LUẬN VĂN:
Khu công nghiệp với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh hải dương
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư
thúc đẩy công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện
bảo vệ môi trường sinh thái bảo đảm phát triển bền vững. Ở nước ta, năm 1991, Đảng và
Nhà nước có chủ trương triển khai thí điểm việc thực hiện giải pháp quan trọng này. Từ
đó đến nay, cả nước đó cú gần 200 trăm khu công nghiệp với các quy mô, loại hình được
phân bổ hầu khắp các tỉnh, thành phố. Sự phát triển các khu công nghiệp đó gúp phần to
lớn vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Các khu công nghiệp
trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến bộ khoa học kỹ
thuật và tạo ra những nhân tố quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997, thuộc một trong tám tỉnh của
vùng kinh tế trọng điểm ở đồng bằng Bắc bộ với hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt
thuận lợi. Hải Dương trở thành địa bàn cung cấp hàng hóa quan trọng đồng thời tham gia
trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển với các tỉnh và thành phố lớn ở phía Bắc.
Trong tương lai, Hải Dương là trọng điểm thu hút, phát triển công nghiệp, du lịch thương
mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Trong xu thế phát triển chung của
cả nước, tỉnh Hải Dương đó cú 10 khu cụng nghiệp với diện tớch 2.087 ha. Sự phát triển
khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian qua đó gúp phần quan trọng vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, thu hút vốn và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến bộ của
nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, sự phát triển khu công nghiệp đó tạo điều kiện cho
sự ra đời các khu đô thị, nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Tuy nhiên, trong 17 năm
qua, sự phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương đó bộc lộ những bất cập trong
giải quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất, sự quá
tải của hệ thống kết cấu hạ tầng Những bất cập đó đang là lực cản cho việc phát huy vai
trũ của cỏc khu cụng nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xó hội trờn địa bàn, gây ra
những bức xỳc trong xó hội.
Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, tôi chọn đề tài “Khu cụng
nghiệp với sự phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Hải Dương” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị. Việc nghiên cứu này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận
vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách không chỉ đối với tỉnh Hải Dương mà cũn đối với cả
nước.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Kể từ khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp đến nay đó cú một số cụng trỡnh nghiờn cứu về vấn đề này, tiêu biểu là:
- Bộ kế hoạch và đầu tư (2002) “Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế”;
- Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (1998) “Hướng dẫn đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb Thống kê;
- Vũ Huy Hoàng (2002) “Tổng quan về hoạt động của các khu công nghiệp”, Kỷ
yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;
- Trương Thị Minh Sâm (2004) “Các giải pháp nhằm nõng cao vai trũ và hiệu
quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” , Nxb
Khoa học xó hội, Hà Nội;
- Trần Văn Tùng (2005) “Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường ở một số khu công
nghiệp phía Bắc tới sức khỏe cộng đồng”, Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội.
- Nguyễn Chơn Trung, Trương Quang Long (2004) “Phỏt triển cỏc khu cụng
nghiệp, khu chế xuất trong quỏ trỡnh cụng nghiệp húa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Một số đề tài dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề này
như:
- Lê Hồng Yến (1996), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý nhà nước đối cới
các khu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua thực tiễn khu công nghiệp
các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trường Đại học Thương mại;
- Nguyễn Xuân Hinh (2003), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu công
nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại trường Đại học Kinh
tế quốc dân;
- Trần Văn Phùng (2007), “Nõng cao hiệu quả kinh tế – xó hội cỏc khu cụng
nghiệp Miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Duy Cường (2006), “Hiệu quả kinh tế - xó hội của cỏc khu cụng
nghiệp ở Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh;
- Lê Công Đồng (2005), “Thu nhập của người lao động ở khu công nghiệp Tân
Bỡnh – Quận Tõn Phỳ, TP Hồ Chớ Minh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Xuân Đức (2006) “Cung cầu nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp
ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh;
- Bùi Vĩnh Kiên (2002), “Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các khu công
nghiệp ở Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại trường Đại học kinh tế quốc dân.
- Nguyễn Văn Thành (2006), "Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ
An hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Hà Thị Thúy (2007), “Cỏc khu cụng nghiệp với sự phỏt triển kinh tế - xó hội ở
Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó tập trung vào những vấn đề chung trên phạm vi
tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó chủ yếu nghiên cứu
dưới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phỏt triển và có một số đề tài nghiên cứu kinh tế
chính trị nhưng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến nay, ở Hải Dương chưa có một công trỡnh
khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về tác động của khu cụng nghiệp
với sự phỏt triển kinh tế - xó hội của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu
không trùng hợp với các công trỡnh khoa học đó cụng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đánh giá tác động của khu công nghiệp (bao gồm các khu công
nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội ở
tỉnh Hải Dương để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn
ngừa hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công nghiệp với
quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội trờn địa bàn một tỉnh ở nước ta.
+ Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế - xó hội ở tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực và ngăn
ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trỡnh phỏt triển cỏc khu
cụng nghiệp này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trũ của cỏc khu cụng nghiệp (gồm khu cụng nghiệp,
khu chế xuất, cụm cụng nghiệp) đối với sự phát triển kinh tế - xó hội, trong đó chủ yếu
nghiên cứu và phân tích tác động tiêu cực trong quá trỡnh phỏt triển cỏc khu cụng nghiệp
này.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dương.
+ Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công nghiệp ở
nước ta đến nay (1991 – 2008).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mỏc
– Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam và
những lý thuyết về cụng nghiệp húa và đầu tư trong nền kinh tế thị trường.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh
tế chính trị học, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ
tư liệu thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối với quá
trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội.
