợp
với đối tượng học sinh và thực tế địa phương mình nhằm đảm bảo chuẩn kiến
thức kỹ năng cho từng giai đoạn học tập. Thời gian được lấy thêm vào buổi thứ
2.
11
2. Hướng dẫn GV phân phối nội dung cho 1 tiết học, bài học.
Về sách Hướng dẫn học: Để thuận tiện cho học sinh học tập, sách Hướng dẫn
học môn Toán, môn Tiếng Việt được in thành 4 tập (mỗi học kì có 2 tập). Sách
Hướng dẫn học môn Tự nhiên và xã hội lớp 2 in thành 1 tập (cả năm có 1 tập).
Sách hướng dẫn học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 được in thành 2 tập (mỗi kì
học có 1 tập). Các bài dạy trong sách giáo khoa trước đây được thiết kế cho mỗi
bài 1 tiết. Các bài dạy trong sách Hướng dẫn học được nhóm lại theo mạch nội
dung kiến thức, mỗi bài từ 2 đến 3 tiết, một số bài ôn tập, kiểm tra 1 tiết. Bởi
việc phân bố nội dung cho các tiết học trong bài giao quyền chủ động cho giáo
viên, cho khối trưởng chuyên môn và Ban giám hiệu nhà trường. Nên để giảm
áp lực cho học sinh và giáo viên trong thời gian đầu làm quen với phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học mới, chúng ta nên chủ động bố trí thời khóa biểu
cho những tuần đầu tiên trên cơ sở tăng cường các hoạt động giáo dục và giãn
chương trình môn Toán, Tiếng Việt. Như vậy, tài liệu Hướng dẫn học môn
Toán, Tiếng Việt tập 1A từ 9 tuần học có thể giãn thành 12 - 13 tuần học theo
cách sau:
- Mỗi tuần bố trí học 6 tiết Tiếng Việt, 3 tiết Toán.
- Tăng tiết học trong tuần cho các môn học: Tự nhiên-Xã hội, Đạo đức, Hát
nhạc, Mỹ Thuật, Thể dục, Thủ công, tùy theo bố trí tăng tiết của mỗi trường.
Hiệu trưởng cần thống nhất trong chỉ đạo để thiết kế thời khóa biểu riêng
cho các lớp VNEN. Các môn Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên – Xã hội theo sách
hướng dẫn học. Nên bố trí mỗi môn học từ 1 đến 2 tiết vào buổi sáng (không bố
trí 3 tiết học liền nhau cho 1 môn học). Các môn học còn lại nên bố trí vào buổi
2 và tổ chức dạy học theo cách tổ chức hoạt động học được biên soạn như 3 môn
học có tài liệu VNEN(Theo HD của mô hình). Thời lượng học các môn học còn
lại cũng nên điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế của trường mình.
3. Chỉ đạo GV chuẩn bị phương án lên lớp và đồ dùng dạy học:
Tài liệu hướng dẫn học tập của chương trình này cũng chính là tài liệu
Hướng dẫn giảng dạy của giáo viên. Giáo viên không cần có bài soạn như khi
dạy với quyển sách giáo khoa hiện hành. Song giáo viên cần nghiên cứu kỹ các
12
hoạt động dạy học được thiết kế trong tài liệu để tổ chức hoạt động dạy học phù
hợp với trình độ học sinh và điều kiện lớp học. Có thể thay đổi câu hỏi, làm
thêm những đồ dùng dạy học và điều chỉnh hoạt động phù hợp với học sinh.
4. Giúp GV điều chỉnh nội dung, hình thức tổ chức các Hoạt động học tập.
Về cơ bản, nội dung các bài học trong sách hướng dẫn là nội dung các bài học
trong sách giáo khoa. Tuy đã có sự lựa chọn, điều chỉnh nội dung cho phù hợp
với đối tượng học sinh vùng khó khăn trong quá trình đạt chuẩn kiến thức kỹ
năng. Song cũng thể phù hợp với đối tượng từng lớp, trường cụ thể được, vì vậy
Tôi mạnh dạn chỉ đạo chuyên môn và giáo viên với mỗi bài cụ thể, căn cứ vào
trình độ học sinh của mình, giáo viên cân nhắc điều chỉnh số lượng bài tập, thay
đổi câu hỏi cho ngắn gọn, đơn giản hơn. Như vậy, cũng là cơ hội để yêu cầu mỗi
giáo viên phải nắm được trình độ cụ thể của học sinh, hiểu được các yêu cầu, chỉ
dẫn hoạt động của sách kịp thời có những thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Mỗi
hoạt động trong tài liệu có chỉ dẫn về hình thức hoạt động: cá nhân, cặp đôi,
nhóm, cả lớp. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ cách tổ chức các hoạt động này để
có sự hỗ trợ các em kịp thời trong khi thực hiện các hoạt động, có thể thay đổi
các hình thức hoạt động căn cứ vào trình độ học sinh, điều kiện đồ dùng dạy học
lớp học và độ khó của từng yêu cầu bài tập.
