LUẬN VĂN:
Đổi mới quản lý hoạt động cấp
nước đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cấp nước là hoạt động có liên quan đến cả ba khâu sản xuất, cung cấp và
tiêu thụ nước sạch. Nước sạch là loại sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất,
dịch vụ của mọi tầng lớp dân cư. Trong thời gian qua, hoạt động cấp nước nhất là cấp
nước đô thị luôn nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các cấp bộ ngành và các nhà tài
trợ quốc tế. Đặc biệt, ngày 11/7/2007 Chính phủ ban hành nghị định số 117/2007/NĐ-CP
về sản xuất, cung ứng và tiêu thụ nước sạch là cơ sở cho tổ chức, quản lý cấp nước đô thị.
Sau gần 20 năm đổi mới, tốc độ đô thị hoá của cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hoá
nói riêng phát triển rất nhanh. Năm 1989, dân số thành thị Thanh Hoá mới có 215,5 ngàn
người bằng 7,2% tổng số dân (2,99 triệu người), thì năm 2006 có 360,3 ngàn người bằng
9,8 % tổng số dân (3.68 triệu người) tăng 144,8 ngàn người, như vậy tăng 67,2% so với
năm 1989. Đây là một áp lực đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá.
Tính đến nay, Thanh Hoá đã có 18 dự án được triển khai với tổng vốn đầu tư
khoảng 314 tỷ đồng, nhằm thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2010 trong đó có cấp nước. Tổng công suất cấp nước đô thị hiện
nay là 65.410 m
3
/ngày, bảo đảm khoảng 90% dân số đô thị được cấp nước sạch với mức
89lít /người/ngày, tỷ lệ thất thoát nước sạch đã giảm xuống 30% so với 48% năm 1999. Đã
có 15 trong tổng số 30 thị trấn có hệ thống cấp nước tập trung với quy mô từ 500 -
2000m
3
/ngày được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn, nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngân
sách.
Những thành quả trên, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành có liên quan và
công ty cấp nước Thanh Hoá đã nói lên tầm quan trọng cũng như mức độ cấp thiết của
nước sạch đô thị trong chiến lược chung nhằm phát triển kinh tế xã hội, bảo vệc sức khoẻ
cộng đồng, từng bước nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên, hoạt động cấp nước có
những điều kiện đặc thù, bởi nước sạch đô thị là hàng hoá cá nhân được cung ứng công
cộng, cần được đầu tư vốn lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp, do đó việc xã hội hoá
hoạt động cấp nước gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gia
tăng dân số đô thị ngày càng cao đã tạo những áp lực rất lớn cho hoạt động cấp nước sạch
đô thị cả về số lượng và chất lượng.
Sự phát triển của ngành cấp nước đô thị Thanh Hoá trong thời gian qua chưa theo
kịp với tốc độ đô thị hoá, chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và dân sinh. Nhiều dự
án cấp nước ở các thị trấn đầu tư không đồng bộ, đầu tư theo kiểu phong trào, quy hoạch
không hợp lý, hiệu suất thấp và năng lực quản lý kỹ thuật yếu kém. Những tồn tại trên do
nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan. Trong đó có vấn đề nổi cộm
như: cơ chế chính sách chưa phù hợp, phân cấp quản lý còn chồng chéo, mâu thuẫn; còn
bất cập nhất là về giá nước; thất thu thất thoát còn lớn , trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và
người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu, tổ chức mô hình cấp nước chưa phù hợp.
Thực hiện Nghị định 117/CP, tính khả thi còn nhiều điều phải xem xét lại như: quy hoạch
cấp nước đô thị có đảm bảo 5 năm, 10 năm, dài hạn là 20 năm sao cho phù hợp với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển ngành.
Hoặc UBND tỉnh chỉ đạo việc chuyển giao các công trình cấp nước tại các thị trấn huyện
(đầu tư từ nguồn vốn nhà nước) cho công ty cấp nước tỉnh quản lý. Theo đó, đánh giá tài
sản nhất là đối với hệ thống ống nằm trong lòng đất đúng giá trị thực để bàn giao là điều
không dễ. Hiện tại quyền sở hữu tài sản còn chưa rõ ràng, các công ty cấp nước, UBND
tỉnh, thậm chí cả Chính phủ có thể giữ quyền sở hữu các phần tài sản khác nhau, tuỳ thuộc
vào nguồn tài chính tạo nên tài sản lúc đầu. Sẽ không phải là vấn đề lớn, như hiện nay khi
các công ty cấp nước do UBND tỉnh làm chủ sở hữu, nhưng nó sẽ là vấn đề quan trọng khi
thực hiện cổ phần hoá công ty cấp nước và hoạt động của công ty cấp nước ngày càng đi
theo định hướng thương mại.