- Phân tích đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế - xó hội trờn địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 1991 đến nay. Đề xuất phương hướng và
giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục ngăn ngừa những tiêu cực trong quá trỡnh
phỏt triển hỡnh thức tổ chức kinh tế này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHU CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khu công nghiệp
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, KCN đó được hỡnh thành ở một số nước tư bản
phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park thành phố Manchester
nước Anh. Sau đó, KCN lần lượt được thành lập ở các nước khác như Mỹ năm 1899,
Italia năm 1904; và kể từ những năm 50 thế kỷ XX thỡ KCN thực sự bùng nổ, trở thành
phổ biến ở các nước. Trong quỏ trỡnh phỏt triển đó, KCN đó đem lại nhiều lợi ích thiết
thực nên nó được coi là một công cụ để phát triển kinh tế.
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật ngữ
KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm nhiều hỡnh thức tổ chức
và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung nhiều doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả của việc xây dựng các doanh
nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các doanh nghiệp công nghiệp là khu dân cư hoặc
các cơ quan hành chính sự nghiệp các doanh nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN
chuyên sản xuất hàng dành cho xuất khẩu. Ở đó, chính quyền đó áp dụng nhiều chính sách
ưu đói như miễn thuế (thuế xuất - nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản…) và tự do
mua bán.
Tuy nhiên, đến nay ở các nước khác nhau có những quan niệm khác nhau về
KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN là một vùng đất được phân chia và phát triển có hệ
thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công nghiệp
tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14,
tr.15].
Ở Thái Lan và Philippin, KCN được quan niệm như một thành phố công nghiệp và
thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp kết cấu hạ tầng, các tiện
nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN cũng bao gồm khu thương mại,
dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công
nhân… Các KCN ở Thái Lan và Inđônêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng
tiêu thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết phải có sự
ngăn cách, biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp công nghiệp với một
chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau trên một khu vực rộng lớn. Việc bố
trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô lớn như vậy hỡnh thành một loại hỡnh tổ chức
mới của KCN mà khụng nhất thiết phải cú quy mụ đặc thù [27, tr.30-31, 33].
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO)
trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển công bố năm 1990, thỡ KCN là khu vực
tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiờu thu hỳt đầu tư
vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công
nghiệp này những điều kiện về đầu tư mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lónh thổ
cũn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng
cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế [44, tr.18].
Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (World Expot Processing Zone
Association – WEPZA) thỡ KCX là tất cả cỏc khu vực được chính phủ các nước cho
phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự do, KCN tự do hay bất kỳ
khu vực ngoại thương hoặc khu vục khác được tổ chức này công nhận. Thực tế cho thấy,
do nhu cầu phát triển của thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng xuất
phát từ yêu cầu bức thiết của quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ hướng về xuất khẩu của các
nước đang phát triển nên khái niệm trên đó được bổ sung thành những quan niệm mới như
Khu kinh tế mở, Đặc khu kinh tế, Thành phố mở…[44, tr.8].
Quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX rất rộng đũi hỏi chớnh sỏch quản lý cú
độ linh hoạt cao và mức độ tự do hoá khá lớn.
Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN, KCX, song về
cơ bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau:
Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu xác
định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt phù
hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách ưu đói kinh tế (đặc biệt là thuế quan)
so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất,
thương mại, dịch vụ đầu tư trên cơ sở chính sách ưu đói về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý,
thủ tục hải quan, thủ tục hành chớnh, chớnh sỏch tài chớnh tiền tệ, mụi trường đầu tư…
Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự phát triển
kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa lý riêng biệt thích
hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với cỏc vựng lónh thổ cũn lại của nước sở tại và
được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép xây dựng và phát triển.
Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách hướng ngoại,
thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài vào phỏt triển cỏc loại hỡnh sản xuất kinh doanh
phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hỡnh thu nhỏ về chớnh sỏch KT - XH mở cửa của một
nước.
Ở Việt Nam, khái niệm về KCN được ghi trong Nghị định 192/CP ngày
15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN được định nghĩa là khu vực công
nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ với các ranh giới được
xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và không có dân cư.
Theo Điều 2 - Nghị định 36/CP của Chính phủ ban hành về: “Quy chế hoạt động
của các KCN, KCX, KCNC” thỡ khái niệm về KCN được giải thích như sau: KCN là khu
tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu. Những doanh nghiệp này được hưởng những ưu đói đặc biệt về
thuế quan, miễn thuế đối với tất cả các hàng hoá xuất nhập khẩu. Sản phẩm của các
doanh nghiệp này chỉ được phép xuất khẩu chứ không được tiêu thụ trên thị trường nội
địa. Trong trường hợp bán trên thị trường nội địa thỡ sẽ phải chịu thuế nhập khẩu như đối
với những hàng hoá nhập khẩu thông thường.
KCNC là KCN tập trung những doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các
đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, bao gồm nghiên cứu triển khai
khoa học và công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới xác định, do
chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN cao có thể có
doanh nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế biến hàng xuất
khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này.
Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN,
gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được
thành lập và hoạt động trong KCN.
Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN, thực hiện dịch vụ và các công trỡnh kết cấu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất cụng
nghiệp.
Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp lý riờng, cú ban quản lý
riờng do Chớnh phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng, KCN được cung cấp đầy đủ các yếu tố
hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các
doanh nghiệp công nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống
mà trong nước có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công
nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp v.v
So với KCX, KCN thường có phạm vi hoạt động rộng hơn. Nú khụng chỉ bao gồm
cỏc doanh nghiệp sản xuất hàng hoỏ và dịch vụ cho xuất khẩu mà cũn mở ra cho tất cả
cỏc ngành cụng nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiờu thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào hoạt động tại KCN, khác
với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu đói từ phớa Chớnh phủ
cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN chú trọng tới việc sản xuất hàng
xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ được hưởng chế độ ưu đói như trong KCX
và cũng sẽ được hưởng ưu đói như trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư
nước ngoài để xuất khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa
là quan hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường
nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vỡ hàng hoỏ từ KCX ra nước ngoài và từ
nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng buộc bởi hàng
rào phi thuế quan. Cũn quan hệ giữa cỏc doanh nghiệp KCN với thị trường nội địa là
quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp chế xuất trong KCN được hưởng ưu đói như doanh
nghiệp trong KCX). KCN không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập
trung.
Về điều kiện ưu đói, doanh nghiệp KCX được hưởng thuế thu nhập 10%, miễn
thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất, nộp 15% và miễn 2 năm đối với
doanh nghiệp dịch vụ; cũn doanh nghiệp KCN nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 15% đối
với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm trong 2 năm, 10% đối với doanh nghiệp
xuất khẩu trên 80% sản phẩm và trong 2 năm.
Đối với nước sở tại, thỡ KCX cú nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều này có thể
được lý giải bởi các lý do sau đây:
- Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa nên nhỡn
chung là khụng cạnh tranh với sản xuất trong nước.
- Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, nguồn ngoại tệ
của xó hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX.
- Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ trương xây
dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiờn, những gỡ được coi là có lợi cho nước sở tại thỡ ngược lại là bất lợi đối
với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ chức sản xuất phải đạt
chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phự hợp với điều kiện cạnh tranh của thị trường
quốc tế. Do các bất lợi trên mà các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm đến hỡnh
thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị trường nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng
thành công các KCX thường gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngoài
coi trọng mô hỡnh KCN là cú căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một
vấn đề là nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghỡn doanh nghiệp
sản xuất hàng tiờu dựng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo ra hiện tượng
cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách kinh
tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ưu đói nhiều hơn cho
KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các nhà đầu tư so với KCN. Việc xây
dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX là không ít khó khăn, nhưng việc kêu gọi các
doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCX
hay KCN phụ thuộc nhiều vào chất lượng của các dự án đó thu hỳt được.
Như vậy KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau
về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. KCN
thường được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ
với vai trũ thỳc đẩy phát triển kinh tế vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. KCX cũng được xác định là KCN nhưng
tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu
tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trũ then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khộp
kớn sang nền kinh tế mở.
Từ Nghị định 36/CP cho thấy KCN là một khái niệm động gắn liền với điều kiện cụ thể
nơi nó hỡnh thành. Các tiêu chí để hỡnh thành một KCN bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyờn sản xuất
hàng cụng nghiệp và thực hiện cỏc dịch vụ cho sản xuất cụng nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống,
xây dựng theo quy hoạch tổng thể đó được chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do Thủ tướng chính phủ quyết định thành
lập. Khi muốn hỡnh thành KCN đó cú trong quy hoạch tổng thể, UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương sẽ chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và
trỡnh Thủ tướng chính phủ xem xét để quyết định thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh nghiệp
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và chỉ quan
tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng để cho thuê, cũn
việc xõy dựng cỏc cụng trỡnh phỳc lợi xó hội khụng nằm trong phạm vi quy định. Quan
niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng KCN, người ta không quan tâm đến tính
đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên ảnh hưởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho
nên việc quy hoạch phát triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển hạ tầng
xó hội.
Hiện nay ở nước ta đó xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do Trung ương
thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa phương (cấp tỉnh, thành
phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy mô thường nhỏ hơn, ảnh hưởng
thường hẹp hơn nhưng về bản chất không có sự khác biệt so với các KCN của Trung
ương. Trong đề tài, khái niệm KCN được hiểu bao gồm cả KCN do Trung ương thành
lập, quản lý và cả cỏc cụm CN do chính quyền địa phương thành lập.
Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều kiện về kết
cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở sản xuất công nghiệp
đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ
điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải…
để sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.2. Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xó hội
KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội Đảng lần
thứ VI khởi xướng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua đó đóng một vai trũ hết
sức quan trọng trong quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế của đất nước. Đối với những nước
thuần nông như Việt Nam thỡ việc phỏt triển KCN trước hết tạo tiền đề cho đô thị hoá
nông thôn, tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp,
giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn. KCN cũng chính là cầu nối giữa
nước ta với thế giới bên ngoài, đóng vai trũ tiờn phong trong việc chuyển từ nền kinh tế
khộp kớn sang nền kinh tế mở cửa.
Tuy nhiên, sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá vỡ kết cấu xó
hội nụng thụn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải quyết vấn đề môi trường sinh
thái, việc làm và thu nhập của người dân mất đất, sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ
tầng…
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế - xó hội của nước ta hiện nay
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc CNH, HĐH
nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. CNH, HĐH
được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Quá trỡnh
CNH, HĐH được thực hiện trên cơ sở giải phóng sức sản xuất trong nước phát huy cao
độ các nguồn lực trong nước đồng thời tỡm cỏch thu hỳt nguồn lực từ bờn ngoài. Nguồn
lực trong nước và nguồn lực từ bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn lực
trong nước được khai thác có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thu hút, sử dụng tốt hơn nguồn lực từ
bên ngoài. Ngược lại, việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài sẽ kích
thích việc huy động nguồn lực trong nước, đồng thời tạo điều kiện để các nguồn lực này
được sử dụng với hiệu suất cao hơn.
