Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Bài thu hoạch ccllct, môn lich su dang, đảng lãnh đạo xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.51 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................3
Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC..............................4
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC................................................................................4
1. Căn cứ lý luận.................................................................................................4
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin................................................................................4
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.......................................................5
2. Căn cứ thực tiễn..............................................................................................6
2.1. Thực tiễn cách mạng thế giới.......................................................................6
Chương 2:..............................................................................................................8
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ PHÁT HUY KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.................................................................8
1. Tình hình khối đại đồn kết dân tộc trước những năm đổi mới......................8
2. Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về đại đoàn kết dân tộc...............9
2.1. Nhận thức rõ vị trí đại đồn kết tồn dân tộc trong thời kỳ mới..................9
2.2. Xác định các yếu tố quan trọng và điểm tương đồng mới để thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc...........................................................................................12
2.3. Về trách nhiệm thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc..................................16
2.3.1. Đại đoàn kết là trách nhiệm của tồn dân tộc, là cơng việc của mỗi
người dân.............................................................................................................16
2.3.2. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị,.............................17
2.3.3. Đại đồn kết phải được thực hiện từ cơ sở trong từng cộng đồng dân cư
nhỏ như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố.............................................................18
3. Kết quả và hạn chế trong việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc..18
3.1. Kết quả.......................................................................................................18
4. Một số kinh nghiệm và giải pháp rút ra trong quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc thời gian qua.....................................................25
KẾT LUẬN.........................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................30



2
PHẦN MỞ ĐẦU
Dân tộc nào cũng có truyền thống đồn kết để sinh tồn và phát triển.
Song, truyền thống đoàn kết của dân tộc ta là truyền thống của một quốc gia đa
dân tộc, đa tôn giáo, sống xen kẽ, khơng phân biệt cưong vực lãnh thổ. Đó là
những cuộc chiến đấu liên miên không cân sức để chống chọi với thiên tai khắc
nghiệt và đủ loại xâm lược hòng thơn tính lãnh thổ, nơ dịch dân tộc ta. Đó cịn là
một giá trị văn hố thuộc về bản sắc dân tộc Việt Nam, một dân tộc ngay từ khi
hình thành đã mang tính cộng đồng cao. Nghiên cứu chiều sâu của đoàn kết dân
tộc, mới thấy rõ ý nghĩa sâu sắc mà “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của Đảng đã tổng kết thành một trong năm bài
học lớn của cách mạng nước ta. Đó là: “Khơng ngừng củng cố, tăng cường đoàn
kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế”.
Để đi đến thắng lợi to lớn ngày nay, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã
phải trải qua những khó khăn, thử thách, những khúc quanh với những ấu trĩ, sai
lầm, khuyết điểm. Hơn ai hết, dân tộc ta hiểu rõ giá trị của sự đoàn kết và quyết
tâm làm tất cả những gì có thể làm được để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, kiên quyết chống lại những gì phá hoại hoặc làm xói mịn, làm suy yếu khối
đại đồn kết này, vì lịch sử đã cho chúng ta bài học q giá: “Đồn kết thì sống,
chia rẽ thì chết!”.
Truyền thống đồn kết của dân tộc ta được nâng lên tầm cao mới trong
thời đại Hồ Chí Minh, kết tinh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn
dân tộc. Thực tiễn cách mạng nước ta ngót một thế kỷ qua đã chứng minh một
cách hùng hồn sức sống mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại khơng gì chiến thắng nổi
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết kết dân tộc và Đảng ta đã quán triệt
sâu sắc tư tưởng đó thành sợi chỉ đó xuyên suốt trong đường lối cách mạng của
Đảng qua mọi thời kỳ. Vì vậy, nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng
và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới là một việc làm hết
sức cần thiết hiện nay, nhằm phát huy hơn nữa những giá trị tốt đẹp mà ta đã

dành được để củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc - cội nguồn bảo đảm
thắng lợi của cách mạng nước ta.


3
Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC
ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
Một số khái niệm:
 Đoàn kết: Sách từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1994 đã đưa ra khái
niệm “Đoàn kết” là: “Kết thành một khối thống nhất cùng hoạt động vì một
mục đích chung và đại đồn kết là đồn kết rộng rãi”.
Khái niệm trên chính là sự cắt nghĩa phổ thông về một cụm từ Hán Việt
và mới chỉ đưa ra một cái vỏ thông tin của khái niệm chứ chưa có nội dung đầy
đủ. Đó là trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt
trận Liên - Việt toàn quốc ngày 10-1-1955, Người đã đưa ra định nghĩa về đại
đoàn kết như sau:
 “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà
đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây.
Nhưng đã có nền vững, gốc tốt cịn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
Đây là định nghĩa hết sức cụ thể và mộc mạc. Tư tưởng đó hồn tồn
đúng với ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với đặc điểm,
truyền thống và thực tiễn của dân tộc Việt Nam.
1. Căn cứ lý luận
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay đã lãnh đạo toàn dân
ta làm nên những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng. Những thắng lợi
đó cũng chính là thắng lợi của chiến lược đại đồn kết của Đảng. Nhờ đâu mà
Đảng có những chiến lược đoàn kết vững chắc và khoa học như vậy? Nhờ đâu
mà toàn dân tộc Việt Nam một lòng đi theo chiến đấu dưới lá cờ của Đảng? Phải

chăng cội nguồn của nó là Đảng đã có một nền tảng, một cơ sở về đại đoàn kết
toàn dân tộc .
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong thời đại cách mạng vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết
khoa học và tiên tiến của thời đại, có sức hấp dẫn, chinh phục hàng triệu khối
óc, trái tim nhân loại. Điểm nổi bật của học thuyết này là đã nhìn thấy sức mạnh
ở nhân dân lao động, coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử.


