Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

thuyết minh về đại nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.16 KB, 20 trang )

Nội dung bài thuyết minh Đại Nội - Huế
Xin kính chào quý khách, tôi tên là……., hôm nay tôi sẽ trực tiếp đưa quý khách đến thăm điểm di
tích Đại Nội – Huế.
Trải qua nhiều biến động của lịch sử, 143 năm triều đại nhà Nguyễn (1802 - 1945) đã để lại cho Huế
một hệ thống kiến trúc cung đình đa dạng và mang tính hệ thống cao gồm thành hào, cung điện, đền đài,
lăng tẩm tráng lệ. Tiêu biểu trong quần thể di tích Cố Đô Huế là Kinh thành cổ kính.
Bảo vệ Kinh đô, bảo vệ ngôi báu và đức Vua, hoàng gia và triều đình trước những hiểm họa tấn
công từ bên ngoài là việc làm đầu tiên của vương triều mới. Do đó, sau khi chiếm lại Phú Xuân, thống
nhất đất nước, năm 1802 Gia Long lên ngôi và sau đó Vua cho xây dựng Kinh thành Huế.
Theo nguyên tắc kiến trúc truyền thống dựa vào Dịch học, phong thủy học, vũ trụ quan phương
Đông, các nhà kiến trúc đầu thế kỉ XIX đã quy hoạch, bố trí hệ thống thành quách, cung điện quay về
hướng Nam:
“Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ” (Vua quay mặt về hướng Nam để nghe thiên hạ nói) ý
nói Vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ.
- Núi Ngự Bình dùng làm tiền án để che chắn Kinh thành tránh những luồng khí độc từ bên ngoài
vào.
- Sông Hương là yếu tố minh đường thủy tụ tích đức cho con cháu.
- Cồn Hến và Cồn Dã Viên trên sông Hương làm Tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ theo thế rồng
chầu hổ phục.
Kinh thành Huế gồm có 3 vòng thành:
- Vòng ngoài cùng gọi là Kinh thành.
- Vòng thành thứ 2 gọi là Hoàng thành.
- Vòng thành thứ 3 gọi là Tử Cấm Thành.
Kinh thành Huế được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu thành Vauban (tên một kỹ sư công binh
người Pháp sống vào thế kỷ XVII). Kiểu kiến trúc Vauban này tạo cho Kinh thành Huế hình sao (1 trong
10 thành phố trên thế giới có thành xây theo hình ngôi sao). Thành có chu vi 11km với diện tích mặt bằng
là 520 ha, mặt thành dày 21m và cao 6m06 gồm có 10 cửa đường bộ và 2 cửa đường thủy thông Kinh
thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Ngoài ra
Kinh thành còn có 1 cửa thống với Trấn Bình Đài (thành phụ ở góc Đông Bắc của Kinh thành, còn gọi là
thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn Bình Môn.
Với mục đích phòng thủ là chính, mặt bằng của thành có dạng hình vuông hơi khum ở phía trước


theo địa hình dải đất dọc bờ sông Hương, mỗi mặt có các cổng thành, trên có vọng lâu dùng để quan sát.
Các mặt thành lại được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các
pháo nhãn, đại bác, kho đạn… Thêm vào đó, hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài được đào gần 10km
chiều dài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao
thông đường thủy có chiều dài hơn 7km (đoạn ở phía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An Hòa,
đoạn phía Đông là sông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương).
“Thành cao hào sâu”. Tổng thể kiến trúc Kinh thành Huế cho thấy đây là 1 pháo đài phòng thủ đồ
sộ, kiên cố, đồng thời lại có tính nghệ thuật cao.
Quý khách hãy phóng tầm mắt ra xa phía trước mặt và quan sát. Chính giữa mặt Nam kinh thành là
Kỳ Đài dùng để treo cờ hay còn gọi là Cột cờ Huế. Đây là cột cờ cao nhất Việt Nam, được xây dựng vào
năm 1807 dưới triều Vua Gia Long. Kỳ Đài có tổng chiều cao là 54m05 được chia làm 2 phần: Đài cờ và
Cột cờ.
- Đài cờ cao 17m05 gồm 3 tầng tượng trưng cho Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa theo thuyết Tam
tài của phương Đông. Trong dân gian xứ Huế có câu ca dao:
“Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba bậc, Phu Văn Lâu hai tầng”
- Cột cờ cao gần 37m trước đây làm bằng gỗ. Năm 1904 sau trận bão lịch sử năm Thìn, cột cờ bị
gãy, Vua Thành Thái cho đúc lại bằng gang. Năm 1947, cột cờ bị chiến tranh phá hủy và được đúc lại
bằng xi măng cốt thép như hiện nay.
Trước năm 1945, vào những dịp đại lễ của triều đình, người ta treo lên cột cờ lá cờ màu vàng dài
4m, rộng 3m06 . Ở giữa lá cờ thêu hình con rồng khá lớn. Sau đó được thay bằng cờ tổ quốc như hiện
nay.
Phía trước Đại Nội là khoảng sân rộng thường diễn ra các đại lễ của triều đình như:
- Lễ Truyền lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa).
- Lễ Ban sóc (ban lịch năm mới).
- Lễ Duyệt binh.
Trong lòng Kinh thành là Hoàng thành và Tử Cấm Thành, còn gọi chung là Đại Nội, nơi mà đoàn
chúng ta đang đứng đây. Đây là trung tâm chính trị và hành chính của triều Nguyễn và là nơi ăn ở, sinh
hoạt của Hoàng gia. Hoàng thành là vòng thành thứ hai trong Kinh Thành, được xây dựng bằng gạch, cao
hơn 4m, dày hơn 1m, tổng diện tích gần 38 ha, với hơn 147 công trình lớn nhỏ. Bên ngoài có hệ thống hồ

bao bọc gọi là Kim Thủy hồ. Thành gồm 4 cửa ra vào theo 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc, đối xứng
nhau và được bố trí rất chặt chẽ:
- Cửa Hiển Nhơn nằm ở phía Đông là cửa dành cho nam giới và quan lại ra vào.
- Cửa Chương Đức ở phía Tây dành cho nữ giới từ Hoàng Quý Phi cho đến nữ tỳ ra vào.
- Cửa Hòa Bình ở phía Bắc và Ngọ Môn ở phía Nam dành cho Vua đi và đoàn ngự đạo theo hầu.
Hoàng thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong là khu vực cực kỳ trọng yếu, được xây dựng
theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối, nghiêm minh, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam
hữu nữ”, “tả văn hữu võ”, “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian). Tất
cả các công trình trong Hoàng thành đều được bố trí đối xứng nhau qua đường Dũng đạo. Gồm các khu
vực chính:
• Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài
quan sát.
• Khu vực cử hành đại lễ: gồm từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa.
• Khu vực miếu thờ: được bố trí ở phía trước hai bên trục dọc của Hoàng thành theo thứ tự từ trong
ra gồm:
* Bên trái có:
- Triệu Tổ Miếu: thờ Nguyễn Kim.
- Thái Tổ Miếu: thờ các chúa Nguyễn.
* Bên phải có:
- Hưng Tổ Miếu: thờ Nguyễn Phúc Luân (cha Gia Long).
- Thế Tổ Miếu: thờ Vua Nguyễn.
* Ngoài ra còn có Điện Phụng Tiên: nơi thờ các vị vua và Hoàng hậu nhà Nguyễn (dành cho các bà
mẹ và vợ Vua đến cúng lễ).
• Khu vực dành cho bà nội và mẹ Vua: phía sau bên phải, gồm hệ thống:
- Cung Trường Sanh: dành cho Thái Hoàng Thái Hậu (bà nội của Vua).
- Cung Diên Thọ: dành cho Hoàng Thái Hậu (mẹ của Vua).
• Khu vực dành cho các Hoàng tử học tập, giải trí (phía sau bên trái) như Vườn Cơ Hạ, Điện Khâm
Văn,…
• Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho Hoàng gia (phía trước
Vườn Cơ Hạ).

• Khu vực Tử Cấm Thành (nằm trên cùng một trục Bắc – Nam với Hoàng Thành và Kinh Thành).
Ở đây thể hiện rõ nét ý thức tập trung quân chủ, mọi quyền lực thuộc về tay nhà Vua, tất cả đều nhất
nhất chiếu theo quy định mà thực hiện, “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”,… (nam có lối đi riêng, nữ có
lối đi riêng; quan văn một bên, quan võ một bên,…)
Nơi mà đoàn chúng ta đang đứng đây là Ngọ Môn, là cổng chính của Hoàng thành nhìn về hướng
Nam, được xây dựng vào năm 1833 dưới thời Vua Minh Mạng thay cho Nam Khuyết Đài dưới thời Vua
Gia Long.
“Ngọ” có nhiều nghĩa:
- Ngọ là giờ Ngọ, là lúc mặt trời lên cao nhất trên thiên đỉnh, Vua là bậc chí tôn nên ví với mặt trời
khi đúng Ngọ.
- Hướng Nam thuộc hướng Ngọ trên trục Tý – Ngọ là trục Bắc – Nam.
Vì vậy, Ngọ Môn là cổng phía Nam, nên hiểu theo nghĩa không gian chứ không phải theo nghĩa thời
gian. Trong dân gian có câu: “Lấy vợ hiền hòa mà xây nhà hướng Nam”. Như vậy hướng Nam được xem
là hướng tốt, hướng của sinh khí.
Ngày xưa, cửa Ngọ Môn này thường đóng chặt quanh năm, chỉ được mở khi Vua ra vào Hoàng
thành có đoàn ngự đạo theo cùng và trong những dịp đại lễ Vua ra thành đi tế lễ ở Đàn Nam Giao hoặc
những dịp tiếp đón các sứ thần ngoại quốc quan trọng trong Hoàng Cung. Còn nếu Vua ra khỏi Hoàng
thành vì các mục đích khác (đi săn bắn, du thuyền,…) thì phải đi qua cửa Hòa Bình ở phía Bắc.
Nhưng Ngọ Môn không chỉ đơn thuần là một cái cổng mà nó là một tổng thể kiến trúc khá phức tạp.
Có hai phần gồm phần nền đài phía dưới và phần lầu bên trên.
* Nền đài Ngọ Môn được xây bằng đá thanh, đá quảng, gạch vồ, vôi vữa và đồng thau gồm có 5
cửa ra vào: 3 cửa chính diện thì cửa giữa dành cho Vua đi, 2 cửa 2 bên gọi là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp
Môn dành cho bá quan văn võ theo hầu trong đoàn ngự đạo. Ở trong lòng mỗi cánh chữ U còn trổ một lối
đi như đường hầm xuyên suốt từ trong ra ngoài gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn dành cho lính
tráng và voi ngựa theo hầu.
Trước đây, ở phía trước đường đi vào Ngọ Môn có dựng 2 tấm bia trên có khắc 4 chữ “khuynh cái
hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa) có nghĩa là những ai đi ngang qua đây đều phải xuống ngựa và
nghiêng nón cúi đầu để tỏ lòng thành kính. Nhưng đến thời Khải Định, nhà vua được Chính phủ bảo hộ
Pháp tặng cho 1 chiếc xe ô tô và mỗi lần đi vào đây đều phải xuống xe nên rất bât tiện. Do đó, nhà vua đã
cho cất giữ 2 tấm bia này. Hiện nay 2 tấm bia đã được cất giữ tại bảo tàng Cổ vật Huế - số 3 Lê Trực.