Việc phát triển các KCN, KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo ra những
điều kiện, thể chế, môi trường thuận lợi cho quá trỡnh thu hỳt, sử dụng nguồn lực từ bờn
ngoài như vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại, trên cơ sở đó đẩy
nhanh tiến trỡnh CNH, HĐH.
Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư
nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu vực địa lý.
Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn so với bên
ngoài nên KCN là trở thành một địa điểm để tập trung các doanh nghiệp sản xuất, chế
biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước. Qua đó, tạo cơ hội đưa
nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ; xây dựng các
ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế,
bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng
của nền kinh tế cũn thấp kém đầu tư chưa hoàn thiện thỡ việc xõy dựng, phỏt triển KCN
là phương thức phù hợp nhằm tập trung đầu tư cho một số khu vực có ưu thế hơn, giảm một
cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tư.
KCN với những ưu đói đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý, tài chớnh,
thuế quan so với sản xuất ở bên ngoài, nên nó trở thành môi trường hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài, thu hút được nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước. Kết cấu hạ
tầng trong KCN sẵn có và những chính sách ưu đói cựng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ
tục đầu tư ngày càng đơn giản, thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư
nhanh chóng triển khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế
thị trường, cỏc doanh nghiệp tỡm mọi cỏch tối thiểu hoá chi phí để đạt được giá thành rẻ
nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều đó. KCN được xây
dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống, gần cảng, giao thông thuận lợi
cho xe trọng tải lớn ra vào, có mạng lưới điện để cho nhà đầu tư có thể xây dựng và vận
hành các nhà máy. KCN cũn được trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tư vào thỡ
cỏc nhà đầu tư sản xuất sẽ giảm được rất nhiều chi phí như chi phí mua đất xây dựng nhà
máy với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông vận tải
vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc Việc bố trí các nhà máy theo chiều
dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác) và tập trung vào một
khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra với chi phí thấp nhất.
Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu lợi nhuận các
doanh nghiệp bên ngoài KCN nên KCN thường hấp dẫn nhà đầu tư.
Thực tế ở nước ta cho thấy, KCN có vai trũ tớch cực vào việc thu hút vốn đầu tư
đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tư cả trong và ngoài nước vào các KCN chiếm một tỷ
trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN góp phần quan trọng vào việc tăng
tổng vốn đầu tư của toàn xó hội, đóng góp trực tiếp vào việc tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế. Mặt khác cũn tỏc động, kích thích tăng đầu tư mới ở các doanh
nghiệp ngoài KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, riêng năm 2008, các KCN trên cả nước
đó thu hỳt được gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 271 dự án mới với
tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lượt dự án tăng vốn với số vốn
tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD
Tính đến nay, các KCN cả nước đó thu hỳt được 3325 dự án có vốn đầu tư nước
ngoài với tổng vốn đầu tư gần 39.3 tỷ USD.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước đạt
gần 50%, riêng các KCN đó vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74% [49].
Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý hỡnh thành
KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi trong KCN tập trung, các
doanh nghiệp dùng chung cụng trỡnh hạ tầng nờn giảm được chi phí trên một đơn vị diện
tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất,
kết hợp giữa quy hoạch ngành với quy hoạch lónh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh
nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải cụng nghiệp, bảo
vệ mụi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các doanh nghiệp công nghiệp
có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau trong đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt
động và sức cạnh tranh.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập.
Sự hỡnh thành và phỏt triển KCN khụng chỉ thu hỳt lao động vào các doanh
nghiệp bên trong mà cũn kớch thớch cỏc hoạt động dịch vụ phát triển và thu hút vào các
hoạt động này một số lớn lao động khác.Việc xây dựng KCN sản xuất cũng như các dịch
vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đó giải quyết được một số lượng lao động khá lớn Số lao
động này được tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức quản lý tiờn tiến.
Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ năng và có
năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Hơn nữa,
để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp, nhiều KCN, KCX đó mở cỏc cơ
sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy nghề và đào tạo trong các KCN, KCX
đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN nói
riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung. Ở các địa phương cú KCN, tỷ lệ
thất nghiệp giảm rừ rệt. Điều đó có tác động tích cực đến việc xoá đói, giảm nghèo, đồng
thời góp phần giảm các tệ nạn xó hội do thất nghiệp gõy ra.
Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và phương
pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc tiếp thu công nghệ hiện đại và
các phương pháp quản lý tiờn tiến của cỏc nhà đầu tư được thực hiện tốt thông qua các
KCN. Mặc dù trong những giai đoạn đầu hoạt động của các KCN, đầu tư nước ngoài chủ
yếu tập trung vào các ngành như dệt may, giày da, lắp ráp điện tử, nhưng càng về sau thỡ
việc đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ hiện đại như đúc chính xác, sản xuất cơ khí, sản
xuất cáp điện, linh kiện điện tử ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và
kim ngạch xuất khẩu. Quỏ trỡnh chuyển giao công nghệ diễn ra dưới nhiều hỡnh thức:
đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất, đưa
máy móc hiện đại sang để tiến hành sản xuất nhằm mục đích tạo năng sất lao động cao
Các công ty ở các KCN có thể chuyển giao một số công nghệ mới vào giúp đỡ kỹ thuật
cho các nhà cung cấp địa phương hoặc các công ty sản xuất chi tiết sản phẩm của KCN.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp KCN cũn thu hỳt một lượng lớn người lao động Việt
Nam vào các vị trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này được tiếp xúc
với phương thức quản lý tiờn tiến, kỹ năng maketting, quản lý tài chính, tổ chức nhân
sự Đội ngũ này khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam hoặc tự mỡnh
thành lập doanh nghiệp sẽ vừa áp dụng được phương pháp quản lý tiờn tiến đó tiếp thu
được vào hoạt động của doanh nghiệp mỡnh, vừa nõng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp và truyền đạt những kiến thức quản lý cho người lao động Việt Nam khác.
Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu
quả.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trỡnh CNH, HĐH
ở nước ta bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế vận động phù hợp với các quy luật khách
quan, thúc đẩy phân công lao động xó hội, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường trong nước và
xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế, giúp khai thác tối đa mọi
nguồn lực, tiềm năng của đất nước, của ngành, của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Đảng ta xác định xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lónh
thổ, trong đó giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh
vực nhất là các ngành và lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp. Một
mặt, KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng số GDP của các
ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Mặt khác, KCN thu hút được những dự án có hàm lượng
vốn lớn, công nghệ cao. Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN cũn ớt nhưng cũng góp
phần phát triển ngành nghề mới, đa dạng hoá ngành nghề công nghiệp. Các dự án đầu tư
vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giầy da, công
nghiệp chế biến thực phẩm. Đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu
cao. Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền thống có từ
lâu ở nước ta nhưng các dự án trong KCN đó gúp phần nõng cấp cỏc ngành này về dây
chuyền công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ụ nhiễm mụi trường, bảo vệ môi
trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ cơ bản của phát triển bền vững. Các
nước đang phát triển thực hiện CNH, HĐH thường phải chú ý đến sự phỏt triển cõn bằng
cả về kinh tế, xó hội và mụi trường. Vấn đế môi trường là một yếu tố quan trọng mà bất
cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng phải giải quyết. Với mục tiêu chỉnh trang các đô
thị theo hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường, việc di dời nhà máy, các xí
nghiệp sản xuất công nghiệp trong các đô thị ra vùng ngoại thành là cần thiết. Nhưng nếu
để các doanh nghiệp phõn tỏn hoặc việc xử lý chất thải do từng doanh nghiệp thực hiện
riêng rẽ thỡ sẽ rất tốn kém và không kiểm soát được. Việc tập trung nhiều doanh nghiệp
trên cùng một địa bàn như KCN sẽ cho phộp xõy dựng cỏc trung tõm xử lý chất thải với
chi phớ ớt tốn kộm hơn, đồng bộ hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý mụi
trường của cơ quan chức năng. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô
thị với tác động bất lợi của sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ ). Với
sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban
quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp. Đồng
thời, về phía mỡnh cỏc doanh nghiệp cụng nghiệp cũng cú điều kiện phũng chống ụ
nhiễm mụi trường với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của nhau, do có sự liờn kết
xử lý ụ nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước.
Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý mụi trường
ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải có hệ thống xử lý chất
thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. Từng KCN phải cú nhà mỏy
xử lý nước thải tập trung và được đầu tư xây dựng song song với việc đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy, việc bảo vệ môi trường trong toàn khu vực KCN được
thực hiện tốt hơn so với tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau.
Đồng thời, KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường từ
nội thành, từ các vùng dân cư, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền vững. Với tác
động này, việc xây dựng các KCN tập trung được coi là một giải pháp quan trọng của sự
phát triển KT- XH.
Trong vài năm tới ở nước ta sẽ có khoảng 65% KCN đang hoạt động có hệ thống
nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, nó đũi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước
phải có quyết tâm cao kết hợp với các biện pháp cụ thể. Thời gian qua đó cú nhiều dự ỏn
xử lý nước thải tập trung trong KCN đi vào vận hành, tổng số cơ sở xử lý nước thải tập
trung lên 60 nhà máy, đạt gần 1/2 mục tiêu kế hoạch đến năm 2010. Ngoài ra, tại KCN
đang xây dựng, cú 20 nhà mỏy xử lý nước thải tập trung được xây dựng và dự kiến hoàn
thành trong năm nay. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đó dự thảo Quy chế Bảo vệ môi trường KCN. Hy vọng sau khi ban hành Quy
chế này, chúng ta sẽ có cơ sở phỏp lý trong triển khai công tác bảo vệ môi trường KCN.
Sáu là, góp phần tăng cung ứng hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu.
Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra khi xây dựng các KCN là góp phần
đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Thực tế cho thấy, nhiều KCN ở các
nước đặc biệt là ở khu vực châu Á đó thành công trong mục tiêu này. Theo thống kê của
Hiệp hội KCX thế giới, một diện tích khoảng 100 ha cần đầu tư 50 triệu USD cho kết cấu
hạ tầng, trong vũng 10 năm sẽ tạo việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất
khẩu trị giá 100 triệu USD/năm [48].
Thực tế cho thấy việc phát triển KCN đó thành cụng ở nhiều nước như Đài Loan,
Thái Lan xây dựng KCN từ những năm đầu của thập kỷ 60 và đó thu được những thành
tựu to lớn. Các KCN của Đài Loan đó cú 238 doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động với tổng
vốn đầu tư hơn 860 triệu USD, trong đó hơn 70% là đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị xuất
khẩu tích lũy đó hơn 35 tỷ USD, tạo việc làm cho 90.000 lao động. Cũn Thái Lan, năm
1960 thu nhập GDP bỡnh quõn là 94 USD/người. Qua 3 thập kỷ công nghiệp hóa, công
nghiệp đó lờn ngụi chiếm 34% GDP và nụng nghiệp chỉ cũn 10%, 70% giỏ trị xuất khẩu
do cỏc ngành cụng nghiệp đảm nhận, thu nhập GDP bỡnh quõn đầu người cao. Công
nghiệp chế tạo từ thập kỷ 60 đến nay là khu vực đóng góp phần quan trọng nhất đối với
tiến bộ của cả nước [43, tr.35].