4
Từ đó, các ơng kêu gọi sự đồn kết tất cả các lực lượng của nhân dân lao
động. Để đoàn kết được tất cả mọi lực lượng của nhân dân lao động, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra rằng phải “lấy liên minh công nông làm nguyên tắc tối cao
của cách mạng vô sản”. Trên cơ sở khối liên minh đó, đảng của giai cấp cơng
nhân phải tổ chức các hình thức để tập hợp đơng đảo mọi tầng lớp nhân dân ở
trong mặt trận, đồn thể.
Bên cạnh đó, các ơng cịn chỉ rõ mục đích của đồn kết tồn dân tộc là để
thực hiện mục tiêu: giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người; Sở dĩ tại sao phải đồn kết dân tộc, đó là vì kẻ thù của giai cấp vơ sản là
lực lượng quốc tế. Muốn đánh bại kẻ thù thì phải đồn kết dân tộc và đồn kết
quốc tế.
“Chỉ có giai cấp vô sản mới kết nghĩa anh em thật sự dưới ngọn cờ dân
chủ và chủ nghĩa cộng sản. Vì: giai cấp vơ sản tất cả các nước đều có chung lợi
ích, cùng chung một kẻ thù và cùng đứng trước một cuộc đấu tranh… chỉ có
những người vơ sản mới có khả năng xố bỏ sự cách biệt giữa các dân tộc, chỉ
có giai cấp vơ sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các dân tộc
khác nhau”.
Qua những luận điểm trên ta thấy rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra
tính tất yếu, sự cần thiết, con đường và phương pháp đồn kết,… Đó cũng chính

là nền tảng, cơ sở để hình thành các quan điểm chiến lược đoàn kết của các
Đảng Cộng sản trên tồn thế giới.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn được hình thành và phát triển cùng với tồn
bộ q trình hoạt động lý luận và thực tiễn của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước hết, với Hồ Chí Minh, đồn kết, đại đồn kết, khơng phải là một
thủ đoạn chính trị nhất thời mang tính chất sách lược mà là một vấn đề mang
tính chiến lược có ý nghĩa sống còn lâu dài, quyết định thành bại của cách mạng.
Thứ hai, đoàn kết, đại đoàn kết, trong nhận thức của Hồ Chí Minh, khơng
đơn giản là phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, mà cao hơn, nó
chính là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến
lược cách mạng. Nó trở thành mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.



Mác - Ăngghen toàn tập, Tập 2, tr. 792.


5
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết tồn dân. Đồn kết khơng chỉ
xuất phát từ sự cần thiết, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo cách mạng
mà là nhu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, của quần chúng nhân dân.
Trong tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh, đồn kết dân tộc là yêu cầu
chung cao nhất, là bộ phận quan trọng nhất. Đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh cơng - nơng - trí thức, xuất phát từ mục tiêu, vì nước vì dân. Để tập hợp
được lực lượng nhân dân và để phát huy được sức mạnh đoàn kết tồn dân cần
phải có một tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất. Khi đoàn kết phải
thật sự chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Đoàn kết, tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau: đoàn kết phải được xây
dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi

cơ bản của nhân dân lao động; phải dựa vào nhân dân để xây dựng khối đại đoàn
kết; phải đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, để khối đại đồn kết
lâu dài và bền vững - đây là nguyên tắc nhất quán của Hồ Chí Minh.
2. Căn cứ thực tiễn.
2.1. Thực tiễn cách mạng thế giới.
Tất cả các dân tộc trên thế giới đều có truyền thống u nước và tinh thần
đồn kết, dù rằng ở mỗi nước truyền thống đó được thể hiện không giống nhau.
Lịch sử các cuộc cách mạng thế giới đã cho ta thấy rõ điều đó.
Cách mạng tư sản Anh năm 1940 thắng lợi, một trong những nguyên nhân
của sự thắng lợi đó là đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân, được nhân
dân ủng hộ, đã chém đầu vua Sac - lơ I, dành quyền về tay giai cấp tư sản.
Tiếp đó là thắng lợi vang dội của cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) đã
cho ta những kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: hàng vạn những người nông dân
bước chân lên đường hát vang khúc hành ca đi chống lại giai cấp phong kiến.
Cũng như thế, sức mạnh đoàn kết dân tộc lại đưa đến thành công cho cách
mạng tư sản Mỹ (1764 - 1776); cách mạng tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vô
sản đầu tiên trên thế giới, đã cho chúng ta bài học liên minh công nông dưới sự
lãnh đạo của Đảng nhờ sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc.
Điểm qua những cuộc cách mạng tiêu biểu ấy cho thấy rằng: đoàn kết đi
liền với thắng lợi của cách mạng. Từ đó, đã cho Đảng ta những kinh nghiệm quý
báu về đoàn kết dân tộc trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của mình.
2.2. Thực tiễn Việt Nam


6
Đất nước Việt Nam, một dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió
mùa, quay mặt ra biển Đông, lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện
địa lý tự nhiên và vị trí quan trọng của mảnh đất này, những cư dân người Việt
từ thuở xa xưa vừa được hưởng sự ưu đãi của đất trời vừa phải đối mặt với
những thử thách khắc nghiệt của thiên tai, địch hoạ. Lịch sử dựng nước và giữ

nước diễn ra trên mảnh đất này là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu
tranh không mệt mỏi, chống hạn hán bão lụt, chống chiến tranh xâm lược của
các thế lực bên ngoài. Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ đó, truyền thống đồn
kết đã được hình thành, xây dựng và vun đắp qua nhiều thế hệ.
Đến thời cận đại, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược,
nhiều phong trào yêu nước diễn ra rầm rộ và sôi nổi nhưng đều đi đến thất bại.
Một trong những nguyên nhân thất bại là chưa đoàn kết rộng rãi các giai cấp
trong cả nước.
Tổng kết lịch sử, Đảng ta đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu trong
đại đoàn kết dân tộc.
Căn cứ vào những cơ sở lý luận và thực tiễn ngay từ khi ra đời đến khi
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ln chú trọng xây
dựng, tăng cường khối đại đồn kết dân tộc.
Chương 2:


7
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ PHÁT HUY KHỐI ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.
1. Tình hình khối đại đoàn kết dân tộc trước những năm đổi mới.
Hơn 70 năm thực hiện chiến lược đại đoàn kết, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã tập hợp, phát huy sức mạnh dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác của quốc tế,
đưa cách mạng nước ta từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Mới 15 tuổi với 5000
đảng viên mà Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cách mạng tháng Tám
thành công. Thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống kẻ thù
xâm lược là Pháp và Mỹ cùng các thế lực thù địch có sức mạnh hơn ta rất nhiều
lần chính là nhờ Đảng và nhân dân ta đã thực hiện đường lối chiến tranh nhân
dân “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” như bài
học dựng nước và giữ nước của cha ông để lại. Đó chính là thắng lợi của đường
lối cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thắng lợi của ý chí

kiên cường, của lịng quả cảm và tinh thần đại đoàn kết của cả dân tộc. Thắng
lợi to lớn đó cịn thể hiện sức mạnh đồn kết quốc tế giữa nhân dân ta và nhân
dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân các dân tộc tiến bộ, u
chuộng hồ bình trên tồn thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những chiến công lừng lẫy ấy, Đảng ta cũng vấp phải
một số sai lầm gây ảnh hưởng lớn đến khối đại đồn kết dân tộc: Đó là sai lầm
trong tập hợp lực lượng giai đoạn 1930 - 1931 với khẩu hiệu “trí - phú - địa hào - đào tận gốc, trốc tận rễ’, quá đề cao vấn đề giai cấp coi nhẹ vấn đề dân tộc,
quá rập khn máy móc vào chủ nghĩa Mác - Lênin ;thời kỳ 1945 - 1954: chúng
ta đã huy động quá sức dân, thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do quá sớm;
thời kỳ 1950 - 1958: khi tiến hành cải tạo xã hội chũ nghĩa ở miền Bắc, chúng ta
tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản ở thành thị, đã gây tang thương lớn
trên khắp miền Bắc. Đặc biệt, trong những năm đầu của thời kỳ mới (1976 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi
quan trọng, đồng thời cũng mắc những sai lầm, mà một trong những nguyên
nhân sai lầm là do chúng ta chưa nghiên cứu, kế thừa, phát triển đúng đắn chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới.
Từ cuối những năm 70, đầu những năm đầu 80 của thế kỷ XX , nước ta
thật sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, tình hình thế giới và trong
nước rất không thuận lợi cho ta. Chúng ta phải đánh bại hai cuộc chiến tranh
biên giới; giúp đỡ nhân dân Cămpuchia thốt khỏi bọn diệt chủng PơnPốt, xây


8
dựng và giữ vững chính quyền cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc và những nước tư
bản theo Mỹ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận đối với nước ta, làm cho
kinh tế nước ta càng khó khăn hơn. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu lâm vào khủng hoảng, viện trợ kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa anh em
đối với nước ta hầu như khơng cịn nữa. Trong nước lại xuất hiện tâm lý muốn
đẩy nhanh q trình khơi phục, phát triển đất nước để mau chóng bù đắp những
hy sinh, tổn thất trước đây. Mặt khác, sau thắng Mỹ, tâm lý chủ quan tự cho
rằng chúng ta đủ sức làm tất cả đã xuất hiện khá phổ biến.

Tất cả những yếu tố khách quan, chủ quan trong nước, ngồi nước nói
trên đã đẩy tới sự nơn nóng, duy ý chí. Do vậy, các kế hoạch cải tạo xã hội chủ
nghĩa , xây dựng, phát triển kinh tế trên quy mô lớn đã được triển khai ồ ạt trên
phạm vi cả nước, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp không được tính toán đầy đủ
và kết hợp hợp lý. Những việc làm ấy, trên thực tế, đã vi phạm các nguyên tắc
của chiến lược đại đoàn kết , ảnh hưởng lớn đến khối đồn kết dân tộc, khối liên
minh cơng nơng bị lỏng lẻo, có nguy cơ rạn nứt; quần chúng giảm sút lịng tin
đối với Đảng, Nhà nước.
2. Q trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về đại đoàn kết dân tộc
Đứng trước tình thế của đất nước, với bản lĩnh của một Đảng đã được tôi
luyện lâu dài trong thử thách, dạn dày kinh nghiệm, Đảng ta kịp thời khởi xướng
công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đường
lối đổi mới tồn diện đất nước, đó thật sự là một mốc quan trọng, tạo ra một
bước chuyển biến căn bản trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, trong
việc xây dựng và cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Đổi mới nhằm xác định lại
vị trí của nhân dân trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, từ đó, mà xác định rõ
hơn vị trí của đại đồn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới; xác định các yếu tố cơ
bản, nhấn mạnh điểm tương đồng, chỉ rõ trách nhiệm và các hình thức, biện
pháp để thực hiện đại đồn kết.
2.1. Nhận thức rõ vị trí đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về
đại đồn kết tịan dân tộc đã có bước phát triển mới.
Đại hội VI của đảng đã chỉ ra bốn bài học lịch sử thấm đượm sâu sắc tinh
thần đại đồn kết dân tộc, trong đó nổi bật là hai bài học lớn: lấy dân làm gốc và
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, thực hiện đại đoàn kết