Bản chất cách dạy học của VNEN là tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức
thông qua quá trình HS tự tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh các kiến thức và kỹ
năng mới . Vì vậy dạy học theo VNEN chuyển trọng tâm đánh giá sang đánh giá
quá trình học của học sinh. Mỗi học sinh được nhận một nhiệm vụ và mục tiêu
học tập cụ thể nhưng có thể tự điều chỉnh hoạt động của mình phù hợp với nhịp
độ tiếp thu của bản thân. Với quá trình dạy học như vậy, phải đổi mới cách đánh
giá kết quả học tập (KQHT) của học sinh. Chuyển đánh giá “ bằng điểm số”
sang đánh giá “bằng nhận xét”, bằng việc đo “tiến độ”, đo “ hiệu quả công việc
và năng lực thực hành của học sinh”. ĐGKQHT coi trọng và khuyến khích học
sinh “tự đánh giá”. Đánh giá theo “nhóm tự quản” theo cặp, theo nhóm.
13
PHẦN C. KẾT LUẬN
1. Những nhận xét chung về mô hình dạy học mới:
- Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1, điều đó rất thuận
tiện cho giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy và học của mình trên lớp.
- Đa số kênh hình và kênh chữ rõ ràng, dễ hiểu giúp học sinh tiếp cận bài
học một cách dễ dàng. Sau mỗi bài tập đọc có hệ thống câu hỏi trắc nghiệm giúp
học sinh dễ dàng tìm hiểu nội dung của bài học (các em tự rút ra kết luận).
- Học tập theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo,
tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với phương pháp dạy học
mới, giúp các em phát huy tốt các kĩ năng: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ
năng tự đánh giá lẫn nhau trong từng giờ học, trong từng môn học của lớp mình.
- Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các kí hiệu của từng hoạt động:
HĐ cá nhân, HĐ cặp đôi, HĐ nhóm, HĐ chung cả lớp, HĐ với cộng đồng.
- Tạo điều kiện đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học và các hình thức dạy
học trên cơ sở tổ chức các hoạt động phát huy tính tích cực, chủ động, khả năng
tự học của học sinh. Tăng khả năng thực hành, vận dụng, chú ý tính tích hợp
với hoạt động phát triển ngôn ngữ của học sinh thông qua các hoạt động học tập.
- Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời
sống hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học
sinh, của cộng đồng thông qua hoạt động ứng dụng của mỗi bài. Và khuyến
khích học sinh tích luỹ kiến thức qua gia đình, cộng đồng, rèn cho các em kĩ
năng giải quyết các vấn đề, các vấn đề coi như là khó khăn của chính bản thân.
- Nhờ sự thay đổi cách thức thiết kế về kênh hình và kênh chữ màu sắc bắt
mắt khiến học sinh có hứng thú trong học tập. Bên cạnh đó mỗi bài học được
thiết kế theo cấu trúc của 10 bước học tập để học sinh phát hiện mình đã học
được đến đâu và cần học lại phần nào thông qua phiếu tự đánh giá, nhận xét.
Bên cạnh đó bài học còn được thiết kế theo kiểu cấu trúc:
(1)Tạo hứng thú (2)Trải nghiệm (3)Phân tích- khám phá- rút ra bài
học (4)Thực hành – củng cố (5)Ứng dụng
14
2. Một số kết quả ban đầu của nhà trường:
Trường chúng tôi có những thuận lợi và khó khăn khác với các trường tham
gia mô hình này. Phần lớn là học sinh con em cán bộ, công nhân nhà máy và gia
đình buôn bán nên phần nào cũng năng động hơn và tiếp cận vấn đề mới cũng
thuận lợi hơn. Do đó, những ngày đầu năm học 2012 - 2013, chúng tôi đã cùng
giáo viên 8 lớp nhanh chóng ổn định tổ chức và tạo ngay bầu không khí học tập
mới sôi nổi, dù còn nhiều bỡ ngỡ với các em nhưng khi có chúng tôi vào thăm
và dự những tiết học của các lớp 2, 3. Bất kì vào với lớp nào, khi được giới thiệu
có BGH, cả lớp nhanh chóng đứng dậy đồng thanh hô chào rất lễ phép; các em
là chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng tự quản của lớp tự tin giới thiệu về lớp học
của mình: Lớp của em có bao nhiêu bạn này, em là giữ chức vụ chủ tịch hội
đồng, lớp em có bảng thi đua học tập, vườn hoa điểm tốt, có hộp thư vui,… và
ai cũng cố gắng để có thật nhiều lời khen, nhiều bông hoa điểm tốt.