Theo Ngân hàng thế giới (WB), 1 ha đất canh tác nông nghiệp, bỡnh quõn một
năm chỉ thu được 2000 USD. Nhưng nếu dùng để sản xuất công nghiệp có thể đạt
200.000 đến 400.000 USD, tăng gấp 100 đến 200 lần [49]. Bảy là, tạo điều kiện xây
dựng khu đô thị, nâng cao chất lượng đời sống dân cư.
KCN sẽ là hạt nhân để xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, văn minh, góp
phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xó hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hoá. Ở các
đô thị gắn liền với KCN thỡ bộ phận chủ yếu của dõn cư đô thị là những người lao động và
quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với
yêu cầu làm việc trong KCN.
Ở các nước đang phát triển, với mục tiêu xây dựng các đô thị theo hướng hiện
đại, văn minh và bảo vệ môi trường nên phải thực hiện di dời nhà máy xí nghiệp sản
xuất trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. KCN là nơi tiếp nhận các nhà máy xí
nghiệp đó tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ tập trung. Chính vỡ vậy, vấn đề quy
hoạch phát triển KCN không thể tách rời quy hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh
tế. Kinh nghiệm phát triển KCN trong thời gian qua cho thấy, việc hỡnh thành cỏc
khu đô thị mới chỉ trở thành hiện thực khi có sự phát triển đồng bộ giữa công
nghiệp, khu dân cư, các công trỡnh hạ tầng kỹ thuật và xó hội trong và ngoài hàng
rào.
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực khi thành lập và hoạt động của các khu công
nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX của nước ta trong thời gian qua bên
cạnh những thành tựu đạt được cũng đó bộc lộ những hạn chế, đặt ra những vấn đề bức
xúc cần phải nghiên cứu giải quyết.
Do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý và đầu tư thiếu tính
toán việc thu hút các doanh nghiệp sản xuất nhằm “lấp đầy” KCN nên dẫn đến tỡnh trạng
lóng phớ cỏc nguồn lực.
Sự phát triển ồ ạt của các KCN, quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhỡn chiến
lược đó gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế làm cho quỏ trỡnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế không theo kịp. Mặt khác, việc phân bố các KCN giữa các vùng cũn
bất hợp lý, thành lập quỏ nhiều KCN, KCX trong cựng một vựng trong khi khả năng thu
hút đầu tư cũn hạn chế khụng phỏt huy được hiệu quả vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật và xó
hội cho KCN. Điều này dẫn đến tỡnh trạng cạnh tranh gay gắt, tự phỏt, chạy đua theo
phong trào. Việc thành lập, thu hút đầu tư vào KCN không phù hợp với quy hoạch tổng
thể phát triển KT - XH của vùng, quy hoạch phát triển KCN cả nước. Hơn nữa, do cách
thức quản lý cỏc KCN khụng tốt, không tập trung làm cho các doanh nghiệp trong KCN
làm ăn kém hiệu quả. Mặt khác, việc xây dựng các KCN tràn lan dẫn đến tỡnh trạng thiếu
lao động có tay nghề. Đây là vấn đề hết sức nan giải mà nhiều địa phương đó vấp phải
làm cho các KCN hoạt động không có hiệu quả cao. Như vậy, do theo đuổi phong trào
xây dựng KCN, mong muốn lấp đầy KCN dẫn đến tỡnh trạng lóng phớ cỏc nguồn lực,
làm xỏo trộn tỡnh hỡnh phỏt triển KT - XH.
Sự phát triển tràn lan các KCN ở các tỉnh hiện nay dẫn đến cạnh tranh quyết liệt
giữa các địa phương trong việc thu hút đầu tư làm xuất hiện không ít tỡnh trạng “vượt
rào”,“ phá luật” gây ra những lộn xộn không đáng có làm thiệt hại cho lợi ích chung của
xó hội và giảm lũng tin của cỏc nhà đầu tư về sự nhất quán trong chính sách ưu đói của
Việt Nam.
Trong những năm gần đây, để khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đầu tư vào các KCN, các cấp, các ngành đó không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện
chính sách ưu đói, thủ tục đầu tư thuận tiện. Tuy vậy, việc xây dựng ồ ạt các KCN dẫn
đến một thực tế các địa phương đang ra sức quyết liệt ganh đua, cạnh tranh nhau để thu
hút các nguồn vốn đầu tư về KCN ở địa phương mỡnh. Nhiều địa phương đó ban hành
những chính sách ưu đói riờng để “xé rào, phá luật” vượt quá quy định của pháp luật để
thu hút đầu tư, chấp nhận dùng ngân sách địa phương để bù lỗ. Điều này làm ảnh hưởng
đến ngân sách nhà nước, hơn nữa cũn dẫn đến tỡnh trạng chốn lấn, “ngáng chân nhau”
trong việc thu hút đầu tư, làm giảm hiệu quả của các KCN, không tận dụng được lợi thế
của các địa phương, các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho lợi ích xó hội, làm giảm lũng tin
của cỏc nhà đầu tư về sự thống nhất, nhất quán trong chính sách ưu đói của Việt Nam.
Cho nờn, với những cam kết quỏ mức của địa phương để giành giật vốn đầu tư có thể dẫn
đến những khó khăn trong việc thực thi chính sách kêu gọi đầu tư phù hợp của Đảng và
Nhà nước trong việc thu hút các dự án đầu tư giữa các địa phương, vùng, miền.