9
quốc tế. Từ đó, Đại hội khẳng định khẩu hiệu: dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra. Đồng thời, Đại hội đã nêu: trong bối cảnh quốc tế hiện nay, yếu tố dân
tộc trở thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng.Từ đó Đảng ta đã xác định Đại
đồn kết dân tộc là nguồn sức mạnh và là động lực chủ yếu của cách mạng, là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Trung ương 8 đã ra quyết định
8B (ngày 27-3-1990) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự
nghiệp của dân, do dân, vì dân, cần phát huy hơn nữa khả năng to lớn của nhân
dân. Điều này có ý nghĩa quyết định to lớn ở thời điểm này khi mà Đảng đang
có nguy cơ xa rời quần chúng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đã được nâng lên tại Đại hội lần thứ VII
của Đảng (6 - 1991). Đại hội diễn ra trong bối cảnh hết sức đặc biệt: Chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xơ sụp đổ, kẻ thù hí hửng chống phá sự nghiệp cách mạng của
chúng ta. Đại hội đã chỉ ra những phương hướng rất mới, ghi một dấu mốc quan
trọng về đoàn kết. Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ, kinh tế tri thức có vai trị ngày càng quan trọng trong quá trình
phát triển lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận thức rõ hơn vị trí, vai trị của các giai
tầng trong xã hội, nhất là của tầng lớp tri thức, chủ trương mở rộng khối đại đoàn
kết. Lần đầu tiên, trong cương lĩnh năm 1991, Đảng nêu lên khái niệm mới về
khối liên minh công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đồn kết toàn dân tộc.
Đường lối đại đoàn kết dân tộc của Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thể hiện cụ
thể trong nghị quyết bảy của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VII. Đây là một nghị quyết phản ánh tập trung nhất sự kế thừa và phát triển tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở khẳng định
quan điểm đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong lịch sử
dựng nước và giữ nước, nghị quyết đã phân tích q trình lịch sử và bối cảnh
tình hình đất nước hiện nay, đề ra chủ trương phải tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, đưa khối đại đoàn kết
toàn dân lên tầm cao mới và chiều sâu mới. Những phát triển mới trong quan
điểm, chủ trương về đại đoàn kết dân tộc đã tạo cơ sở để tăng cường đoàn kết

quốc tế, đề ra những định hướng đúng đắn để phát huy sức mạnh của khối đại
đồn kết dân tộc, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới.


10
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, những quan điểm, chủ trương
về đại đoàn kết dân tộc càng được phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã
tiếp tục khẳng định vị trí của khối đại đồn kết dân tộc đồng thời nêu lên:
“Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi
mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc
đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.
Những chủ trương về đại đoàn kết dân tộc đã thúc đẩy công cuộc đổi mới,
trở thành động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đây là một bước phát triển
mới quan trọng trong tư duy lý luận về động lực cách mạng của Đảng ta trong
thời kỳ mới. Điều đó được khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và trở thành chủ đề
của Đại hội này. Đại hội khơng chỉ xác định đại đồn kết là đường lối chiến lược
nhất quán mà còn một lần nữa nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân, nơng dân và
trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế trong xã hội”.
Như vậy, so với các động lực khác, đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực tổng
hợp và là động lực to lớn nhất. Nghị quyết hội nghị trung ương 7 khố IX “Về
phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh” đã coi đại đoàn kết toàn dân tộc “là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, vì nó liên quan đến sự
sống còn và phát triển của dân tộc. Đây là một bước phát triển mới về tư duy đại
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta.
Tiếp tục đường lối được xác định trong các Đại hội trước, Đại hội X đã

nhấn mạnh vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xem đó là một trong bốn
thành tố của chủ đề Đại hội: “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục
đổi mới tồn diện, đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
Trong nội dung của Đại hội X có phần 6 nói về phát huy dân chủ, sức mạnh
đại đồn kết dân tộc, trong đó vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn tiếp tục được
khẳng định đây là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh,
là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.


11
2.2. Xác định các yếu tố quan trọng và điểm tương đồng mới để thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng hoà bình, thực hiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đi từ sự thống nhất về lợi ích. Đặt
đúng vị trí của yếu tố lợi ích không chỉ là sự đổi mới tư duy về đại đoàn kết tồn
dân tộc, mà cịn về tồn bộ cơng cuộc cách mạng hiện nay.
Các Mác đã từng nhấn mạnh vai trị của lợi ích trong việc thúc đẩy mọi
hành động của con người. Lênin đã khẳng định: khi nói đến mối liên hệ giữa
Đảng và nhân dân phải lưu ý mặt nội dung, tức lợi ích giữa Đảng và quần
chúng.
Nước ta chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, nên yếu tố lợi ích dễ bị
xem thường nhất là trong lĩnh vực chính trị. Khác với các thời kỳ trước đây, lợi
ích cá nhân ln đặt cuối cùng cịn lợi ích tập thể là trên hết, khi nước ta bước
vào kinh tế thị trường, vấn đề lợi ích nổi lên như một yếu tố quan trọng hàng
đầu. Vì vậy, ngay trong báo cáo chính trị của Đại hội VI đã nêu rõ: “ Lợi ích
chính đáng của quần chúng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Trước mắt,
tập trung sức giải quyết những vấn đề có thể giải quyết được, phù hợp với từng
đối tượng”. Đại hội còn chỉ rõ: phải xây dựng cơ cấu giai cấp xã hội mới, thực