Hai bên Ngọ Môn này ngày xưa còn đặt 9 khẩu đại pháo gọi là “Cửu vị thần công” đã được vua Gia
Long sắc phong “Thần oai vô địch thượng tướng quân” nhưng sau đó đã được chuyển ra 2 bên cửa Thể
Nhơn (cửa Ngăn) và cửa Quảng Đức để bảo quản và tránh mưa nắng.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long ra lệnh tập trung tất cả những khí dụng bằng đồng tịch
thu được để đúc thành 9 khẩu thần công này làm “kỷ niệm muôn đời” về chiến thắng của mình và cũng là
thể hiện uy quyền của nhà Nguyễn.
- 4 khẩu ở cửa Ngăn tượng trưng cho tứ thời Xuân – Hạ - Thu – Đông.
- 5 khẩu ở cửa Quảng Đức tượng trưng cho Ngũ hành Kim – Thủy – Mộc – Hỏa – Thổ.
Mỗi khẩu nặng khoảng 10 tấn và trên thân có những hình hoa văn trang trí tinh xảo, có ghi rõ lai
lịch, danh hiệu, sắc phong và cả cách sử dụng nữa. Tuy nhiên, 9 khẩu đại pháo này chỉ có ý nghĩa tượng
trưng cho vinh quang chiến thắng và uy quyền của nhà Nguyễn chứ chúng chưa hề được đem ra sử dụng
lần nào.
Từ mặt đất thường, quý khách đi lên trên nền đài này bằng 2 hệ thống bậc cấp xây bằng đá thanh ở
2 bên nằm lộ thiên nhưng rất kín đáo. Quanh trên nền đài là hệ thống tường hoa lan can được trang trí
bằng nhiều kiểu gạch hoa đúc rỗng tráng men ngũ sắc.
* Phần lầu trên Ngọ Môn nơi mà đoàn chúng ta đang đứng đây có tên là Lầu Ngũ Phụng có hai
tầng, dưới lớn trên nhỏ, được làm bằng gỗ lim. Đây được xem như một lễ đài dùng để tổ chức những nghi
lễ quan trọng của triều đình: lễ duyệt binh, lễ ban sóc, lễ truyền lô,… Và cũng chính nơi đây, ngày
30/8/1945, vị Vua cuối cũng của triều Nguyễn là Bảo Đại đã thoái vị và trao chính quyền lại cho chính
phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (đại diện là Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Nguyễn Lương
Bằng) và ông đã nói rằng:
“Trẫm thà làm dân một nước tự do còn hơn làm Vua một nước nô lệ”
Lầu được gọi tên là Lầu Ngũ Phụng vì nhìn từ trên cao giống như hình 5 con chim Phụng đang xòe
cánh, chụm đầu lại với nhau. Lầu chính có 3 gian, 2 chái được sơn son thếp vàng, 2 bên có 2 Dực Lâu “tả
chuông hữu trống” chỉ được dùng vào những dịp nghi lễ quan trọng của triều đình. Lầu Ngũ Phụng có tất
cả 100 cây cột bằng gỗ Lim, tượng trưng cho trăm họ bách tính cùng hòa hợp. Trong đó có 48 cây cột
xuyên suốt cả 2 tầng. Lầu có 9 bộ mái lợp bằng ngói ống tráng men, ở đầu có đắp nổi hình chữ “Thọ”
tượng trưng cho sự vạn thọ, trường tồn của triều đại nhà Nguyễn. Trong đó, có 1 bộ mái cao hơn ở giữa
được lợp ngói màu vàng là nơi dành cho Vua ngự tọa gọi là ngói Hoàng lưu ly và 8 bộ mái còn lại lợp
ngói màu xanh được gọi là ngói Thanh lưu ly. Dân gian Huế có mấy câu viết về Ngọ Môn như sau:

“Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh
Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Sinh em ra phận gái, chớ hỏi chốn Kinh thành làm chi! ”
Như vậy, 3 câu đầu miêu tả Ngọ Môn nhưng ở câu cuối nói lên thân phận người phụ nữ dưới chế độ
phong kiến, quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Lúc bấy giờ, cấm tuyệt đối phụ nữ bước lên lầu Ngũ Phụng
này, phụ nữ cũng không được tham gia việc triều chính. Tuy nhiên, duy nhất đến thời Bảo Đại, ông đã
phá lệ đưa bà Nam Phương Hoàng Hậu lên đây để xem các cuộc lễ quan trọng của triều đình.
Xin mời quý khách vào bên trong ngay gian giữa của Lầu Ngũ Phụng để đoàn chúng ta tham quan
tiếp.
Ở đây có 1 bức tranh sơn dầu do họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàn vẽ vào năm 1992 tái hiện lại 1 trong 3 nghi lễ
lớn của triều đình là Lễ Truyền Lô (xứng danh các tiến sĩ tân khoa). Ngoài ra ở đây còn tái hiện 1 tấm bia
ghi danh các tiến sĩ triều Nguyễn từ khoa Nhâm Ngọ thời Minh Mạng năm thứ 3 (1822) đến khoa Kỷ Mùi
thời Khải Định năm thứ 4 (1919). Trên bia có ghi rõ họ tên và quê quán của 293 vị tiến sĩ. Danh sách các
vị tiến sĩ này trước đây được khắc trên các bia đá ở Văn Miếu.
Tôi xin mời đoàn chúng ta ra phía sau Ngọ Môn. Trước mắt quý khách là cầu Trung Đạo, qua sân
Đại triều là đến Điện Thái Hòa. Ở giữa có 1 con đường lát đá thanh gọi là đường Dũng đạo chỉ dành riêng
cho Vua đi. Quý khách có thể dành chút thời gian để chụp ảnh lưu niệm ở đây, sau đó đoàn chúng ta sẽ
tiếp tục.
Thưa quý khách, đây là cầu Trung Đạo, hai bên cầu là hồ Thái Dịch trồng sen, thả cá, ven hồ trồng
cây hoa sứ (cây đại) – loài cây tượng trưng cho sự tôn nghiêm, cao sang, quý phái của chốn Hoàng Cung.
Ở mỗi đầu cầu Trung Đạo là 1 phượng môn bằng đồng được trang trí tinh xảo với hình rồng vờn mây
quấn cột “Long vân đồng trụ”. Trên ngách mỗi phượng môn được trang hoàng bằng pháp lam ngũ sắc rực
rỡ. Phượng môn ở phía Nam mặt ngoài đề 4 chữ “Chính trực đăng bình”, mặt trong đề 4 chữ “Cư nhân do
nghĩa”. Phượng môn ở phía Bắc mặt ngoài ghi 4 chữ “Cao minh du cửu” và mặt trong là “Trung hòa vị
dục”.
Cầu Trung Đạo dẫn đến sân chầu trước Điện Thái Hòa là sân Đại Triều, còn được gọi là Bái Đình
hay Long Trì (sân rồng). Trước sân chầu là 2 con Nghê lớn bằng đồng đặt ở 2 bên góc sân (con Kì Lân
biến thể) có ý nghĩa là biểu tượng nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi, là con dân quy phục
trước triều đình, và cũng mang ý nghĩa là để giám sát lòng trung thành của các quan đối với nhà Vua khi