Mỗi khi quan sát các lớp học, dưới sự điều hành của nhóm trưởng, các
nhóm nghiêm túc học bài và hăng hái thảo luận mỗi khi có chủ đề đưa ra. Học
sinh nào cũng được làm việc, được hỏi và trả lời, được nhận xét. Do nội dung
đưa ra trong sách rất sinh động nhưng rất tường minh nên học sinh trường tôi
phát hiện khá nhanh, chủ động khám phá ít khi phải cần đến sự trợ giúp của cô
giáo. Đặc biệt, những học sinh khá, giỏi trong nhóm rất nhiệt tình khi hướng dẫn
bài cho các bạn học yếu, nên những học sinh có khả năng giao tiếp và đọc tiếng
Việt còn hạn chế trước đây các em rất nhút nhát, học chương trình này đã khác
hẳn. Trước đây, ngay cả những em học khá nhất thì mỗi tiết thao giảng hay có
khách tới thăm cũng đều chưa tự tin để trao đổi với bạn, đôi khi còn rụt rè khi
phát biểu xây dựng bài (tâm lí học sinh tiểu học hay e dè trước người lạ, hay sợ
cô hiệu trưởng nên càng mất tự tin khi có cô hiệu trưởng hoặc khách đến dự
giờ). Với Lam Sơn là thế mà nhờ dạy học theo mô hình VNEN đã tạo được
những thay đổi tích cực cho những học sinh đó nói riêng và đông đảo học sinh
nói chung. Dù chưa được nhiều lắm và cũng không thể tránh được những thiếu
sót, tồn tại nhưng mỗi khi có dịp được ngồi học cùng các em, thấy học sinh say
sưa thực hiện các bước học tập theo sự điều hành của nhóm trưởng, tôi cũng
15
muốn mình được học như các em trên những trang sách hấp dẫn ấy, và trong tôi
chỉ ước muốn được là giáo viên để giúp các em khám phá. Nhìn vào đó, Tôi có
một cảm nhận như học trò của mình khôn lớn lên rất nhiều, tại trường tiểu học
Lam Sơn, những lớp tiếp cận nhanh và xử lí tốt về hình thức học này chúng tôi
có cảm giác như trong lớp không có giáo viên đứng lớp vậy.
Để đánh giá chung về những kết quả đạt được sau một thời gian (năm học)
triển khai mô hình VNEN tại 8 lớp trường chúng tôi, Tôi có thể tự tin khẳng
định rằng: Chất lượng giáo dục của các lớp tham gia mô hình VNEN đang phát
huy hiệu quả rất tốt, học sinh đã có những chuyển biến tích cực. Môi trường lớp
học thân thiện, khoảng cách giữa học sinh được rút ngắn, các em có nhiều cơ hội
được chia sẻ, trao đổi giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Đặc biệt, học sinh ở 2 thôn
nông nghiệp và số em nhút nhát cũng hòa đồng nhanh hơn, tự tin, chủ động hơn
trong học tập và yêu thích cách dạy học mới này. Trường chúng tôi đã hướng tới
dạy và học thân thiện, tích cực (theo nội dung của phong trào thi đua xây dựng
THTT-HSTC), do vậy nên đến với hình thức học tập này rất thuận lợi,
nên chỉ trong một khoảng thời gian ngắn triển khai thí điểm mô hình “Trường
học mới Việt Nam” Nhưng chúng tôi có thể rất tự tin và vui mừng chia sẻ: Thời
gian đầu, do chưa đủ tài liệu và chưa quen với phương pháp giáo dục mới nên
giáo viên phải làm việc khá vất vả. Nhưng đến nay, nhờ thay đổi phương pháp
tổ chức và dạy học mà học sinh đã tiếp thu bài học nhẹ nhàng, thoải mái hơn.