Do chưa gắn quy hoạch phát triển KCN với phỏt triển ngành và vựng lónh thổ, quy
hoạch phỏt triển KCN của từng địa phương với quy hoạch chung của cả nước nên dẫn đến
tỡnh trạng cú rất ớt KCN, KCX cú tớnh chuyờn mụn hoỏ cao. Hầu hết cỏc doanh nghiệp
trong các KCN, KCX mang tính đa ngành, có trường hợp các ngành sản xuất bên nhau
nhưng không tạo ra sự hợp tỏc mà lại cũn đối lập nhau về cách thức sản xuất, vệ sinh an
toàn. Điều đó cho thấy tính tự phát, không tính đến mối liên kết ngành trong sản xuất dẫn
đến hầu hết các địa phương chưa hỡnh thành được những KCN, KCX mũi nhọn có công
nghệ cao, làm động lực thúc đẩy phát triển các mặt hàng chủ lực có tính cạnh tranh cao.
Đến nay đó cú gần 100 nước và vùng lónh thổ đầu tư vào các KCN của Việt Nam
nhưng trong đó trên 80% số dự án và gần 70% vốn đầu tư do chủ đầu tư ở các nước châu
Á, chỉ có 16,2% vốn đầu tư thuộc về các nước EU. Các dự án này phần lớn có quy mô
nhỏ dưới 5 triệu USD chủ yếu ở những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như
dệt may, da giầy lắp, ráp điện tử cũn cỏc ngành cụng nghệ cao thỡ rất ớt. Những năm gần
đây có một số dự án của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cũng đầu tư cho công nghệ mới
nhưng chỉ là những công nghệ ở mức độ trung bỡnh.
Thực tế cũn cho thấy, việc xây dựng các KCN đó sử dụng một diện tớch đất đai
khá lớn, thu hồi quá nhiều đất nông nghiệp trong đó hơn 80% thuộc đất “bờ xôi, ruộng
mật” với hệ thống thuỷ lợi thuận tiện cho 2 vụ lúa mỗi năm kéo theo 500.000 tấn lúa mất
đi, ảnh hưởng lớn đến người lao động. Trong khi đó, để trở thành ruộng trồng lúa phải
mất hàng nghỡn năm mà đất đó làm cụng nghiệp thỡ khú cú thể trồng lại lỳa. Điều đó
dẫn đến lóng phớ nguồn lực đất đai, đe dọa an ninh lương thực quốc gia. Sự lóng phớ ấy
cũn do tỡnh trạng “quy hoạch treo, dự ỏn treo”. Do núng vội trong đầu tư phát triển KCN
và dự báo về đầu tư không sát thực tế hoặc thiếu giải pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư
nên nhiều địa phương thu hồi đất của dân, san lấp mặt bằng nhưng lại để đất trống trong
nhiều năm do chưa có nhà đầu tư phù hợp. Một số nơi vội giao đất cho nhà đầu tư không
đủ năng lực nên dự án không tiến triển. Tỷ lệ lấp đầy trong các KCN là một trong những
tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững về kinh tế, sự phát triển bền vững nội tại KCN
nhưng lại không đạt tiêu chuẩn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty phát triển
hạ tầng
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là việc xây dựng các KCN cần phải có mặt bằng
xây dựng. Muốn có mặt bằng xây dựng cần phải đền bù, giải phóng mặt bằng. Chính sách
đền bù giải phóng mặt bằng cho các KCN nếu không phù hợp, không được người dân
đồng tỡnh sẽ gõy ra tỡnh trạng trỡ trệ trong phỏt triển KCN.
Việc đền bù trong thời gian qua rất phức tạp nhiều hạn chế và tốn kém. Nhiều
KCN mất từ 2 đến 3 năm mới đền bù, giải toả xong, dẫn đến việc đẩy chi phí xây dựng
tăng lên làm cho giá thuê đất tăng cao làm giảm tính hấp dẫn của KCN. Mặt khác, những
biến động về giá đất ở các khu vực xung quanh KCN theo hướng tăng lên có thể gây khó
khăn cho việc giải phóng mặt bằng hoặc gây khó khăn cho các hộ dân. Thực tế cho thấy,
một số KCN đó không thực hiện tốt chính sách đối với các hộ dân phải di dời đó gây khó
khăn lớn cho họ. Ngoài ra, tỡnh trạng đất đền bù cho người dân thấp nhưng đến khi có
KCN thỡ giá đất lại tăng lên một cách chóng mặt, có nhiều người đó lợi dụng tỡnh trạng
này để thu lợi lớn trong khi người mất đất lại rất thiệt thũi gõy nờn sự bất bỡnh.
Theo báo cáo của Chính phủ, vào thời điểm cuối năm 2008, có trên 80% số vụ
khiếu kiện của nông dân liên quan đến đất đai, trong đó có tới 70% là khiếu nại về giá đất
tính bồi thường; 20% là khiếu nại yêu cầu bồi thường thêm theo giá đất mới; 6% là khiếu
nại yêu cầu bồi thường đối với đất đó thu hồi nhưng chưa được bồi thường; 3% là khiếu
nại về chưa thực hiện tái định cư và 1% là khiếu nại về sự thiếu công bằng trong áp dụng
chính sách giữa các trường hợp giống nhau [50].