làm lễ thiết triều. Sân Đại Triều được chia làm 3 tầng:
- Tầng cao nhất gọi là “Đệ nhất bái đình” dành cho các quan từ Nhất phẩm đến Tam phẩm đứng
chầu.
- Tầng thứ nhì gọi là “Đệ nhị bái đình” dành cho các quan từ Tứ phẩm đến Cửu phẩm đứng chầu.
- Tầng thứ 3 gọi là “Đệ tam bái đình” dành cho các hương hào kỳ lão và bà con bên họ ngoại của
vua đứng chầu.
Dọc theo các tầng sân chầu này có các tấm bia gọi là bia “Phẩm sơn”. Các quan phải đứng chầu
theo phẩm trật của mình tương ứng với các tấm bia này và phải tuân theo nguyên tắc “Tả văn hữu võ”
(bên trái quan văn, bên phải quan võ).
Qua khỏi sân Đại Triều là đến Điện Thái Hòa. Xin mời cả đoàn chúng ta vào bên trong ngôi Điện.
Thưa quý khách, so với nhiều cung điện khác trong Hoàng Cung nhà Nguyễn, Điện Thái Hòa là
công trình kiến trúc nổi bật nhất về chức năng, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật,… Cung điện
này được bố trí ngay tại vị trí trang trọng nhất của Hoàng thành, bởi đó là nơi đặt ngai vàng của nhà vua –
một biểu tượng thiêng liêng nhất dưới chế độ phong kiến. Tại đây, các vua triều Nguyễn tổ chức lễ Đại
thiết triều vào ngày mùng 1 và 15 Âm lịch hàng tháng gọi là ngày Sóc và ngày Vọng. Và đây cũng là nơi
diễn ra các đại lễ của triều đình như: lễ Đăng quang (Vua lên ngôi), lễ Vạn thọ, lễ Tứ Tuần Đại Khánh
Tiết, Ngũ Tuần Đại Khánh Tiết, lễ tiếp kiến các sứ thần nước ngoài, lễ Hưng quốc Khánh niệm (lễ Quốc
Khánh – mùng 2 tháng 5),… Trong tất cả những buổi lễ ấy, vua ngự trên ngai vàng, trong Điện Thái Hòa
chỉ có “Tứ trụ triều đình” (tức là 4 vị đại thần quan trọng nhất của triều đình) và Hoàng thân bên họ nội
của vua mới được “thượng điện” để đứng chầu 2 bên. Còn tất cả các quan thuộc bách tính đều sắp hàng
ngoài sân chầu.
Điện Thái Hòa bắt đầu được khởi công xây dựng vào ngày 21/02/1805 và hoàn thành vào tháng
10/1805 dưới thời vua Gia Long nhưng được dịch chuyển đến vị trí hiện nay vào năm 1833 dưới triều vua
Minh Mạng (Cách vị trí cũ là 30m về phía Bắc). Ngôi Điện này là công trình kiến trúc tiêu biểu của lối
kiến trúc cung đình Huế, điện được xây dựng theo kiểu nhà kép, còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” (nhà nối
liền nhau, mái chồng lên nhau). Nhìn từ bên ngoài thì thấy điện nhỏ bé nhưng khi vào bên trong mới thấy
không gian điện rất rộng chính là nhờ lối kiến trúc này. Mái sau của nhà trước nối với mái trước của nhà
sau bằng mái vỏ cua hay gọi là “trần thừa lưu” có máng xối bằng đồng hứng nước của 2 mái nhà này rồi
chảy xuống mái hạ 2 bên có 2 miệng rồng đắp nổi phun nước ra bên ngoài trông rất đẹp mắt. Mái điện
được lợp ngói Hoàng lưu ly. Trên các bờ nóc, bờ quyết có trang trí các hình rồng uốn lượn được thiết kế

tỉ mỉ và tinh xảo càng làm tăng thêm giá trị về mặt kiến trúc cho ngôi điện này.
Trong nội thất Điện Thái Hòa, trên các dải cổ diêm chạy quanh 4 mặt toà nhà được trang trí theo lối
“nhất thi – nhất họa” (tức là 1 bài thơ đi kèm với 1 bức tranh) đề tài ca ngợi cảnh đẹp quê hương đất
nước, ca ngợi vương triều. Điện gồm 80 cây cột gỗ lim sơn son thếp vàng lộng lẫy. Mỗi cây cột phải được
sơn 12 lớp sơn gồm: 8 lớp sơn đen, 3 lớp sơn đỏ và lớp sơn ngoài cùng trang trí hình rồng vờn mây trên
sóng nước gọi là “Long vân thủy ba” tượng trưng cho sự hòa hợp giữa vua với quần thần trong triều. Ở
đây, có 2 cây cột gỗ lim bị bệnh tiêu tâm (rỗng ruột) đã được Trung tâm Bảo tồn di tích Cố Đô Huế tu bổ
và thay thế. Trên nền điện lát bằng gạch hoa càng làm cho ngôi điện thêm nguy nga tráng lệ.
Chính giữa điện, dưới bức hoành phi đề 3 chữ Hán “Thái Hòa Điện” có bài thơ khẳng định lịch sử,
truyền thống, chủ quyền của đất nước:
“Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu”
Tên gọi “Điện Thái Hòa” lấy gốc từ Kinh Dịch. Chữ “Hòa” có ý nghĩa là hòa hợp, hài hòa. “Thái
Hòa” là cái khí âm dương hội hợp mà dung hòa với nhau. Ông vua trị vì thiên hạ cần phải giữ cho được
sự hòa hợp tốt đẹp giữa dương và âm, cương và nhu thì mới hữu ích cho vạn vật.
Trung tâm điện ở gian giữa là nơi đặt ngai vàng của nhà vua, ngai vàng được đặt trên 3 tầng bệ gỗ
tượng trưng cho thuyết Tam tài: Thiên – Địa – Nhân tức là trời, đất và con người cùng hòa hợp với nhau.
Chiếc ngai vàng bằng gỗ được thếp vàng bên ngoài là ngai vàng nguyên bản trải qua 13 đời vua nhà
Nguyễn, là chứng nhân trước những bước thịnh suy của triều đại cũng như sự tranh giành quyền lực trong
Hoàng gia. Lúc Gia Long lên ngôi năm 1802, vừa mới thống nhất đất nước, nền kinh tế sau chiến tranh
còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, ngai vàng chỉ được làm bằng gỗ rồi thếp vàng bên ngoài mà thôi. Song
qua các triều đại, ngai vàng vẫn được giữ nguyên mặc dù vẫn có các đời vua nền kinh tế không còn khó
khăn, đặc biệt là dưới thời vua Minh Mạng nền kinh tế ổn định, đất nước thịnh trị nhưng vẫn giữ nguyên
ngai vàng vì quan niệm rằng thay đổi ngai vàng là thay đổi triều đại.
Bên trên ngai vàng là chiếc Bửu tán thếp vàng chạm lộng hình 9 con rồng uốn lượn rất tinh xảo
tượng trưng cho uy quyền nhà Vua - uy quyền của đấng chí tôn, Thiên Tử cai trị thiên hạ.
- “Bửu” có nghĩa là “Quý”.
- “Tán” là cái lọng, tàn che chở, bảo vệ.

Dưới thời Khải Định, vào năm 1923, Vua cho đại tu Điện Thái Hòa để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần Đại
Khánh tiết (mừng Vua tròn 40 tuổi) vào năm sau 1924. Trong đợt tu sửa lớn này có một số bộ phận của
ngôi điện được thay đổi và làm mới.
- Một là, lắp ráp thêm 2 hệ thống cửa kính ở mặt trước và mặt sau ngôi điện. Nguyên từ thời Gia
Long, Minh Mạng, 2 mặt này bỏ trống, chỉ treo sáo để che mà thôi. Khi nào diễn ra cuộc lễ Đại triều thì
sáo được kéo lên để vua quan nhìn thấy nhau.
- Hai là, trổ cửa sổ hình tròn lớn, giữa gắn chữ “Thọ” ở 2 mảng tường gạch chịu lực ở 2 mặt tiền 2
chái của ngôi điện.
- Ba là, làm mới cái Bửu tán bằng pháp lam và các lớp diềm bằng gỗ chạm lộng thếp vàng, thay cho
cái Bửu tán cũ bằng nỉ thêu. Và tất cả các bộ phận bằng gỗ ở nội thất Điện Thái Hòa đều được sơn son
thếp vàng lại. Bửu tán này được tu sửa vào thời Khải Định bởi bàn tay người thợ tài hoa bậc thầy Nguyễn
Văn Khả. Thoạt nhìn, chiếc Bửu tán trông mềm mại, uyển chuyển tưởng chừng như một cơn gió nhẹ cũng
có thể làm nó rung động nhưng thật ra nó được làm bằng gỗ thếp vàng. Dưới bàn tay tài hoa của Nguyễn
Văn Khả, chiếc Bửu tán trở nên lộng lẫy và rực rỡ, cực kỳ tinh xảo. Người ta có câu: “Nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh”. Chính nhờ bàn tay tài hoa của mình mà sau đó Nguyễn Văn Khả được phong hàm Bát
phẩm. Vì sự kiện này mà trong dân gian đã có những lời đàm tiếu, mỉa mai ông, vì để được phong hàm
Bát phẩm thì phải qua 3 kỳ thi mà Nguyễn Văn Khả chỉ giỏi tay nghề lại được phong hàm:
“Chẳng phải ông Nghè chẳng phải quan
Làm thợ như mày kể cũng sang
Xuất thân chui đục thời Khải Định
Làm quan Bát phẩm chiếu Vua ban”.
Phía trước ngai vàng là bàn Hoàng án dùng để đựng các tấu trình, sớ và giấy tờ thiết triều. Hai con
Kim Nghê chầu ở 2 bên bằng đồng như để nhắc nhở sự nghiêm chỉnh giữa chốn triều nghi. Ở giữa đặt
một lư trầm lớn bằng đồng, cứ 1 tháng 2 lần thiết triều, ở đây được xông trầm hương nghi ngút. Làn khói
hương trầm này vừa làm tăng vẻ uy nghi, thâm nghiêm cho ngôi điện, lại vừa là một bức màn để khi thiết
triều hạn chế các quan đứng chầu nhìn thấy mặt Vua.
Trước khi lễ Đại thiết triều diễn ra, Vua và các quan đại thần đã họp bàn trước ở trong điện Cần
Chánh và bây giờ chỉ đưa ra những quyết định cuối cùng chứ không còn họp bàn tranh cãi gì nữa, các
quan cứ như thế mà thực hiện lệnh Vua ban ra.
Triều đình chọn một ông quan Truyền lô có chất giọng to, rõ ràng và phải thông minh để truyền đạt