Tất cả những lý do trên đặt ra yêu cầu cần đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô
thị tỉnh Thanh Hóa, đó là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn.
Là người tham gia quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp, trong đó có tham
mưu xây dựng giá nước sạch và đánh giá lại tài sản các công trình cấp nước tại các thị trấn
sắp tới, tác giả chọn đề tài "Đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá" làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý hoạt động cấp nước đô thị thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu, nhiều tổ chức; ở nước ta đã có một số công trình, đề tài khoa học được công bố liên
quan đến hoạt động cấp nước đô thị. Có thể nêu một số công trình, đề tài chủ yếu như sau:
- Arjun Thapan - Ngân hàng phát triển Châu á (2002), Đổi mới cơ chế, chính sách
cho ngành cấp nước và về sinh đô thị Việt Nam trên quan điểm của Ngân hàng Châu á,
Tham luận hội thảo.
- Bộ Xây dựng (2003) Đề tài khoa học, Điều tra đánh giá thực trạng tình hình quản
lý chi phí nước sạch của một số đô thị lớn Việt Nam.
- Bộ Xây dựng (Vụ tổ chức cán bộ-2005) Dự án, Điều tra đánh giá thực trạng và tổ
chức năng lực của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước phục
vụ việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp.
- Bộ Xây dựng (2003), Báo cáo về Thực trạng quản ký Nhà nước đối với các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cấp thoát nước tại các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
- Bùi Đức Hưng (2006), Luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Đổi mới quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực cấp nước đô thị ở Việt Nam.
- Công ty cấp nước Thanh Hoá (2002), Phương án Quản lý hệ thống cấp nước sạch
tại các huyện lỵ trong tỉnh.
- Công ty Nước và môi trường Việt Nam (2003), Dự án cải tạo, nâng công suất nhà
máy nước Mật sơn - Thanh Hoá từ 20.000m
3
/ngày,đêm lên 30.000m
3
/ngày, đêm (Nghiên
cứu khả thi).
- Đinh Tiến Dũng (2001), Thực trạng và tình hình giá tiêu thụ nước sạch hiện nay,
Tham luận hội nghị cấp nước toàn quốc lần thứ IV.
- Hội Cấp thoát nước Việt Nam (2002), Đổi mới cơ chế chính sách quản lý sản
phẩm công ích cấp nước, thoát nước và vệ sinh đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế.
- Thanh Hà (2006), Hệ thống cấp nước đô thị: Cần một mô hình quản lý tổng hợp,
vietnamnet. Vn.
- Hồ Xuân Hùng (2002), Đổi mới cơ chế quản lý giá bán nước sạch để công ty cấp
nước chuyển sang kinh doanh, Tham luận hội thảo.
- Hội Cấp thoát nước Việt Nam (2003), Đổi mới tổ chức và phát triển nguồn nhân
lực ngành cấp nước và vệ sinh đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế.
- Iize Gotelli- Chuyên gia thể chế ADB (2002), Đổi mới và quy định cho ngành
nước, Tham luận hội thảo.
- Lê Quang Vinh (2002), Đổi mới cơ chế chính sách quản lý cấp nước, Tham luận
hội thảo.
- Nghiên cứu mô hình quy hoạch và quản lý hiệu quả hệ thống cấp nước đô thị Việt
Nam, Vietnam/ Management.
- Nguyễn Văn Tình (2001), Tiếp tục hoàn thiện về quản lý và tổ chức nâng cao hiệu
quả cấp nước đô thị, Tham luận hội thảo.
- Trần văn Tá (2002), Đề xuất một số cơ chế, chính sách tài chính nhằm nâng cao
hiệu qủa hoạt động của các doanh nghiệp cấp nước theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá
IX , Tham luận hội thảo.
Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến đổi mới cơ chế quản lý một
số khía cạnh hoặc là cơ chế quản lý nói chung, hoặc là quản lý nhà nước ở tầm quốc gia
với nhiều cách tiếp cận lý giải khác nhau. Đối với tỉnh Thanh Hoá đã có một phương án tổ
chức hoạt động cấp nước; nội dung chủ yếu phản ánh tình hình thực hiện các dự án và vận
hành cấp nước ở các huyện thị hiện nay, đề xuất mô hình tổ chức và định hướng phát triển
của công ty cấp nước Thanh Hoá đến năm 2020.