Điều đặc biệt hơn nữa là các em đã được rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
ứng xử sau mỗi giờ học. Học sinh hứng thú tiếp nhận kiến thức, được làm việc
theo nhóm, được tự đánh giá và đánh giá bạn theo từng hoạt động nên đã tạo
được tinh thần tự giác cao. Phụ huynh cũng thấy rõ sự thay đổi, tiến bộ của con
em mình nên đã cùng chung tay góp sức trong việc trang trí lớp học cũng như
hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động ứng dụng. Có trực tiếp đến tham gia
vào giờ học của các học sinh khối 2, 3 ở đây mới cảm nhận rõ được sự thay đổi
tích cực mà mô hình dự án mang lại. Sự thích thú, hào hứng luôn hiện rõ trên
khuôn mặt của các em. Có một điều rất dễ nhận thấy đó là một số học sinh có
tính cách nhút nhát khi tham gia học nhóm như thế này, các em đã hoàn toàn trút
16
bỏ được sự tự ti và đã trở nên mạnh dạn, tự tin để thể hiện khả năng của bản
thân.“Những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu rồi cũng nhanh chóng qua đi khi chúng
tôi nhận được sự đồng thuận, hưởng ứng nhiệt tình từ phía phụ huynh học sinh.
Cả giáo viên và học sinh đều được hưởng lợi rất lớn từ mô hình giáo dục tiên
tiến này. Chúng tôi mong muốn mô hình “Trường học Việt Nam mới” sẽ còn
được nhân rộng hơn nữa trong thời gian tiếp theo”. Mặc dù trong thời gian tới,
quá trình triển khai, nhân rộng sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng với nỗ lực của
ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh nhà, cùng sự đồng thuận, hưởng ứng của giáo
viên, phụ huynh và toàn thể cộng đồng, chúng ta có quyền tin tưởng vào một sự
đổi mới tích cực và toàn diện trong lĩnh vực giáo dục đào tạo mà mô hình
“Trường học mới Việt Nam” mang lại.
Những chuyển biến trên là kết quả đáng mừng và cũng là bằng chứng khẳng
định tính tích cực mà mô hình VNEN đem lại, là kết quả của quá trình nỗ lực, cố
gắng rất lớn của đội ngũ nhà giáo, các trường và các giáo viên trực tiếp tham gia
dự án. Để khắc phục khó khăn ban đầu, chúng tôi phải lăn lộn cùng giáo viên
thời gian đầu về mọi phương diện và các giáo viên đứng lớp đã phải chủ động,
linh hoạt đưa ra những giải pháp phù hợp. Chính vì thế khi sinh hoạt chuyên
môn và học tập rút kinh nghiệm, Giáo viên của chúng tôi tham gia dạy học theo
mô hình VNEN đều khẳng định rằng: không thể ngay lập tức áp dụng phương
pháp dạy học mới, để mặc cho học sinh tự học, tự quản mà giáo viên phải có
những phương pháp giúp các em làm quen dần. Đầu tiên, phải thu hút được học
sinh, khơi dậy trong các em sự hứng thú, niềm đam mê bằng cách chia và đặt tên
nhóm, trang trí lớp học, xây dựng các biểu đồ, nội dung thi đua; giáo viên phải
hiểu rõ được trình độ, thậm chí là tính cách của mỗi học sinh và quan tâm, hỗ trợ
nhiều hơn cho những học sinh còn yếu. Năm học tới, chúng tôi cũng sẽ tăng
cường công tác khảo sát, tổ chức các hội thảo học tập, chia sẻ kinh nghiệm giữa
các trường để kịp thời khắc phục những khó khăn, phát huy hiệu quả tích cực
mà mô hình VNEN đem lại.
17
3. Bài học kinh nghiệm, đề xuất kiến nghị:
Trong điều kiện sống, môi trường công tác hiện nay và trước những yêu cầu,
đòi hỏi rất lớn, rất toàn diện của giáo dục Tiểu học, hơn lúc nào hết người hiệu
trưởng lại càng phải quan tâm hơn nữa đến các cá nhân trong tập thể, phải luôn
tự kiểm chứng bản thân mình qua hiệu quả công việc nhà trường để kịp thời sửa
chữa, điều chỉnh bản thân cũng như điều chỉnh công việc mình đang điều hành
chỉ đạo. Giá như ai cũng hiểu và thông cảm cho những nhà quản lí và giáo viên
bậc tiểu học trong giai đoạn làm việc này thì đó thật là món quà tinh thần quí giá
nhất ban tặng cho họ rồi. Bởi lẽ áp lực công việc lớn, yêu cầu chất lượng công
việc cũng không nhỏ. Quản lý và giáo viên khi đến với chương trình mới cũng
sẽ có những niềm vui và vất vả rất riêng của nó.