tất cả những thông tin và mệnh lệnh Vua ban ra cho các quan đứng chầu trước sân Đại triều. Tùy theo
điều kiện thời tiết mà lễ thiết Đại triều được tổ chức cho phù hợp.
Ví dụ: vào mùa hè, thiết triều từ rất sớm và hoàn thành trước khi mặt trời lên.
Đặc biệt ngày xưa cấm tuyệt đối Thái giám không được tham gia vào việc triều chính và cũng cấm
phụ nữ không được bước chân vào Điện Thái Hòa này.
Phần chái sau của Điện Thái Hòa này là nơi Vua chuẩn bị lại trang phục chỉnh tề và mở cửa bước
lên ngai vàng.
Điện Thái Hòa tuy đã được nhiều lần trùng tu nhưng nhìn chung so với hình dạng và giá trị ban đầu
vẫn còn được bảo tồn. Ngôi điện này xứng đáng là bộ mặt quốc gia dưới thời nhà Nguyễn.
Trong Hoàng Thành, phía sau Điện Thái Hòa có một vòng thành thấp hơn gọi là Tử Cấm Thành, tôi
xin mời đoàn chúng ta tiếp tục tham quan.
Thưa quý khách, đoàn chúng ta đứng ở đây có thể thấy một loại cây rất đặc biệt được gọi là cây Ngô
đồng. Tôi xin phép được giới thiệu đôi nét về loài cây này và tại sao nó lại được trồng trong Đại Nội này?
Cây Ngô đồng được đưa từ Quảng đông – Trung Quốc về dưới thời vua Minh Mạng (1821). Hoa Ngô
đồng nở có sắc hoa tím Huế rất thi vị và chỉ nở đúng 20 ngày vào dịp Tết. Khi cây trổ hoa thì tất cả lá đều
rụng xuống nhường chỗ cho sắc tím ngự trị. Hình ảnh “chim Phượng Hoàng đậu cây Ngô đồng” là tượng
trưng cho “thái bình thịnh trị”. Do đó, hình ảnh này đã trở thành một trong những mô-tip trang trí thường
gặp trong các cung điện, lăng tẩm triều Nguyễn và cũng chính vì thế mà nó được trồng trong khu vực Đại
Nội này.
Trước mắt chúng ta là khu vực Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành có mặt bằng hình gần vuông, chiếm
chu vi khá rộng khoảng 1200m, la thành cao 3m72, dày 0m72, mỗi mặt trên dưới 300m được xây bằng
gạch. Tử Cấm Thành được xây dựng vào năm Gia Long thứ 3 (1804) gọi là Cung Thành đến năm Minh
Mạng thứ 3 (1822) vua đổi tên là Tử Cấm Thành. Đây là nơi ăn ở sinh hoạt của Vua và Hoàng Gia. Tại
sao lại gọi là “Tử Cấm Thành”? Đây có phải là ngôi thành chết không?
“Tử” có nhiều nghĩa:
- “Tử” là “con”
- “Tử” là “chết”
- “Tử” là màu “tía”
 “Tử Cấm Thành” phải được hiểu là ngôi thành cấm màu tía tức “lầu son gác tía” chứ
không phải là ngôi thành chết như người ta vẫn nghĩ.

Tử Cấm Thành có 7 cửa, mặt Nam có 1 cửa duy nhất thông với Điện Thái Hòa là Đại Cung Môn
được xây dựng năm Minh Mạng thứ 14 (1833), là lối dành riêng cho Vua đi vào Tử Cấm Thành. Cửa này
đã bị phá hủy hoàn toàn qua 2 cuộc chiến tranh.
Trong khu vực Tử Cấm Thành có gần 50 công trình kiến trúc các loại, bao gồm nhiều cung điện
vàng son lộng lẫy, gồm 2 khu vực chính là:
* Khu vực thứ nhất từ Đại Cung Môn đến Điện Cần Chánh: nơi dành cho Vua và các quan làm việc.
+ Sau Đại Cung Môn là một cái sân rộng, rồi đến Điện Cần Chánh - nơi vua làm việc và thiết
thường triều vào các ngày mùng 5, 10, 20, 25 hàng tháng, nay đã bị hư hỏng hoàn toàn, chỉ còn lại nền
móng của Điện.
+ Hai bên Điện Cần Chánh có hai nhà Tả Vu và Hữu Vu là nơi các quan ngồi chờ và sửa sang,
chỉnh đốn lại phẩm phục trước khi vua thiết thường triều vào buổi sáng.
- Tả Vu hiện trưng bày đồ lưu niệm.
- Hữu Vu được dùng làm nơi cho du khách đến đây được mặc trang phục Hoàng gia để chụp
ảnh kỷ niệm.
+ Ngay tại sân Điện Cần Chánh có đặt 2 vạc đồng lớn được đúc vào những năm 1660, 1662 dưới
thời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đây là 2 vạc đồng đẹp và lớn nhất trong số 10 vạc được đúc thời bấy giờ:
“Chúa đúc vạc – Vua đúc đỉnh”. Nhiều du khách đến đây vẫn lầm tưởng 2 cái vạc này là vạc dầu sôi.
Thật ra thì không phải như vậy, ngày xưa nếu ai có trọng tội thì bị xử chém đầu hoặc “voi giày ngựa xéo”
chứ hoàn toàn không có hình phạt cho vào vạc dầu sôi. Hai vạc này đã được đúc cách đây gần 4 thế kỷ,
mỗi vạc nặng gần 2.5 tấn là kỷ niệm của vinh quang và chiến thắng của các Chúa Nguyễn, đồng thời là sự
thể hiện uy quyền của nhà chúa và sự bền vững của chế độ. Hai vạc đồng này còn được dùng để chứa
nước phòng khi hỏa hoạn xảy ra ở khu vực này.
+ Ở đây còn đặt một con dấu ấn triện có khắc 4 chữ Hán “Hoàng Đế chi bảo” làm bằng gỗ mít mô
phỏng lại con dấu ngày xưa vốn là bằng vàng ròng nặng 11kg, mỗi mặt dài khoảng 13cm, bên trên đắp
nổi hình 2 con rồng uốn lượn.
* Khu vực thứ hai trong Tử Cấm Thành là từ sau Điện Cần Chánh đến Lầu Kiến Trung: đây là nơi
ăn ở, sinh hoạt của Vua và Hoàng gia. Theo nguyên tắc ngày xưa khu vực này chỉ có Vua, Thái giám và
cung nữ mới được ra vào. Bởi vậy, đây được xem là chốn “Thâm cung bí sử”, “Nội bất xuất, ngoại bất
nhập”. Khu vực này gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau như:
- Điện Càn Thành (dành cho Vua ăn ở, sinh hoạt).

- Cung Khôn Thái (dành cho Hoàng Quý Phi).
- Lầu Kiến trung (từng là nơi ở của Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương).
- Lục viện (dành cho cung nữ).
- Thái Bình Lâu (nơi Vua đọc sách).
- Vườn Ngự Uyển (nơi Vua giải trí).
- Thượng Điện Đường (nơi phục vụ ăn uống).
- Duyệt Thị Đường (nhà hát Hoàng cung).
Sau khi vua Bảo Đại thoái vị vào ngày 30/8/1945, toàn bộ khu vực Tử Cấm Thành đã bị bỏ hoang
từ năm 1947 đến năm 1975. Trải qua 2 cuộc chiến tranh cùng với sự tàn phá của khí hậu, thời tiết khắc
nghiệt ở Huế, hầu hết các công trình trong Tử Cấm Thành đều đã bị hư hại gần như hoàn toàn. Có đến
hơn 80% công trình kiến trúc bị phá hủy, hiện nay chỉ còn lại một số công trình như: Tả vu, Hữu vu, Thái
Bình Lâu, Duyệt Thị Đường. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô Huế đang thực hiện công tác khôi phục
lại hệ thống các công trình kiến trúc trong khu vực này và khoảng đến năm 2010 thì hoàn tất để tiếp tục
đón khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa lịch sử truyền
thống của một di tích nằm trong quần thể kiến trúc đã được cả nhân loại công nhận là Di sản Thế giới.
Bây giờ đoàn chúng ta sẽ tiếp tục tham quan một khu vực nữa còn tương đối nguyên vẹn trong Đại
Nội này đó là khu vực Thế Miếu – nơi thờ các vị Vua nhà Nguyễn.
Việc triều Nguyễn cho xây dựng các miếu thờ (Hưng Miếu, Thế Miếu, Triệu Miếu, Thái Miếu, Điện
Phụng Tiên) chứng tỏ nhà Nguyễn rất trọng vọng tổ tiên của mình. Thế Miếu là một khu vực nằm ở góc
Tây Nam của Hoàng thành gồm nhiều công trình kiến trúc giá trị và có ý nghĩa trong Đại Nội, tiêu biểu là
Thế Miếu, Hiển Lâm Các và Cửu Đỉnh.
Trước khi vào Thế Miếu, đoàn chúng ta có thể thấy ở đây có một cây thông rất đẹp và lạ. Cây thông
này do vua Minh Mạng trồng vào năm 1822 gọi là “Cây tùng Thế Miếu”. Đây là cây thông cổ thụ đã hơn
180 năm tuổi, có dáng “Long thăng phượng vũ”. Vua Minh Mạng cho uốn thân cây thành hình rồng bay,
tán hình phượng múa, thân cũng xù xì như vảy rồng càng tôn thêm vẻ uy nghi, thâm nghiêm cho chốn thờ
tự này.
Năm 1804, vua Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày nay để thờ
cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Sau khi vua Gia Long mất, Minh Mạng lên nối ngôi, năm 1821 ông đã
cho dời miếu Hoàng Khảo lui về phía sau vài chục mét, đổi tên thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu lên
vị trí ấy vào năm 1821 – 1822 để thờ vua Gia Long và các vua Nguyễn kế vị. Vì vậy, nhà Vua đã chọn