hiện đúng chính sách dân tộc, chính sách đồn kết, tự do tín ngưỡng.
Tư tưởng đại đồn kết cịn thể hiện đậm nét trong các phương hướng của
chính sách kinh tế, xã hội, đối ngoại. Nghị quyết trung ương 8B đã đề ra quan
điểm: Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của
nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công
dân. Như vậy, yếu tố quan trọng đầu tiên có tính quyết định bảo đảm thực hiện
đại đoàn kết toàn dân tộc là phải bảo đảm cơng bằng và bình đẳng xã hội; chăm
lo lợi ích thiết thực chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp
hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Đường lối đổi mới khởi
đầu cho một thời kỳ mới xây dựng và củng cố khối đại đồn kết dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là việc đổi mới tư duy kinh tế, đề ra chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần, coi trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao
động, nhằm liên kết và khai thác mọi tiềm năng của các tầng lớp nhân dân trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đó là việc quan tâm nhiều hơn đến chính
sách giai cấp ( bao gồm chính sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý mối
quan hệ giữa các lợi ích của các giai cấp) và chính sách dân tộc, nhấn mạnh việc


12
đặt con người vào vị trí trung tâm của chính sách kinh tế - xã hội, “ có kế hoạch
chủ động xây dựng cơ cấu giai cấp của xã hội mới, cụ thể hố và thực hiện đúng
chính sách dân tộc và chính sách tự do tín ngưỡng”. Đó là việc quan tâm đẩy
mạnh phát huy dân chủ trong xã hội, cũng cố liên minh cơng nơng và khối đại
đồn kết tồn dân tộc.
Trên cơ sở đó, Nghị quyết 7 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương
Đảng khố VII đã chủ trương đoàn kết mọi người trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và
người định cư ở nước ngồi, vì mục tiêu chung giữ vững độc lập, thống nhất,
chủ quyền quốc gia và tồn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thốt khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội, cơng bằng, văn minh. Đó chính là

điểm tương đồng để đoàn kết mọi người trong khối đại đoàn kết, đồng thời chấp
nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung, cùng nhau xoá bỏ định
kiến, mặc cảm, hận thù, xây dựng tinh thần tin cậy, cởi mở cùng hướng về tương
lai của dân tộc. Chương trình mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc cịn nhấn mạnh thêm tinh thần đồn kết khơng phân biệt quá khứ và ý
thức hệ, chân thành đoàn kết hoà hợp thành một khối thống nhất. Chủ trương
đoàn kết đó phù hợp với đặc điểm, tình hình đất nước, thể hiện truyền thống bao
dung, nhân ái của dân tộc và đường lối chính nghĩa của Đảng, Nhà nước ta.
Đường lối đó đã đi vào lịng người, được các tầng lớp nhân dân trong nước đồng
tình ủng hộ.
Chúng ta đã coi đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà
nước ta, là xuất phát điểm của mọi chủ trương chính sách, pháp luật trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phịng, đối ngoại nhằm đáp
ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai tầng trong xã hội, gắn bó
quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ cơng dân,
lấy lợi ích dân tộc làm trọng, tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm
triệt để giải phóng sức sản xuất xã hội, khuyến khích mọi người, mọi thành phần
kinh tế, phát huy cao độ mọi nguồn lực và tài năng sáng tạo, ra sức phát triển
sản xuất kinh doanh, làm giàu hợp pháp, cần kiệm xây dựng đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định những quan điểm trên, đồng
thời đề ra các chính sách cụ thể đối với các giai tầng, dân tộc trong nước, nhằm
tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân, trong


13
đó lần đầu tiên đề ra chủ trương bảo hộ sở hữu tài sản và vốn của các nhà doanh
nghiệp tư nhân, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi
cho kinh doanh, thực hiện tốt các nghĩa vụ mà luật pháp đã quy định. Trong tình
hình mới, chúng ta cũng khẳng định chủ trương coi kiều bào ta ở nước ngồi là

một bộ phận khơng thể tách rời của cộng đồng dân tộc, bảo hộ quyền lợi chính
đáng của kiều bào, giúp đỡ kiều bào trong cuộc sống và tạo điều kiện cho kiều
bào gắn bó, đóng góp xây dựng quê hương.
Cùng với yếu tố lợi ích, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu
nước cũng là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn của dân tộc ta trong
quá trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Dân
chủ là dòng chảy trong lịch sử nhân loại, là khát vọng của muôn đời. Nhân dân
ta rất coi trọng dân chủ. Muốn đồn kết thì phải dân chủ; dân chủ tăng cường
đoàn kết. Tư duy về dân chủ của Đảng ta cũng có sự phát triển trong mối quan
hệ với tư duy đại đoàn kết toàn dân tộc khi nhấn mạnh việc kết hợp nguyên tắc
tập trung dân chủ với nguyên tắc hiệp thương dân chủ để làm phong phú thêm
nền dân chủ ở nước ta.
Ba yếu tố nói trên có sự sắp xếp khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử,
làm cơ sở tạo ra điểm tương đồng để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong
cuộc đấu tranh với các thế lực ngoại xâm mạnh hơn mình nhiều lần và với thiên
nhiên vơ cùng khắc nghiệt, điểm tương đồng nằm ở chính sự tồn tại của cộng
đồng là chủ nghĩa yêu nước và ý thức đồn kết trong đấu tranh. Trước đây ta
thường nói: yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Cách nói đó trong điều
kiện mới - mà yêu cầu lớn nhất là tập hợp mọi lực lượng của dân tộc kể cả
những người vẫn còn mặc cảm với chủ nghĩa xã hội - cần có sự thay đổi. Do
vậy, ngay từ đại hội VII, Đảng ta đã nêu lên khẩu hiệu mới: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, đến Đại hội IX thì bổ sung từ “Dân chủ”
thành “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là mục tiêu
chiến lược tổng thể của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới. Đó cũng chính là
chủ nghĩa xã hội, nhưng được diễn đạt gần gũi, dễ hiểu hơn. Đây là điểm tương
đồng để đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta chỉ rõ trong nghị quyết 07NQ/TW ngày 17-01-1993 của Bộ Chính trị “Về đại đoàn kết toàn dân tộc và
tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”, “Phát huy truyền thống u nước, lịng
tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành



14
công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với
điểm tương đồng đó, Đảng ta đã tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân tiến
hành công cuộc đổi mới những năm cuối thế kỷ XX đạt nhiều thành tựu to lớn.
Hiện nay, đi vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước,
Đảng ta đã xác định điểm tương đồng là: “Giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điểm
tương đồng ngày nay tổng quát hơn, dễ đạt được sự nhất trí hơn, cả với đồng
bào trong nước và với kiều bào ta đang định cư ở nước ngoài. Để tạo ra sự tương
đồng về quan điểm, thái độ, trong Nghị quyết trung ương 7 khoá IX “Về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh”, vấn đề chống định kiến, phân biệt đối xử với người
ngoài Đảng được nêu lên một cách đậm nét: “Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân
biệt đối xử về quá kh, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”. Đây là thực sự là một quan điểm rất mới, là
thành quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta: thay thuật ngữ “Đại
đoàn kết toàn dân” bằng thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” với nội hàm đầy
đủ hơn, toàn diện hơn.
Phần 2 và phần 3 của Nghị quyết về công tác dân tộc và cơng tác tơn giáo
đã cụ thể hố tư tưởng của Đại hội IX. Việc đoàn kết các dân tộc thiểu số được
xác định trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát
triển. Việc đoàn kết đồng bào theo đạo được khẳng định trên ngun tắc coi tín
ngưỡng tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nghiêm
cấm sự phân biệt đối với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo, đồng thời cũng
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Điểm tương đồng khơng phải là cái gì cứng nhắc, bất biến. Trong diễn

văn bế mạc hội nghị Trung ương 7 (Phần 2) khố IX, Tổng Bí thư Nơng Đức
Mạnh nói: “Nếu hiểu một cách sâu sắc đó có nghĩa là chúng ta cần làm rất nhiều
để các điểm tương đồng ngày càng được phát huy và nhân lên, những điểm còn
khác nhau ngày càng giảm thiểu”. Điều này trái ngược với ý kiến cho rằng càng
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, các mâu thuẫn ngày càng gay gắt, quyết
liệt.


15
Đại hội X trên cơ sở phát huy tinh thần của Nghị quyết Trung ương 7 khoá
IX đã nêu rõ: “Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.
Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội”.
2.3. Về trách nhiệm thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
2.3.1. Đại đoàn kết là trách nhiệm của tồn dân tộc, là cơng việc của mỗi
người dân.
Kế thừa tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh, cũng như tư tưởng đoàn kết
của các thế hệ đi trước, bước vào đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định lại: Đại
đồn kết khơng phải là nhiệm của riêng ai mà nó là trách nhiệm của tồn dân
tộc, là cơng việc của mỗi người dân. Nghị quyết Trung ương 8B của Đảng đã
chỉ rõ: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cần phát huy khả năng
to lớn của nhân dân. Nghị quyết xác định công tác quần chúng là trách nhiệm
của Đảng, của chính quyền, đồn thể, vì thế tất cả mọi người đều làm cơng tác
quần chúng. Để tăng cường đoàn kết, chúng ta chủ trương thực hiện tốt các
chính sách xã hội trong điều kiện đất nước vừa trải qua chiến tranh như các
chính sách: đền ơn đáp nghĩa đối với những người có cơng với nước, tham gia
vào các việc cơng ích, các hoạt động nhân đạo từ thiện, giúp nhau xố đói giảm
nghèo, phát huy truyền thống nhân nghĩa của cha ông. Trong điều kiện đã có
chính quyền, để thực hiện đại đồn kết dân tộc, chúng ta đã chủ trương xây dựng
chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực cao, thực sự là nhà

nước của dân, do dân, vì dân. Chính quyền nhân dân phải làm mọi việc để bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của dân, giữ vững trật tự, kỉ cương phép nước,
xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, bảo vệ và chấn hưng nền văn
hố dân tộc đi đơi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, giữ vững an ninh
quốc phịng, mở rộng đồn kết quốc tế.
Để nâng cao trách nhiệm của toàn dân tộc, Đảng ta đặt vấn đề phải xây
dựng sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận xã hội khác với tập trung dân chủ nguyên tắc thường được dùng cho các tổ chức có tính thống nhất cao. Ngun
tắc đồng thuận xã hội địi hỏi mọi thành viên (ít ra là đa số) đồng ý thoả thuận
đối với nguyên tắc chung và ý chí chung. Một quyết định được thông qua phải là
“mẫu số chung” cho mọi thành viên có thể có nhiều sự khác nhau. Sự đồng
thuận xã hội không nhằm đạt tới sự cố kết xã hội, nhưng cũng chống lại sự phân
biệt xã hội.