Mặc dù các công trình nghiên cứu về hoạt động cấp nước đô thị trong và ngoài nước
khá đa dạng, nhiều cách tiếp cận, nhưng nội dung quản lý đối với hoạt động cấp nước đô thị
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, hiện chưa có công trình khoa học nào dưới dạng luận án, luận
văn từ thạc sỹ trở lên được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá đúng thực trạng, đề
xuất giải pháp đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ: + Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động cấp nước đô thị.
+ Phân tích thực trạng quản lý đối với hoạt động cấp nước đô thị ở Thanh Hoá, rút
ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô
thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị mà trọng tâm là
nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý hoạt động cấp nước
sạch đô thị trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, chủ yếu là quy hoạch, đầu tư phát triển, quản lý
vận hành, bán nước sạch và sử dụng nước. Các vấn đề khác có đề cập chỉ để đảm bảo tính
hệ thống của đề tài nghiên cứu.
Thời gian: Khảo sát thực trạng từ 2002-2007; đề xuất giải pháp đến 2015 và một số
giải pháp dài hạn cho những năm tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu, trong đó, chủ yếu dùng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, coi trọng mối liên hệ giữa lý luận,
quan điểm, đường lối của Đảng, tri thức khoa học kinh tế và kinh nghiệm thực tiễn phù
hợp với địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp thống kê, so sánh, điều tra mẫu, ý kiến chuyên gia có đối chiếu quy trình, quy phạm,
kinh nghiệm ở các địa phương trong nước và thế giới; phân tích so sánh kế thừa số liệu của
các công trình, dự án, tài liệu khoa học của các tác giả có liên quan đến đề tài luận văn.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá có bổ sung làm rõ cơ sở lý luận về nước sạch, quản lý hoạt động cấp
nước sạch đô thị.
- Đánh giá đúng thực trạng, đề xuất hệ thống giải pháp có căn cứ khoa học, có tính
thực tiễn và khả thi nhằm tiếp tục đổi mới quản lý hoạt động cấp nước đô thị trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá.
- Là tài liệu tham khảo cho các ngành, các cấp tỉnh Thanh Hoá nghiên cứu các vần
đề có liên quan đến hoạt động cấp nước đô thị.
- Là tài liệu tham khảo giúp lãnh đạo Công ty cấp nước Thanh Hoá hoạch định đúng
hướng, hiệu quả để phát triển doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
những vấn đề lý luận cơ bản
về quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.1. một số vấn đề chung về nước sạch và hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.1.1. Khái niệm và tiêu chuẩn nước sạch
* Khái niệm nước sạch: Nước sạch là khái niệm chung cho các loại nước dùng
trong sinh hoạt, công nghiệp, công cộng Theo nghị định 117/2007/NĐ-CP đưa ra khái
niệm: nước sạch là nước đã qua xử lý có chất lượng đảm bảo, đáp ứng yêu cầu sử dụng.
* Phân loại nước sạch: Có nhiều loại nước sạch với những tiêu chuẩn tuỳ thuộc vào
lĩnh vực sử dụng.
- Việc phân loại nước sạch tùy thuộc vào quan điểm của các quốc gia cũng như xây
dựng tiêu chuẩn đánh giá riêng biệt. Thông thường, nói đến nước sạch sẽ được hiểu là
nước sạch dùng cho sinh hoạt và ăn uống.
- Nước sạch trong các lĩnh vực cá biệt như y tế, hoá học được xây dựng theo chuẩn
riêng khác với nước sạch dùng trong các lĩnh vực khác.
- Phân loại nước sạch phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học và sự phát
triển kinh tế- xã hội. Mỗi quốc gia có tiêu chí phân loại nước sạch riêng biệt.
* Tiêu chuẩn nước sạch
- Đối với Việt Nam: Hiện tại, tiêu chuẩn nước sạch ở Việt Nam do Bộ Y tế ban hành
với 112 tiêu chí xác định. Theo đó, quy định tiêu chuẩn nước dùng trong ăn uống, chế biến
thực phẩm, dùng trong các cơ sở sản xuất; nước cấp theo đường ống từ nhà máy đến các
khu đô thị, nước cấp theo đường ống từ trạm cấp nước tập trung dùng cho từ 500 người trở
lên.
Trước đó, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 505/BYT/QĐ ngày 13/4/1992 về tiêu
chuẩn vệ sinh cấp nước cho ăn uống và sinh hoạt với 29 tiêu chí đánh giá (xem phụ lục 1).
- Đối với thế giới: Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ban hành tiêu chuẩn nước sạch cho
ăn uống và sinh hoạt với 30 tiêu chí cơ bản. Trong 30 tiêu chí của WTO có 10 tiêu chí
chưa có quy định cụ thể; các tiêu chí là thống nhất, không phân biệt thành thị, nông thôn,
nước mặt, nước ngầm. So với Việt Nam tiêu chuẩn của WTO có một vài khác biệt, nhưng
những tiêu chí cơ bản như độ pH, Asen , độ cặn hoà tan là tương đồng (xem phụ lục 2).