mặt bằng kiến trúc rất rộng với diện tích là 1500m
2
.
Thế Miếu cũng được xây theo kiểu nhà kép truyền thống “Trùng thiềm điệp ốc”, mái lợp ngói
Hoàng lưu ly, trên bờ nóc, bờ quyết có trang trí các hình rồng uốn lượn. Nội thất Thế Miếu ở gian giữa
bên trên có treo bức Hoành phi đề ba chữ “Thế Tổ Miếu” lấy từ miếu hiệu Thế Tổ Cao Hoàng Đế của
Vua Gia Long – vị Vua đầu triều có công lập nên vương triều Nguyễn. Để tưởng nhớ công lao to lớn của
Vua cha nên vua Minh Mạng mới cho đặt tên miếu này là Thế Tổ Miếu.
Trong Thế Miếu có tất cả là 10 gian thờ các vị Vua triều Nguyễn. Mỗi gian thờ gồm 4 phần:
- Án thờ: đặt di ảnh Vua.
- Bàn thờ: đặt hương án thờ Vua.
- Sập thờ: đặt đồ cúng lễ.
- Khám thờ: đặt bài vị Vua và Hoàng Hậu (Vua có một Hoàng hậu thì thờ hai bài vị, Vua có hai
Hoàng hậu thì thờ ba bài vị,…). Kể từ khi Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến các vị Vua về sau,
chưa bao giờ có sắc dụ nào tấn tôn ngôi Hoàng hậu. Theo nguyên tắc (lệ “Tứ bất lập”: không lập Hoàng
hậu, không lập Thái tử, không lập Tể tướng, không lập Trạng Nguyên), triều Nguyễn chỉ lập Hoàng Quý
Phi khi Vua còn tại vị, chỉ khi Vua băng hà mới phong Hoàng Quý Phi lên làm Hoàng hậu. Nhưng đến
thời Bảo Đại, vị Vua cuối cùng của triều Nguyễn lại bỏ luật lệ có từ xưa mà tấn tôn bà Nguyễn Hữu Thị
Lan làm Nam Phương Hoàng Hậu, vị Hoàng hậu duy nhất khi Vua còn tại vị.
Sự sắp xếp các án thờ trong Thế Tổ Miếu được bố trí theo tôn ti trật tự truyền thống phương Đông
với nguyên tắc “tả chiêu hữu mục”. Gian chính giữa là vị trí quan trọng nhất thờ vị Vua đầu triều Gia
Long, gian tả thứ nhất thờ Vua Minh Mạng, gian hữu thứ nhất thờ Vua Thiệu Trị, gian tả thứ hai thờ Vua
Tự Đức,…
Án thờ Vua Gia Long được đặt ngay gian chính giữa của Thế Miếu để ghi nhớ công lao của vị Vua
có công thống nhất đất nước và lập nên vương triều Nguyễn. Sau khi chiếm lại Phú Xuân, năm 1802
Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Vua Gia
Long lên ngôi vào ngày mùng 02 tháng 5 năm Nhâm Tuất (01/06/1802) nên sau đó ngày này được triều
Nguyễn chọn làm ngày lễ “Hưng quốc Khánh niệm” hàng năm.
Niên hiệu “Gia Long” là lấy từ tên của 2 thành phố lớn thời bấy giờ đó là Gia Định và Thăng Long.
- Gia Định: là vùng đất chúa Nguyễn khai hoang lập ấp, đất dấy nghiệp của vương triều

Nguyễn.
- Thành Thăng Long.
Tháng 03/1804, Vua Gia Long cho đổi Quốc hiệu của nước ta là Việt Nam.
Vua Gia Long là vị Vua đã từng bị lịch sử đánh giá là “cõng rắn cắn gà nhà” nhưng rồi sau này cũng
chính lịch sử đã ghi nhận ông là vị Vua có công “thống nhất đất nước, mở mang bờ cõi về phương Nam,
thu phục giang san về một mối”.
Vua Gia Long ở ngôi được 18 năm thì mất vào ngày 03/02/1820, thọ 58 tuổi, có 31 người con (13
con trai, 18 con gái).
Triều Nguyễn có tất cả là 13 đời Vua nhưng trong Thế Miếu chỉ có 10 vị Vua được thờ là: Vua Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải
Định. Có 3 Vua không được thờ là Vua Dục Đức, Vua Hiệp Hòa và Vua Bảo Đại vì đây là ba vị Vua
“phế đế”:
* Vua Dục Đức lên ngôi vào năm 1883, làm Vua được 3 ngày thì bị “phế đế”. Ông bị kết 3
tội: muốn sửa di chiếu, có đại tang cha mà mặc áo màu và tội hư hỏng chơi bời. Khi Vua Tự Đức mất để
di chiếu truyền ngôi cho Nguyễn Phúc Ưng Chân (Vua Dục Đức) nhưng trong di chiếu có đoạn viết:
“…Vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều
chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có Vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc. Nếu bỏ
đi thì biết làm sao đây”.
Vua Tự Đức còn dặn các quan rằng cứ đọc vậy để răn Vua mới sửa đổi tính nết mà tu tỉnh lấy bản
thân. Nhưng lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau bị triều đình truất
phế theo lệnh của Từ Dũ Hoàng Thái Hậu (mẹ Vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu (vợ Vua Tự
Đức). Sau đó, Vua Dục Đức bị giam vào ngục rồi bị bỏ đói cho đến khi mất.
Sau khi Vua Dục Đức mất, người ta không cho gia đình biết mà lấy chiếc chiếu quấn thi hài nhà
Vua và sai lính gánh đi chôn. Khi gánh đến đồi Phước Quả, làng An Cựu thì cỗ quan tài bằng chiếu bị đứt
dây rơi xuống một vũng nước. Đêm ấy trời mưa gió lạnh lẽo, ướt át vì đang ở vào mùa Đông, những
người lính nghĩ rằng có lẽ Vua muốn được yên nghỉ ở đây cho nên họ mới đào huyệt và chôn Vua tại chỗ
một cách qua loa cho xong việc. Sau này, Vua Thành Thái cho xây lăng Vua cha ngay khu vực nấm mồ
đã được chôn và đặt tên là An Lăng. Vua Dục Đức mất năm Giáp Thân (1884) thọ 32 tuổi, có 19 con (11
con trai và 8 con gái). Vì là vị Vua “phế đế” nên Vua Dục Đức không được thờ trong Thế Miếu.
* Vua Hiệp Hòa cũng là vị Vua bị “phế đế” nên cũng không được thờ trong Thế Miếu. Ông lên

ngôi ngày 30/07/1883, làm Vua được 4 tháng 10 ngày thì bị kết tội “có ý thân Pháp” rồi bị triều đình Huế
truất phế, ban cho một dải lụa, một thanh kiếm và một chén thuốc độc buộc tự vẫn. Cuối cùng ông đã
uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng10 năm Quý Mùi tức ngày 29/11/1883. Vua Hiệp Hòa có 17
người con (11 trai, 6 gái). Ông thọ 37 tuổi.
* Vua Bảo Đại là vị Vua thứ ba không được thờ trong Thế Miếu. Ông ở ngôi cho đến 30/08/1945
thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn, trao chính quyền lại cho chính phủ Cách Mạng lâm thời, kết thúc chế độ
quân chủ tại Việt Nam. Sau đó, ông sang Pháp và sống hết cuộc đời còn lại của vị Vua lưu vong ở đó.
Ông mất ngày 31/07/1997 tại Pháp.
Trong 10 vị vua được thờ ở Thế Miếu, có 3 Vua là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân là 3 vị Vua
yêu nước chống Pháp, bị Pháp đưa đi đày biệt xứ, nhưng là những vị Vua “xuất đế” nên trước đây cũng
không được thờ trong Thế Miếu. Mãi đến năm 1958, 3 án thờ của 3 vị Vua này mới được hội đồng
Nguyễn Phước Tộc làm lễ và đưa vào thờ ở Thế Miếu. Do vậy, án thờ của 3 vị Vua này trông mới hơn so
với những án thờ còn lại.
* Vua Hàm Nghi tại vị từ năm 1884 đến năm 1885. Lịch sử của vị Vua này gắn với binh biến năm
Ất Dậu (1885). Năm ấy quân Pháp nã đạn pháo vào thành nội. Quân ta lúc đầu khág cự rất anh dũng
nhưng sau đó vì khí giới quá yếu nên rút lui và tan rã dần, dân chúng trong thành chạy loạn bị chúng tàn
sát rất dã man, tiếng la tiếng khóc vang trời dậy đất. Nhiều của cải trong cung bị chúng cướp đi. Đó là
ngày 23 tháng 05 năm Ất Dậu (05/07/1885) – ngày thất thủ Kinh đô. Từ đó về sau ở Huế hàng năm vào
ngày này người dân Huế tổ chức cúng lễ để cầu nguyện cho các vong hồn được siêu thoát.
Sau đó, Vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở phát hịch Cần Vương, phát động phong trào
kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà Vua quay về nhưng thất bại. Đến ngày
30/10/1888, tên Trương Quang Ngọc (người hầu cận của Vua) bị Pháp mua chuộc nên đem người bắt
Vua Hàm Nghi dâng cho Pháp. Vua Hàm Nghi bị Pháp bắt đi đày ở đảo Angieri và nhà Vua sống ở đó
cho đến lúc mất, thọ 72 tuổi.
* Vua Thành Thái tại vị từ năm 1889 đến năm 1907, là con thứ 7 của Vua Dục Đức và bà Từ Minh
Hoàng Thái Hậu. Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có
tư tưởng chống Pháp. Lúc lên ngôi chỉ mới 10 tuổi nhưng Vua rất chững chạc. Ông thường vi hành ra
ngoài thành và hiểu được sự tình nên ngày càng tỏ ra căm ghét Pháp, ông âm thầm chống đối. Ông đã giả
điên để che mắt Chính phủ bảo hộ Pháp.
Ngày xưa, tương truyền có hai câu thơ của Vua Thành Thái:

“Kim Long có gái mĩ miều,
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi”
Hai câu thơ này là cả một giai thoại về vị Vua yêu nước này. Đọc hai câu thơ, phần lớn mọi người
đều cho rằng Vua Thành Thái ham mê nữ sắc, tính khí bất thường nhưng thực chất ông đã dùng hai câu
thơ này để che mắt Chính phủ bảo hộ Pháp. Ông đã ngấm ngầm cùng các hầu cận thân tín tổ chức một
đoàn nữ binh ngay trong Tử Cấm Thành mà Cơ Mật Viện vẫn chẳng hay biết gì. Ông bí mật lập đoàn nữ
binh này để chờ lúc hành sự. Ông cho lính cận vệ lên Kim Long bàn kế hoạch với gia đình người con gái
cần tuyển. Nếu gia đình và cô gái đồng ý, để tránh sự dòm ngó của mật thám, ông cho diễn một vở kịch
“bắt cóc” đưa họ vào cung. Mỗi lần tuyển độ 50 người, ban đêm bí mật rèn luyện võ nghệ. Sau khi đã
thuần thục rồi thì bí mật cho trở về gia đình rồituyển 50 cô khác. Nhưng rồi bí mật cũng bị bại lộ, mâu
thuẫn giữa Vua với Pháp ngày càng gay gắt. Biết Vua có ý chống đối nhưng không có chứng cớ gì chính
đáng để truất phế, lại sợ để lâu e bất lợi nên Pháp gán cho Vua bệnh “điên” rồi áp giải Vua vào Sài Gòn
sau đó đưa đi quản thúc tại Vũng Tàu.
Năm 1916, Vua Thành Thái bị Pháp đưa đi đày ở đảo Réunion (Phi Châu) cùng với con trai là Vua
Duy Tân. Sau 40 năm sống ở chốn lưu đày, tháng 05/1947 ông được đưa về sống ở Sài Gòn và mất ở đó,
thọ 76 tuổi, linh cửu được đưa về Huế an táng.
* Vua Duy Tân tại vị từ năm 1907 đến năm 1916, tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San, là con thứ 5
của Vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định.
Sau khi Vua Thành Thái bị đưa đi quản thúc ở Vũng Tàu, triều đình họp bàn tìm người kế vị. Pháp
có ý đồ muốn lập 1 ông Vua càng nhỏ tuổi càng hay, vì như thế dễ thao túng hơn và không có ý chống
Pháp như Vua Thành Thái. Với ý đồ đó, chúng lệnh đưa danh sách các vị Hoàng tử đồng thời dẫn họ vào
trình diện. Khi đọc đến tên Vĩnh San thì phát hiện là Hoàng tử này không có mặt. Thế là tam cung lục
viện náo động cả lên đi tìm Hoàng tử cho đến khi viên thị vệ phát hiện được thì Hoàng tử đang chui tọt
dưới gầm giường để trốn, áo quần đầy bụi bặm và mạng nhện, mặt mũi thì nhem nhuốc. Khâm sứ Pháp
thấy Vĩnh San nhỏ tuổi lại có vẻ đần độn, nhát gan cho nên rất bằng lòng. Thế là Hoàng tử Vĩnh San được
chọn trong số hơn 10 vị Hoàng tử có mặt hôm đó.
Ngày 28/07/1907, Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân, lúc đó chỉ mới 8 tuổi
nhưng trong ngày lễ Đăng quang, Vua Duy Tân lại tỏ ra rất “người lớn”. Hình ảnh của vị Vua nhỏ tuổi
này hoàn toàn khác hẳn với cậu bé xanh xao, mặt tái nhợt đầy vẻ run sợ hôm trước, làm cho Pháp phải
ngạc nhiên. Dù chỉ mới 8 tuổi nhưng vị Vua này ăn nói hết sức lưu loát, biểu lộ một đầu óc thông minh.

Có lẽ bấy giờ Pháp mới hối hận vì đã chọn nhầm người.
Vua Duy Tân là vị Vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong số 13 Vua Nguyễn. Tuy nhiên, nhà Vua lại là
người chững chạc, có khí phách của một bậc Đế Vương. Cũng như cha mình, Vua Duy Tân là người có tư
tưởng chống Pháp.
Có một giai thoại kể rằng, khi Pháp đưa Vua Duy Tân ra ở Cửa Tùng, một hôm Vua vọc cát chơi,
xây thành xây lũy, chơi chán Vua đứng dậy. Thấy hai tay nhà Vua đầy cả cát bẩn, viên quan thị vệ vội
đem một chậu nước đến để Vua rửa. Vua hỏi:
“Tay nhớp thì lấy nước rửa, thế nước nhớp thì lấy chi rửa?”
Ông quan tỏ vẻ sợ hãi không biết trả lời thế nào thì Vua tiếp lời:
“Nước nhớp thì lấy máu ra rửa, nhà ngươi hiểu chưa?”
Người thị vệ nghe thế sợ hãi, nhìn quanh nhìn quất như sợ ai nghe thấy, còn Vua Duy Tân lúc bấy
giờ vẻ mặt đầy đăm chiêu tư lự.
Vua Duy Tân còn cải trang làm người đi câu cá ở Nghênh Lương Đình để gặp Thái Phiên và Trần
Cao Vân nhằm vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp nhưng kế hoạch bị bại lộ, nhà Vua bị Pháp bắt đày
sang đảo Réunion – Châu Phi cùng với Vua cha là Thành Thái. Thái Phiên và Trần Cao Vân bị khép tội
chém. Chính vì sự kiện này mà ở Huế có mấy câu hò của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị:
“Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông,
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.”
Tháng 12/1945, Pháp cho Vua Duy Tân về thăm nhà, nhưng khi máy bay đến địa phận Trung Phi
thì tự nhiên máy bay bốc cháy và rơi xuống đây. Cái chết của Vua Duy Tân cho đến bây giờ vẫn còn là
một nghi án. Nhiều tài liệu cho rằng chính phủ Pháp đã tìm cách loại trừ Vua Duy Tân – con người mà
chúng cho là “rất nguy hiểm cho việc bảo hộ của Pháp tại An Nam”. Vì thế mới dàn cảnh cho Vua Duy
Tân về thăm nhà và hạ sát bằng cách gây nên một tai nạn máy bay.
Vua mất ngày 25/12/1945, được 46 tuổi, thi hài được an táng tại một nghĩa trang Thiên Chúa Giáo
thuộc cộng hòa Trung Phi. Năm 1987, hài cốt của Vua được đưa về Việt Nam và an táng trong khuôn
viên của An Lăng (lăng Vua Dục Đức).
Trong Thế Miếu này, ngoài các vị Vua kể trên, phải kể đến hai vị Vua có án thờ nằm bên trái

án thờ của Vua Gia Long là Vua Minh Mạng và Vua Tự Đức.
* Vua Minh Mạng (ở ngôi từ 1820 – 1840) tên là Nguyễn Phúc Đảm, là con thứ 4 của Vua Gia
Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng Hậu.
Tháng 01 năm Canh Thìn (1820) Vua Gia Long mất, Vua Minh Mạng lên nối ngôi lúc này 30 tuổi.
Có thể nói Minh Mạng làm Vua 21 năm và là vị Vua giỏi nhất triều Nguyễn. Là một ông Vua văn võ
kiêm toàn, thấy xa trông rộng, Minh Mạng đã làm một cuộc cải cách triệt để về nhiều mặt.
Vua đã cho bỏ các dinh trấn mà chia cả nước ra làm 31 tỉnh để dễ bề cai trị, khuyến khích dân khai
hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông, lập nhà Dương xtees ở các tỉnh để giúp đợ những người
nghèo khổ, tàn tật, già cả, không nơi nương tựa, thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục,…
163 năm sau khi Vua Lê Huyền Tông bắt đàn bà mặc váy thì dưới thời Minh Mạng, Vua ra chiếu
chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần. Hồi ấy dân gian có câu ca dao than vãn:
“Tháng Tám có chiếu Vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang”
Đối với các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, trộm cắp,… Vua Minh Mạng cho ban hành sắc lệnh
rất nghiêm, lệnh cho các quan phải trừng trị gắt gao, xử phạt thật nặng để làm gương. Ngay một viên
quan Nội vụ ăn bớt một ít nhựa thông trong kho mà nhà Vua đã ra lệnh chặt tay để làm gương cho dân
chúng cho thấy nhà Vua rất nghiêm khắc.
Vua Minh Mạng rất đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước. Nhà Vua cho lập Quốc
Tử Giám, mở thêm kì thi Hội và thi Đình (thời GIa Long chỉ có thi Hương).
Vua Minh Mạng còn tiếp thu nền khoa học kỹ thuật Tây phương và cho chế tạo ra chiếc tàu chạy
máy hơi nước đầu tiên ở Việt Nam.
Vua Minh Mạng không những là một vị Vua có tài về chính trị mà ông còn co staif về văn học. Ông
đã để lại nhiều tập thơ lời lẽ nhuần nhã, ý tứ cao lỳ. Trong suốt những năm trị vì, nhà Vua luôn luôn làm
việc với một tinh thần không mệtmoir, ngày cũng như đêm, lành cũng như bệnh, trí luôn luôn nghĩ ngợi,
tay luôn luôn phê chuẩn. Xem thế thì thấy được Vua Minh Mạng là một vị Vua siêng năng cần mẫn, rất
sáng suốt, anh minh, am hiểu nhiều việc và rất lo cho vận mệnh của đất nước. Cũng nhờ thế mà mọi công
việc dưới triều ông tuy rất nhiều nhưng giải quyết đâu vào đấy hợp tình hợp lý. Quan lại dưới triều ông ai
cũng phục ông cả. Lãnh thổ nước ta dưới triều Vua Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt

Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Đất nước thịnh vượng, nhân
dân ấm no, thóc lúa đầy nhà. Vì vậy, năm 1838, Vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.
Vua Minh Mạng mất năm 1841, thọ 51 tuổi. Ông được đánh giá là vị Vua có nhiều cái nhất: có công
nhất, thông minh nhất, đẹp trai nhất, nghiêm khắc nhất, nhiều vợ nhất (có khoảng 500 bà vợ) và nhiều con
nhất (142 người con).
* Vua Tự Đức (ở ngôi từ 1847 – 1883) tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, là con thứ hai của Vua
Thiệu trị và bà Phạm Thị Hằng (Hoàng hậu Từ Dũ).
Vua Tự Đức là một người con chí hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn thì vào chầu cung, ngày lẻ thì ngự
triều, trừ khi đi vắng hoặc ốm đau, trong 36 năm ở ngôi ông vẫn luôn như thế không sai chút nào. Mọi
việc ông đều tâu lại với Đức Từ Dũ. Khi mắc tội, Ngài tự mình dâng roi mây lên cho mẹ rồi nằm xuống
xin chịu đòn.
Trong suốt cuộc đời làm Vua của Tự Đức, ông trị vì 36 năm – thời gian trị vì lâu nhất trong sô các
vị Vua triều Nguyễn những Tự Đức có lẽ là vị Vua có nhiều nỗi đau khổ nhất:
- Vì việc của Hồng Bảo mà lúc lên ngôi ông thấy không vui vẻ gì trong lòng cả. Khi Vua Thiệu Trị
băng hà để di chiếu truyền ngôi lại cho Hồng Nhậm (Vua Tự Đức) mà không truyền ngôi cho Hồng Bảo
vì Bảo vốn là người ham chơi lêu lổng, không chịu học hành mà chỉ tối ngày hát xướng, cờ bạc. Khi lên
ngôi Tự Đức mời Tôn nhân phủ và đình thần đến ký tên vào tờ chiếu chỉ thì riêng Hồng Bảo không chịu
ký mà giận giữ hộc máu ra lai láng, quần thần phải khuyên răng phân giải cuối cùng mới ký. Từ đó về
sau, việc lên ngôi củ Tự Đức bị nhiều người nghi ngờ và tình cảm của ông với Hồng Bảo ngày càng lạt
lẽo. Hồng Bảo vẫn nuôi mộng dành lại ngai vàng, cấu kết với một số quan lại và Hoàng thân quốc thích
trong triều vốn không ưa Tự Đức hoặc có tội bị Vua Tự Đức khiển trách để lật đổ ngai vàng nhưng âm
mưu không thành. Việc bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử hình. Tự Đức tha chết cho anh và chỉ
cho lệnh giam lại nhưng không hiểu sao Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục, cái chết của Hồng Bảo trở
thành một nghi án.
- Một việc nữa có lẽ làm Vua Tự Đức buồn bã nhất là ông đã bất lực để mất 6 tỉnh Nam Kỳ vào tay
Pháp. Từ đó, ít khi người ta thấy nụ cười nở trên môi ông, lúc nào ông cũng trầm tư ít nói.
- Vua Tự Đức sinh ra vốn thân thể yếu đuối, nhu nhược, lại bị bệnh đậu mùa và di chứng để lại là
ông có đến 103 bà vợ nhưng không có người con nào. Ngày xưa, tội không có con nối dõi bị xem là tội
“đại bất hiếu”, vì vậy sau này Vua Tự Đức phải nhận cháu của mình làm con nuôi.
- Và cả chuyện xây dựng Khiêm Lăng cho ông, do sự lộng hành của một số quần thần đã làm cho

quân sĩ xây lăng phải chịu nhiều vất vả, khổ cực nên nhiều kẻ oán giận:
“Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính hào đào máu dân”
Để rồi dẫn đến cuộc binh biến hơn 1000 lính làm lăng vác chày giã vôi tiến vào thành để lật đổ ngai
vàng Tự Đức nhưng thất bại và sử gọi là “giặc chày vôi”. Cuộc binh biến đã để lại một niềm cay đắng
trong lòng Vua Tự Đức mãi cho đến ngày ông qua đời.
Có lẽ chính những nỗi đau khổ này đã thể hiện rõ nét và giải thích tại sao di ảnh của Vua Tự Đức
thờ trong Thế Miếu này lại có khuôn mặt buồn đến vậy!
Vua Tự Đức trị vì được 36 năm (1847 – 1883), Vua mất năm Quý Mùi (1883), hưởng thọ 55 tuổi,
có 103 bà vợ và không có con, ông nhận 3 người là con của các vị Vương về làm con nuôi là:
- Nguyễn Phúc Ưng Chân (Vua Dục Đức sau này)
- Nguyễn Phúc Ưng Đường (Vua Đồng Khánh sau này)
- Nguyễn Phúc Ưng Đăng (Vua Kiến Phúc sau này)
Sau khi tham quan xong khu vực Thế Miếu, tôi xin mời cả đoàn chúng ta ra phía trước sân Thế
Miếu để cùng chiêm ngưỡng 9 cái đỉnh đồng gọi là “Cửu Đỉnh”. Đây là sản phẩm của những người thợ
thủ công đúc đồng nổi tiếng ở phường Đúc (Huế). “Cửu Đỉnh” được xem là một trong những tác phẩm
nghệ thuật đồ sộ xuất sắc kỳ vĩ nhất, mang ý nghĩa tượng trưng cao nhất của các Vua triều Nguyễn.
Con số 9 có nguồn gốc từ Kinh Dịch, là con số tượng trưng cho Trời, vị chúa tể của vũ trụ “Chín
phương Trời, mười phương Phật”; tượng trưng cho đấng chí tôn, Thiên tử “Cửu ngũ chí tôn” và là con số
Cực Dương “Càn Nguyên dụng Cửu thiên hạ trị dã”. Vua chúa Trung Hoa cũng như Việt Nam đeuf ấy
con số 9 làm biểu tượng và gởi gắm vào đó những ước muốn của bản thân hay dòng họ mình. Chúng ta
thấy tất cả các công trình kiến trúc, cung điện, đền đài, lăng tẩm của các Vua nhà Nguyễn đều lấy con số
5 và con số 9 làm gốc cho mọi công trình. Với ý nghĩa đó, Vua Gia Long cho đúc “Cửu vị thần công” và
Vua Minh Mạng cho đúc “Cửu Đỉnh” biểu thị ước mơ triều đại mãi vững bền và sự giàu đẹp của đất
nước.
Cửu Đỉnh được đúc vào các năm 1835 – 1837 dưới thời Vua Minh Mạng. “Chúa đúc vạc, Vua đúc
đỉnh”. Thời Chúa Nguyễn, sau các chiến công thường cho tập trung những chiến lợi phẩm bằng đồng rồi
cho đúc thành những chiếc vạc để kỷ niệm những chiến thắng cũng như tượng trưng cho uy quyền của
nhà Chúa và sự bền vững của triều đại. Cùng với trụ đồng, nghê đồng, súng đồng, vạc đồng là những tác
phẩm đúc đồng có giá trị thì Cửu Đỉnh được xem là đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng ở Huế.

Bên trong Thế Miếu, gian nào thờ vị Vua nào thì ở ngoài này tương ứng với đỉnh ấy và cái đỉnh đó
được xem là biểu tượng cho vị Vua đó. Trên mỗi đỉnh có khắc một tên riêng bằng chữ Hán lấy từ miếu
hiệu của các vị Vua nhà Nguyễn. 9 đỉnh gồm:
- Cao Đỉnh: tương ứng với Thế Tổ Cao Hoàng Đế - vị Vua khai sáng triều Nguyễn có niên hiệu là
Gia Long.
- Nhân Đỉnh: tương ứng với Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế - Vua Minh Mạng.
- Chương Đỉnh: tương ứng với Hiến Tổ Chương Hoàng Đế - Vua Thiệu Trị.
- Anh Đỉnh: tương ứng với Dực Tông Anh Hoàng Đế - Vua Tự Đức.
- Nghị Đỉnh: tương ứng với Giản Tông Nghị Hoàng Đế - Vua Kiến Phúc.
- Thuần Đỉnh: tương ứng với Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế - Vua Đồng Khánh.
- Tuyên Đỉnh: tương ứng với Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế - Vua Khải Định.
- Dụ Đỉnh.
- Huyền Đỉnh.
Hai đỉnh Dụ và Huyền chưa được tương ứng với vị Vua nào thì triều Nguyễn đã chấm dứt. Mặc dù
còn 6 vị Vua là: Dục Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Bảo Đại nhưng không được
tương ứng với các đỉnh vì các Vua này là những vị Vua bị “phế đế” và “xuất đế”.
Cửu đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, nằm theo thứ tự đối diện với
các áng thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Đỉnh được đặt nhích về phía trước 3m với hàm ý thể hiện lòng
biết ơn và ghi nhớ công lao to lớn của vị vua đầu tiên có công khai sáng nên vương triều nhà Nguyễn là
Vua Gia Long. Vua Minh Mạng đã từng nói rằng:
“Trên trời dưới đất trước mắt tổ tiên, đây là công lao của các triều đại”.
Cửu Đỉnh là biểu thị của sự giàu đẹp, thống nhất đất nước và ước mơ triều đại mãi vững bền. Quanh
mỗi thân đỉnh đúc nổi 17 hình ảnh núi sông nổi tiếng trên đất nước Việt Nam cùng với cây cối, sản vật,
chim muông, các hiện tượng tự nhiên,… thể hiện một sự thống nhất đa dạng và phong phú của đất nước
Việt Nam từ Bắc chí Nam. Tổng cộng chín đỉnh có tất cả là 153 hình ảnh chạm khắc: núi, sông, trăng,
sao, cây cối, hoa, súc vật, vũ khí, xe, thuyền,… Nếu kể thêm 9 miếu hiệu chữ Hán nữa thì mỗi đỉnh có 18
hình và tổng cộng trên 9 đỉnh là 162 hình đúc nổi. Các con số 18 hay 162 đều cộng lại bằng 9, có lẽ đó
không phải là một sự ngẫu nhiên. Có thể xem 153 bức chạm khắc trên 9 đỉnh là 153 bức tranh với 3 mảng
đề tài tượng trưng cho thuyết Tam tài (Thiên – Địa - Nhân) là:
- Hình ảnh về các hiện tượng tự nhiên: mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, dải ngân hà, mây, mưa, gió,