16
Xã hội ta phát triển ngày càng đa dạng. Nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế làm xuất hiện nhiều giai tầng với những lợi ích khác nhau, nước ta lại là
nước đa dân tộc, đa tôn giáo, Đảng đã chỉ ra “mẫu số chung” cho tất cả những
điểm khác nhau đó là điểm tương đồng.
Để xây dựng đồng thuận xã hội, Đảng ta coi trọng công tác tư tưởng trong
nhân dân, đa dạng hố các hình thức tun truyền, mở rộng và nâng cao chất
lượng giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội,
đạo đức nghề nghiệp và đạo đức gia đình.
Sự đồng thuận xã hội tất yếu dẫn đến các phong trào thi đua yêu nước.
Đảng ta quan niệm các phong trào thi đua yêu nươc trong thời kỳ mới đều phải
nhằm vào mục tiên đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, tập trung vào ba lĩnh vực: Thi đua làm kinh tế giỏi,
xố đói, giảm nghèo; thi đua xây dựng đời sống văn hoá, ngăn chặn, đẩy lùi các
hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội và các sản phẩm văn hoá độc hại; xây

dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
2.3.2. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, bao gồm Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân, trong đó nhấn mạnh vai
trị hạt nhân lãnh đạo là Đảng. Đảng nằm trong khối đại đồn kết dân tộc chứ
khơng đứng trên khối đại đồn kết tồn dân tộc và là hạt nhân khơi đại đồn kết
ấy. Hạt nhân ấy có vững mạnh mới có những “lực hút” mạnh bảo đảm khối đại
đoàn kết vững mạnh. Kinh nghiệm thực tế vừa qua chỉ ra rằng, ở những nơi có
tình hình lộn xộn, mất đồn kết chính vì nơi đó tổ chức Đảng yếu kém, mất đồn
kết.
Nhà nước có vai trị to lớn trong việc thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc
khơng phải chỉ bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật được coi là có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, mà phải có
trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu quả
thơng qua bộ máy cơng quyền trong sạch, cơng tâm, hết lịng phục vụ nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
sự tự nguyện của các đồn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, mặt trận và các tổ chức
thành viên “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi phối hợp thống
nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của


17
Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia với Đảng và nhà nước thực hiện và
giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các
tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại; góp phần tăng cường mối liên
hệ giữa nhân dân với Đàng và Nhà nước” như văn kiện Đại hội lần thứ VIII của
Đảng đã nêu.
2.3.3. Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở trong từng cộng đồng dân cư
nhỏ như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố.

Qua thực tế, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của cơ sở nên đã
có nhiều chủ trương tăng cường cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng sớm
nhận ra vấn đề này từ hơn mười năm nay với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”.
“Tồn dân đồn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Tập trung vào các vấn đề: Xây dựng phong trào toàn dân thi đua
làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp, từng gia đình làm giàu cho mình, cho cộng
đồng, cho đất nước; xố đói giảm nghèo phấn đấu hàng năm có thêm nhiều đơn vị,
địa phương khơng cịn hộ nghèo. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân xây
dựng đời sống văn hoá” và các cuộc vận động ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng
tiêu cực, tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm độc hại. Xây dựng phong trào cả nước trở
thành một “xã hội học tập”, “học tập suốt đời”, trước hết trong cán bộ, đảng viên và
thế hệ trẻ. Tôn vinh người tốt; bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến, lên
án và phê phán đấu tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, những hành động coi thường kỉ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ
để vi phạm pháp luật, Hơn 5 năm trở lại đây, cuộc vận động xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có những kết quả bước đầu rất quan trọng.
3. Kết quả và hạn chế trong việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn
dân tộc
3.1. Kết quả
Với sự đổi mới tư duy, sau Đại hội VI của Đảng ngày 27/03/1990, Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã đề ra Nghị quyết 8B với bốn quan điểm chỉ
đạo, đổi mới công tác dân vận. Tháng 11 năm 1993, Bộ Chính trị khố VII đã
ban hành Nghị quyết 07 về đại đoàn kết toàn dân tộc và tăng cường Mặt trận dân
tộc thống nhất. Nghị quyết Trung ương 4 khố VIII về cơng tác thanh niên ra
đời. Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khố VI, VII, VIII đã có nhiều nghị quyết, chỉ


18
thị về các vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhiều đối tượng nhân dân khác. Bước vào

thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Hội nghị
Trung ương 7 (Phần 2) khoá IX đã ra ba nghị quyết “về phát huy sức mạnh đại
đồn kết tồn dân tộc vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”; “công tác dân tộc”, “công tác tôn giáo”. Các văn kiện của Đảng về kinh
tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước,
Mặt trận, Đoàn thể nhân dân đều có nội dung về tăng cường cơng tác dân vận,
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều cấp uỷ đảng đã chú trọng lãnh đạo
công tác dân vận, củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ cho mặt công tác này.
Ban Dân vận các cấp được củng cố lại và đẩy mạnh hoạt động.
Nhà nước đã ban hành hiến pháp 1992 (đã qua bổ sung, sửa đổi một số
điều) và nhiều đạo luật, chính sách chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Luật
pháp ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện pháp lý cho mọi hoạt động trong
xã hội. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có những chuyển biết quan
trọng trong việc thực hiện chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và của các địa phương.
Chính phủ đã thực hiện có kết quả nhiều chính sách, chương trình dự án
về phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội… cơng tác dân vận
của chính quyền có tiến bộ.
Các lực lượng vũ trang làm cơng tác dân vận có hiệu quả, nhất là trên
những địa bàn khó khăn, phức tạp. Các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ
chức kinh tế, xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở… đã
thực hiện nhiều cơng việc cụ thể, thiết thực, góp phần vào sự nghiệp đại đồn
kết tồn dân tộc. Chính quyền nhà nước các cấp và ngành đã có nhiều hình thức
phối hợp cơng tác với Mặt trận và các Đồn thể nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, xã hội từng bước được thể chế hóa. Việc xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở được triển khai trở thành một cuộc vận động lớn ngày càng
sâu rộng. Việc tiếp xúc cử tri, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
được chú ý hơn. Chương trình cải cách hành chính được tiến hành bước đầu đạt
được một số kết quả tích cực.Việc tập hợp nhân dân với các hình thức đa dạng

có bước phát triển mới.
Mặt trận tổ quốc các cấp đã mở rộng các tổ chức thành viên, tích cực
hướng dẫn cơ sở và khu dân cư hoạt động, phát huy dân chủ, tham gia xây dựng