Tiêu chuẩn nước sạch của WHO với các tiêu chí đánh giá chỉ có tính chất tham
khảo; mỗi quốc gia xây dựng theo một tiêu chí riêng, tuỳ từng điều kiện, đặc điểm của mỗi
nước. Qua các tiêu chuẩn nước sạch của WHO và Việt Nam cho thấy một mặt, hệ tiêu chí
đánh giá thông qua các chất không hoàn toàn giống nhau; mặt khác, trong cùng một chất
giống nhau nhưng hàm lượng cũng có những khác biệt nhất định.
1.1.2. Vai trò của nước sạch đối với con người
Tầm quan trọng của nguồn nước nói chung và nước sạch nói riêng không chỉ dừng
lại trong phạm vi quốc gia, lãnh thổ mà là vấn đề mang tính toàn cầu, là nội dung trong
chương trình nghị sự, đã và đang được bàn luận sôi nổi và thu hút sự quan tâm về tình
trạng cạn kiệt nguồn nước, tình trạng nước bị ô nhiễm, thiếu nước sạch ở một số nơi trên
thế giới luôn là nội dung mang tính thời sự trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thế
giới đã từng chứng kiến những đại dịch cướp đi sinh mạng hàng ngàn người bởi nguồn
nước bị ô nhiễm hay những khó khăn mà con người phải đối mặt khi nguồn nước khan
hiếm. Theo báo cáo của Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc, nguồn nước sạch toàn
cầu đang cạn kiệt. Nguyên nhân là do sự bùng nổ dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường,
việc khai thác nguồn nước dưới đất vượt mức cho phép. Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Thời gian qua, chúng ta chứng kiến những "làng ung thư " ở Phú Thọ, Hải Phòng mà báo
chí liên tục đưa tin, tình trạng nước nhiễm bẩn ở Hà Nội, Đà Nẵng đã trực tiếp ảnh
hưởng đến cuộc sống, đến sức khoẻ, sự an toàn cá nhân và gây hoang mang trong dư luận
xã hội. Hiện mức độ ô nhiễm của các dòng sông Đáy- sông Nhuệ, sông Cầu và hạ lưu sông
Đồng Nai-Sài Gòn đang trong tình trạng báo động. Nhiều hồ nước tiềm ẩn khả năng tích
luỹ ô nhiễm kim loại, các hợp chất hữu cơ ở rất nhiều nơi khiến cho nguồn nước mặt
không sử dụng được. Nguồn nước dưới đất tại miền Bắc, miền Trung và mới đây là đồng
bằng sông Cửu Long cũng đang bị ô nhiễm asen một cách trầm trọng.
Chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế (IWRA) cho thấy, Việt Nam
đang và sẽ thiếu nước trong tương lai gần. Do vậy, bảo vệ tài nguyên nước là nhiệm vụ cấp
bách được đặt ra và cần quan tâm giải quyết trong giai đoạn hiện nay. Chiến lược Quốc gia
về tài nguyên nước đến năm 2020 cũng đã nêu rõ " bảo vệ tài nguyên nước và hệ sinh thái
thuỷ sinh" là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ chính thức.
Nước không đảm bảo tiêu chuẩn quy định, nói cách khác là nước vượt hàm lượng
tiêu chuẩn cho phép có thể dẫn đến những tác hại trước mắt cũng như lâu dài. Nếu như
một số chất hoà tan vượt quá tiêu chuẩn có thể dẫn đến tử vong như Thạch tín, thì một số
chất không gây ngộ độc hay tử vong ngay mà có thể ảnh hưởng đến các thế hệ tiếp theo đó
là Mangan hay Magiê. Lượng Amôniăc hay Sulphua vượt quá quy định sẽ gây mùi khó
chịu và là môi trường tốt cho vi khuẩn E.Coli gây bệnh; lượng sắt vượt quá quy định
không chỉ làm hỏng quần áo khi giặt giũ mà còn làm hỏng các thiết bị liên quan đến nước,
gây thiệt hại về kinh tế Như vậy, để đảm bảo sức khoẻ của mỗi cá nhân, của cộng đồng,
đảm bảo môi trường xanh, sạch thì nước ăn uống và sinh hoạt phải được cấp theo tiêu
chuẩn quy định [30, tr.12].