sấm chớp,… tượng trưng cho “Thiên” (trời).
- Hình ảnh về các danh lam thắng cảnh nổi tiếng trên đất nước Việt Nam: biển Đông, núi Thiên
Tôn, kênh Vĩnh Tế, sông Hương, núi Ngự, sông Gianh, sông Mã, núi Hồng Lĩnh, sông Lô, cửa biển
Thuận An, sông bạch Đằng, sông Vàm Cỏ, núi Tản Viên, sông Lam, sông Hồng, cửa biển Đà Nẵng, Hải
Vân Quan, sông Cửu Long,… tượng trưng cho “Địa” (đất).
- Hình ảnh về các loài động thực vật (cây cỏ, hoa trái, chim muông,…) và các thứ vũ khí, thuyền,
xe: hoa tử vi, hoa sen, hoa hải đường; củ hành, củ nghệ, rau hẹ, rau kiệu, đậu xanh, cây lúa, cây xoài, cây
mít, cây nhãn, cây mai, cây ngô đồng, cây quế, gỗ lim, trầm hương; chim trĩ, chim công, tổ yến, ba ba, hổ,
báo, đồi mồi, cá sấu, rùa, tê giác, ngựa, voi, heo, cá rô, cá tràu, nghêu, sò; đại bác, gươm, nỏ, giáo mác,
đạn, thuyền,… tượng trưng cho sự tồn tại của con người tức là tượng trưng cho “Nhân”.
* Cao Đỉnh có núi Thiên Tôn ở Thanh Hóa tượng trưng cho nguồn gốc của dòng họ Nguyễn, sông
Bến Nghé ở Gia Định là vùng đất dấy nghiệp của chúa Nguyễn, hình mặt trời, biển Đông,…
* Nhân Đỉnh có sông Hương, núi Ngự là hình ảnh của đất Kinh sư, hình ảnh cây ngô đồng tượng
trưng cho sự thái bình thịnh trị, hình mặt trăng,…
* Chương Đỉnh có núi Kim Phụng, sông Lợi Nông, sông Gianh (Quảng Bình),…
Mỗi đỉnh nặng từ 2 tấn đến 2,5 tấn được đặt trên một phiến đá lớn vững vàng. Các đỉnh khác nhau
về kích thước, trọng lượng, cặp quai đỉnh (cặp thì đúc vuông, cặp đúc tròn, cặp xoắn theo kiểu dây thừng,
…), chân đỉnh (có bộ thẳng, có bộ uốn theo kiểu chân quỳ của sập gụ,…), miệng đỉnh và hình ảnh đúc
nổi.
- Đỉnh lớn nhất và nặng nhất là Cao Đỉnh: cao 2m52, nặng 2584 kg.
- Đỉnh nhỏ nhất và nhẹ nhất là Huyền Đỉnh: cao 2m30, nặng 1920 kg.
Khi đúc Đỉnh, người thợ phải dùng đến 60 lò nấu đồng cùng một lúc. Một lò nấu chảy từ 30kg đến
40kg đồng rồi tuần tự liên tục rót vào một khuôn bằng đất sét được nhồi kỹ và lật ngược lại. Đồng được
rót vào từ ba chân, còn các hình nổi sau mới chạm thêm vào những miếng đồng rồi đúc gắn vào đỉnh.
Những bức chạm này được làm một cách cẩn thận, chi li, sắc sảo, chú ý đến từng chi tiết nhỏ. Vua phái
các quan cận thần đi mọi miền đất nước để quan sát, đo vẽ (ký họa) các hình ảnh rồi sau đó chuyển các
bản vẽ lên giấy qua các bức phù điêu bằng gỗ rồi tạo khuôn và rót đồng vào, sau đó mới đúc gắn vào
đỉnh. Việc tổ chức đúc 9 cái đỉnh này quả là một kỳ công.
Có thể nói Cửu Đỉnh là bộ bách khoa toàn thư về danh lam thắng cảnh của một đất nước Việt Nam
thu nhở. Cả giang sơn gấm vóc nhất thống, hùng cường toát lên từ 162 hình đúc nổi mang trọn tư tưởng

Việt, non sông và vạn vật Việt. Đã hơn 150 năm, Cố Đô Huế đã trải qua biết bao thăng trầm, biến đổi
nhưng rất quý là 9 đỉnh vẫn còn nguyên vẹn. Cửu Đỉnh thật sự là một di sản văn hóa quý báu, có giá trị về
nhiều mặt của văn hóa Huế nói riêng và cả nước nói chung, xứng đáng là một kiệt tác nghệ thuật đúc
đồng Việt Nam thế kỷ XIX.
Thưa quý khách, tiếp tục đoàn chúng ta sẽ tham quan Hiển Lâm Các. Đây là một trong những công
trình kiến trúc đặc sắc còn tồn tại trong khu vực Đại Nội này.
Hiển Lâm Các được xây dựng cùng một lần với Thế Miếu vào các năm 1821 – 1822 dưới thời Vua
Minh Mạng. Đây được xem như một lễ đài để tưởng niệm, suy tôn và ghi nhớ công trạng các Vua
Nguyễn và các công thần có công với triều Nguyễn. Quý khách có thể quan sát thấy hai bên sân Thế Miếu
là hai nhà Tả Tòng Tự và Hữu Tòng Tự, đó là nơi đặt bài vị của các vị công thần. Còn tòa nhà Hiển Lâm
Các này gồm 3 tầng là nơi thờ Thiên, Địa, Nhân. Hiển Lâm Các nằm trên một khối nền cao hình chữ nhật
rộng 270m
2
lát gạch Bát Tràng, xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ
thống bậc đá thanh ở trước và sau. Mỗi hệ thống có 9 bậc, gồm 3 lối đi, trong đó lối đi ở giữa là lối đi
dành riêng cho Vua.
Hiển Lâm Các là một tòa nhà bằng gỗ 3 tầng, cao 13m, gồm 24 cây cột gỗ, trong đó có 4 cây cột gỗ
lim nguyên khối, cao 12m xuyên từ tầng 1 đến tầng 3 làm xương sống cho tòa nhà. Nếu 1 trong 4 cây cột
gỗ ở đây bị hư hỏng thì thật khó để có thể tìm lại được cây cột gỗ nào cao và to như thế để thay thế.
Tầng một của Hiển Lâm Các nơi mà đoàn chúng ta đang đứng ở đây có 3 gian, 2 chái, 3 mặt ngoài
của hai chái xây bằng gạch để bao che nội thất và gia cố sức chịu lực của các hàng cột thấp. Các hệ thống
kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các môtip hình rồng cách điệu hóa thành dây leo lá cuốn.
Trên cửa giữa có treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ “Hiển Lâm Các”, khung chạm hình chín con rồng vờn
mây sơn son thếp vàng được trang trí rất tinh xảo:
- “Hiển” có nghĩa là hiển vinh.
- “Lâm” có nghĩa là quy tụ.
- “Các” có nghĩa là gác.
Cái tên này tương ứng với chức năng của Hiển Lâm Các - một lễ đài để tưởng niệm, suy tôn và ghi
nhớ công trạng các Vua Nguyễn và các công thần có công với triều Nguyễn.
Quý khách có thể thấy ở đây, gian bên phải bắc một chiếc cầu thang bằng gỗ lên tầng trên được

trang trí rất đẹp. Hai tay vịn chia thành các ô hộc trang trí hình chữ “Thọ”, chữ “Vạn”. Đầu và cuối tay
vịn đều chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn lượn mềm mại rất tinh xảo. Đây được đánh giá là chiếc cầu
thang đẹp nhất Hoàng Cung. Lên cầu thang này sẽ đến tầng hai gồm 3 gian, trước đây đặt án thư và sập
Ngự sơn son thếp vàng, là nơi đặt án thờ Đất. Tầng hai lên tầng ba cũng bằng một cầu thang gỗ, tầng này
nhỏ hơn, chỉ có 1 gian, là nơi đặt án thờ Trời. Trên nóc tầng ba nổi bật lên giữa các bộ mái lợp ngói hoàng
lưu ly là “thái cực” bằng pháp lam màu vàng đặt trên án mây pháp lam ngũ sắc. Trên các bộ mái của Hiển
Lâm Các còn treo nhiều cái chuông khi có gió thổi tạo ra âm thanh với ý nghĩa xua đuổi tà ma cho chốn
thờ tự uy nghiêm này.
Hai bên tòa nhà Hiển Lâm Các còn có hai lầu chuông và lầu trống, được dùng khi có cúng lễ.
Toàn bộ hệ thống Hiển Lâm Các cao 13m. Là công trình cao nhất trong khu vực Kinh thành. Vì sợ
phá vỡ lối kiến trúc cổ của Cố Đô Huế nên ở bờ Bắc sông Hương cấm không cho xây nhà cao quá 11m.
Do đó, thi sĩ Bùi Giáng có viết mấy câu thơ ca ngợi vẻ đẹp cổ kính trong Kinh thành:
“Bên kia lối mới, bên này cổ xưa
Càng nhìn, càng ngắm, càng ưa
Càng say phong cảnh, càng ngơ ngác lòng”
tức là chỉ bên kia (bờ Nam) sông Hương là phố thị nhộn nhịp và huyên náo với các tòa nhà cao tầng,
còn bên này (bờ Bắc) sông Hương vẫn giữ được nét cổ xưa.
Hiển Lâm Các là một công trình kiến trúc có giá trị về mặt kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Tòa nhà cao
nhưng cân đối, hài hòa. Sự đứng vững của tòa nhà gần hai thế kỷ đã thể hiện tài năng, khéo léo tuyệt vời
của người thợ ở cả phương diện tạo nên độ bền chắc và trang trí mỹ thuật để Hiển Lâm Các xứng đáng
với chức năng biểu tượng là một đài kỷ niệm của Hoàng triều.
Đây cũng là điểm tham quan cuối cùng của đoàn mình trong hôm nay, tôi xin chúc quý khách có
một chuyến du lịch thú vị và nhiều kỷ niệm đẹp khi đến Huế.

×