19
và giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, mở rộng và đổi mới hoạt động
đối ngoại nhân dân, không ngừng đổi mới và củng cố bộ máy tổ chức, càn bộ.
Vị trí, vai trị của Mặt trận tiếp tục được nâng lên, nhất là sau khi Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam được ban hành.
Các đoàn thể nhân dân đã có bước chuyển biến quan trọng trong việc tập
hợp, động viên và chăm lo lợi ích đồn viên, hội viên, gắn kết các lợi ích của
đồn viên, hội viên với đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước; coi trọng sinh hoạt dân chủ và những hình thức tập hợp quần chúng đa
dạng.
Số hội quần chúng có quy mơ tồn quốc tăng gấp đơi so với năm 1990
(Năm 1990 có 116 hội, năm 2001 có 235 hội), chưa kể các hội, các quỹ, các ban
liên lạc, các câu lạc bộ được thành lập ở các địa phương, cơ sở. Các hiệp hội
nghề nghiệp phát triển đa dạng. Nhiều hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng của hội viên được hội viên tham gia một cách tự giác.
Trong công tác tổ chức, tập hợp nhân dân, việc phát huy vai trò của cộng
đồng dân cư và gia đình được coi trọng. Các hình thức tự quản ở khu dân cư
phát triển phong phú. Việc nhân dân bầu trực tiếp trưởng thôn, làng, ấp, bản, tổ
dân phố, xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước là những nét mới trong
phong trào tự quản của nhân dân.
Mặc dù trải qua nhiều khó khăn, thử thách trong tình hình thế giới đầy
biến động, xã hội ta cơ bản vẫn ổn định về chính trị, kinh tế phát triển, an ninh quốc phòng được tăng cường.
Đại bộ phận nhân dân ra ủng hộ và hăng hái thực hiện đường lối đổi mới
do Đảng lãnh đạo, tin tưởng ở tương lai cuộc sống sẽ ngày càng tốt đẹp hơn.
Cuộc thăm dò dư luận gần đây nhất cho con số 72% người đựơc hỏi tin tưởng ở

tương lai.
Khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí
thức - nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc được tiếp tục giữ vững.
Dân chủ xã hội được phát huy, các cơ chế dân chủ đại diện, dân chủ trực
tiếp có bước phát triển và được thực hiện tốt hơn, nhất là dân chủ về kinh tế, dân
chủ ở cơ sở, do đó bước đầu đẩy mạnh khơng khí dân chủ, cởi mở trong xã hội.
Nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào thi đua yêu nước trong nhân dân
được phát động, nổi bật là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”; phát huy dân chủ ở cơ sở; xố đói giảm nghèo; bảo vệ trật tự trị an;


20
xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân; đền ơn đáp nghĩa; nhân
đạo, từ thiện… đã cổ vũ hàng triệu đồng bào đoàn kết phấn đấu vì mục tiêu
chung. Phong trào tồn dân làm kinh tế bước đầu phát triển. Phong trào khuyến
học, khuyến tài có nhiều nhân tố mới.
Các chính sách về kinh tế, văn hố, xã hội, các chương trình dự án được
triển khai có nhiều tác động sâu sắc đến các tầng lớp nhân dân, kể cả những
người trước đây có nhiều mặc cảm như những người trong thành phần kinh tế tư
nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài…
Những năm đổi mới, lợi ích của mỗi thành viên và cộng đồng xã hội động lực của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân được quan tâm đáp ứng
một bước. Nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý mới thơng thống hơn
đã được ban hành và đang khơng ngừng hồn thiện, có tác dụng giải phóng lực
lượng sản xt và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới tương ứng. Chủ trương đa
dạng hoá các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất đã khuyến khích và tạo điều kiện phát triển sản xuất và kinh doanh. Các
chính sách xã hội mới đã góp phần khắc phục những hậu quả chiến tranh.
Những sự ngăn cách do chiến tranh để lại đã dần dần được khắc phục, làm cho
các tầng lớp trong xã hội xích lại gần nhau hơn, nhất là đối với những người
trước đây đã sống và làm việc trong chế độ Sài Gịn từ trước ngày 30/04/1975,

các nhân sĩ, trí thức, các nhà doanh nghiệp tư nhân, đồng bào có đạo, kiều bào ở
nước ngoài…
Những tiến bộ trong sinh hoạt dân chủ xã hội, nhất là những kết quả bước
đầu của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải tiến sinh hoạt dân chủ của
Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội…là những tiến bộ cần được ghi nhận,
đã có tác dụng tích cực nhất định đối với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Trong thực tế cuộc sống ngày nay, chúng ta trân trọng những bước tiến dù còn
khiêm tốn, nhưng rất cố gắng trong đời sống dân chủ ở nước ta. Nghị quyết hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã đề ra quan điểm
mới: Kết hợp việc thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng với chế độ
hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc sẽ làm phong phú thêm
sinh hoạt dân chủ của xã hội ta. Đây là một bước phát triển trong việc tăng
cường dân chủ để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta trong thời kỳ đổi
mới. Cần nghiên cứu một số cơ chế cụ thể để thực hiện sự kết hợp giữa tập trung
dân chủ trong Đảng với hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận để làm cho



×