- Vậy nên, trước tiên là Hiệu trưởng muốn thành công trên mọi lĩnh vực, đặc
biệt là chuyên môn thì phải biết xây dựng một tập thể sư phạm vững mạnh mà
trong đó người Hiệu trưởng phải là “ Con chim đầu đàn”, phải là “linh hồn của
tập thể”. Phải có năng lực chỉ đạo giáo viên dạy tốt, học tốt, năng lực đánh giá,
tiếp nhận và xử lý thông tin. Với chương trình mới này: Hiệu trưởng phải là
người nhận thức sâu sắc nhất về chủ trương, đường lối và hiểu đúng bản chất
vấn đề, xác định đúng đắn mục tiêu yêu cầu của chương trình,…Tóm lại, hiệu
trưởng phải giỏi chuyên môn, phải có niềm say mê với chuyên môn nhất là tiếp
cận những vấn đề, những chương trình mới và thực sự đam mê nó, không nản
lòng với khó khăn, lăn lộn với cái khó ban đầu, có khả năng tiếp thu, truyền đạt,
tuyên truyền, vận động và có khả năng đánh giá đúng, phân định công việc và
dùng người vào nhiệm vụ mới phù hợp. Là người lãnh đạo tiên phong, truyền
được bầu nhiệt huyết cho giáo viên của mình, đem niềm say mê chương trình
mới đến với họ. Yêu quý đồng nghiệp, học sinh, luôn đồng hành cùng họ nhất là
thời gian đầu; Yêu trường như những người thân yêu nhất của mình, xem ngôi
trường như ngôi nhà của mình. Là Hiệu trưởng nói chung và trong thực hiện mô
hình dạy học mới phải là người vừa có “tâm” vừa có “tầm”, biết hy sinh mục
đích cá nhân, có tâm trong sáng và có tầm nhìn xa trông rộng và có bản lĩnh lãnh
đạo. Phải luôn bám trường, bám địa phương, bám sát thực tế để đề ra những
nhiệm vụ chủ yếu, những giải pháp đúng đắn. Phải năng động sáng tạo và biết
cần phải làm những việc gì, bắt đầu từ vịêc gì trong quá trình quản lý nhà trường
nói chung và với chương trình thử nghiệm này nói riêng.
- Với giáo viên là người có tâm huyết với nghề, nhiệt tình với nhiệm vụ giảng
dạy của mình. Nắm vững nội dung chương trình và các yêu cầu, mục tiêu
chương trình đặt ra. Trong thực hiện phải say với nó, không ngại khó và luôn
18
giữ vai trò là người hướng dẫn, đồng hành với học sinh giúp các em tự tìm hiểu,
tiếp cận kiến thức trong mỗi giờ học ở lớp. Giúp làm quen nhanh chóng nhưng
chắc chắn và vững vàng ngay từ những ngày đầu tiếp cận cách học mới.
- Nhà trường phải cơ bản có và chuẩn bị đủ các điều kiện về cơ sở vật chất,
trang thiết bị (phòng học chuẩn, bàn ghế đúng qui cách, các loại giá, kệ, tủ,…)
phục vụ dạy học theo mục tiêu của mô hình.
- Hiệu trưởng cùng BGH thực sự làm cho GV hiểu, phụ huynh hiểu và tin
tưởng vào nhà trường. CMHS và cộng đồng cùng chung tay với GV, nhà trường.
Trên đây cũng mới là những bắt đầu và những khởi sắc của trường chúng tôi.
Hy vọng rằng năm học 2013 - 2014 và những tiếp theo ngôi trường Tiểu học Thị
trấn Lam Sơn sẽ có thêm nhiều bước khởi sắc và vinh dự được đón nhận thêm
nhiều sự sẻ chia, quan tâm hơn của các trường bạn và lãnh đạo các cấp. Đồng
thời bản thân cũng tha thiết mong muốn sẽ có cơ hội được PGD cũng như Sở
GD&ĐT tổ chức cho các hiệu trưởng chúng tôi được đi tham quan học tập mô
hình này tại các trường đã thí điểm thành công toàn diện nhất trong tỉnh và tỉnh
bạn ( Bởi thực tế sẽ là bài học ngắn nhất, dễ hiểu nhất cho người học). Bên cạnh
đó cấp trên cần tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá thực tế và
khuyến khích động viên kịp thời đúng người đúng việc của chương trình này;
Qua đó mới nhân được điển hình và tạo động lực cống hiến tốt cho các nhà quản
lý ở cơ sở. Bởi đây là một mô hình mang tính giáo dục toàn diện nhất, phù hợp
nhất, nhiều ưu điểm nhất, có tính khả thi nhất, hiệu quả nhất khi người tổ chức
thực hiện nó đã dành toàn tâm toàn trí và dành nhiều tâm huyết với một nhận
thức sâu sắc đến nhường nào.
Xác nhận của hiệu trưởng Thọ Xuân, ngày 5 tháng 6 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Hưng
Xin chân thành cảm ơn!
19