Với cách làm như hiện nay, tại các nơi có KCN, hệ thống chính trị ở nhiều cơ sở
rệu ró và bị một số cỏn bộ lợi dụng chức quyền ăn chặn phần đền bù của dân. Dân không
cũn tin vào chớnh quyền cơ sở nên dẫn đến tỡnh trạng khiếu nại vượt cấp. Thêm vào đó,
những hiện tượng cán bộ “ăn đất”, những kẻ lợi dụng để bao chiếm đất nông nghiệp và
đất phi nông nghiệp bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều. Hiện đang nổi cộm mâu thuẫn
giữa những nông dân bị thu hồi đất với một bộ phận không nhỏ cán bộ chính quyền cơ sở
lợi dụng những kẽ hở của chính sách để trục lợi. Từ mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, người
dân mất đất nhận rừ về sự bất cụng, dẫn đến sụt giảm niềm tin vào Nhà nước, vào các
doanh nghiệp công nghiệp. Cuối cùng họ có thể chỉ cũn cú cỏch duy nhất là “phản ứng
tập thể” một cỏch vụ tổ chức, tự phỏt, cản trở quỏ trỡnh CNH, HĐH, bất hợp tác với các
doanh nghiệp và chính quyền cơ sở.
Việc xõy dựng ồ ạt cỏc KCN cũn làm gia tăng tỡnh trạng thất nghiệp, ảnh hưởng
xấu đến thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi, gây nguy cơ mất ổn định
xó hội. Người nông dân bị thu hồi đất lại chưa được chuẩn bị để tham gia vào lĩnh vực
lao động mới là lao động công nghiệp. Các hoạt động thu hồi đất hiện nay đang vô tỡnh
đẩy nhiều nông dân đối mặt với kinh tế thị trường trong thế yếu và không thể tự vệ.
Nhiều hộ nông dân phải xoay sở kiếm sống bằng cách khác, mà phổ biến là những lao
động chính tỡm cỏch kiếm việc tại đô thị. Họ bị mất đất, mất nghề và buộc phải bán sức
lao động để sống trong cơ chế thị trường cũn nhiều tớnh tự phát. Theo thống kê của Bộ
Lao động - Thương binh và Xó hội cho thấy, mỗi năm có khoảng 80.000 - 100.000 ha đất
nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Nếu tính trung bỡnh một lao động ở khu
vực đồng bằng Bắc Bộ có khoảng 400-500m
2
đất canh tác như hiện nay thỡ mỗi năm mất
đi khoảng 1,5 - 2 triệu chỗ làm. Trung bỡnh mỗi hộ nụng dõn bị thu hồi đất có 1,5 lao
động rơi vào tỡnh trạng khụng cú việc làm trong khi đó 1 ha đất nông nghiệp hằng năm
tạo ra việc làm cho 13 lao động nông nghiệp. Người mất việc làm chủ yếu là nông dân
với trỡnh độ văn hóa, chuyên môn thấp, chưa qua đào tạo nghề phi nông nghiệp nên cơ
hội tỡm việc làm ngoài nụng nghiệp rất khú. Đất thu hồi xây dựng KCN chủ yếu là đất
nông nghiệp. Việc thu hồi đất nông nghiệp và đất ở trong những năm qua đó tỏc động
đến khoảng 950.000 lao động. Với một lượng lớn lao động như vậy, việc giải quyết việc
làm gặp vô vàn khó khăn. Hầu hết các tỉnh đều thừa nhận, lượng lao động bị thu hồi đất
nông nghiệp vào làm tại các KCN là rất nhỏ.
Mặt khác, phần lớn lao động tại khu vực nông thôn hiện nay đều rơi vào độ tuổi đó
khá cao (trên 35 tuổi). Do vậy, tâm lý trồng lúa đó ăn sâu, bén rễ nên không thể học nghề
để chuyển đổi. Hơn nữa, để học những nghề đũi hỏi nhiều chất xỏm thỡ người nông dân
khó tiếp thu, cũn đào tạo nghề đơn giản thỡ doanh nghiệp khụng chấp nhận. Vỡ thế,
những trường, trung tâm dạy nghề được mở tại những vùng có diện tích thu hồi đất nông
nghiệp lớn rơi vào tỡnh trạng “dở khúc, dở cười”. Nơi thỡ khụng đủ học viên vào học
phải đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng, nơi thỡ hầu như toàn học viên từ các tỉnh
khác, nơi khác về học.
Một thực trạng đáng buồn nữa, do trỡnh độ hạn chế, sau khi bị thu hồi đất, có tới
67% nông dân vẫn giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp, 13% chuyển sang nghề mới
và khoảng 20% khác không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Số nông
dân bị thu hồi đất không tỡm được công việc mới, quay lại làm nghề nông lại đối mặt với
nỗi lo không có đất để cấy cày, rơi vào cảnh thất nghiệp Đơn thuần, không có đất canh
tác, lại không kiếm được công việc mới nên thu nhập của 37% số hộ nông dân bị thu hồi
đất bị sụt giảm so với trước đây, và chỉ có 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước. Việc sử
dụng tiền đền bù, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp của người nông dân chưa hợp lý, chủ
yếu dựng để xây nhà, mua sắm, chỉ có một lượng khiêm tốn hộ dùng số tiền đó một cách
thiết thực. Do đó, nhiều hộ nhận tiền đền bù vài trăm triệu đồng nhưng chỉ sau 1-2 năm
lại trở thành hộ nghèo. Không chỉ nguy cơ thất nghiệp, nghèo đói đe dọa người nông dân
bị mất đất sản xuất mà nó cũn kộo theo nhiều hệ lụy khỏc. Chẳng hạn vấn đề an ninh
nông thôn cũng bị xáo trộn đáng kể khi có một lượng lớn người thất nghiệp tại địa
phương cùng với một lượng lớn lao động từ các nơi khác đổ về [50].
Mặc dù KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý và kiểm soỏt mụi trường sinh
thái nhưng nếu không có chính sách và cơ chế quản lý hiệu quả chặt chẽ sẽ gây tác động
ngược lại, mức độ ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên rất nhanh. Có thể nói ô nhiễm môi