1.1.3. Hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.1.3.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động cấp nước sạch đô thị
- Hoạt động cấp nước: là các hoạt động có liên quan trong lĩnh vực sản xuất, cung
cấp và tiêu thụ nước sạch, bao gồm quy hoạch, tư vấn thiết kế, đầu tư xây dựng, tổ chức
vận hành, bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch và sử dụng nước.
- Dịch vụ cấp nước: là các hoạt động có liên quan của tổ chức, cá nhân trong lĩnh
vực bán buôn nước sạch, bán lẻ nước sạch.
- Đơn vị cấp nước: là tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động khai thác, sản xuất,
truyền dẫn, bán buôn nước sạch và bán lẻ nước sạch.
- Khách hàng sử dụng nước: là tổ chức, cá nhân và hộ gia đình mua nước sạch của
đơn vị cấp nước.
- Hệ thống cấp nước tập trung hoàn chỉnh: là một hệ thống bao gồm các công trình
khai thác, xử lý nước, mạng lưới đường ống cung cấp nước sạch đến khách hàng sử dụng
nước và các công trình phụ trợ có liên quan.
- Mạng lưới cấp nước: là hệ thống đường ống truyền dẫn nước sạch từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu thụ, bao gồm mạng cấp I, mạng cấp II, mạng cấp III và các công trình phụ trợ
có liên quan.
- Mạng cấp I: là hệ thống đường ống chính có chức năng vận chuyển nước tới khu
vực của vùng phục vụ cấp nước và tới các khách hàng sử dụng nước lớn.
- Mạng cấp II: là hệ thống đường ống nối có chức năng điều hoà lưu lưọng cho các
tuyến ống chính và đảm bảo sự làm việc an toàn của hệ thống cấp nước.
- Mạng cấp III: là hệ thống đường ống phân phối lấy nước từ các tuyến ống chính
và các ống nối dẫn nước tới các khách hàng sử dụng nước.
- Công trình phụ trợ: là các công trình hỗ trợ cho việc quản lý, vận hành, bảo
dưỡng, sửa chữa đối với hệ thống cấp nước như sân, đường, nhà xưởng, tường rào, trạm
biến áp, các loại hố van, hộp đồng hồ, họng cứu hoả
- Thiết bị đo đếm nước: là thiết bị đo lưu lượng, áp lực bao gồm các loại đồng hồ đo
nước, đồng hồ đo áp lực và các thiết bị, phụ kiện kèm theo.
- Vùng phục vụ cấp nước: là khu vực có danh giới xác định mà đơn vị cấp nước có
nghĩa vụ cung cấp nước sạch cho các đối tượng sử dụng nước trong khu vực đó [18, tr.1].
- Cấp nước sạch đô thị: liên quan đến việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị,
quy định tại Nghị định 72/2001/NĐ-CP. Loại đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn
được các cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập gồm 6 loại, từ loại đặc biệt đến loại
5; cấp quản lý gồm thành phố trực thuộc trung ương, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh hoặc
trung ương và thị trấn trực thuộc huyện với các tiêu chí cụ thể về mật độ dân số, quy mô
dân số, kết cấu hạ tầng, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
Bảng 1.1: Phân loại đô thị ở Việt Nam
Đô thị loại
Dạng Dân số Ghi chú
Đặc biệt Rất lớn Từ 1,5 triệu dân Hà Nội, Hồ Chí
Minh
1 T.P trực thuộc TW 0,5- 1,5 triệu dân 3 thành phố
2 Các thành phố thuộc
vùng, tỉnh
250 -500 nghìn dân
12 thành phố
3 Các thị xã tỉnh lỵ 100 - 250 nghìn 16 thị xã
4 Các đô thị loại 4 (tỉnh) 50 - 100 nghìn 58 đô thị
5 Các thị trấn 4 - 50 nghìn 612 thị trấn
Nguồn [14, tr.3].
1.1.3.2. Đặc điểm tài nguyên nước chi phối hoạt động cấp nước sạch đô thị
Ngoài các đặc điểm chung về tài nguyên nước trên cả nước đó là: nguồn tài nguyên
có hữu hạn nhưng nhu cầu đang tăng nhanh; chất lượng nước có nguy cơ bị ô nhiễm; tài
nguyên nước không chỉ có giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, cho tưới
tiêu, mà còn là nguồn năng lượng sạch, nguồn vật liệu của rất nhiều ngành như thuỷ sản,
tiểu thủ công nghiệp và đặc biệt là thuỷ điện. Đối với hoạt động cấp nước sạch đô thị tài
nguyên nước là đầu vào chủ yếu, là nhân tố quyết định sự lựa chọn quy hoạch, kế hoạch
khai thác, lựa chọn trình độ công nghệ.
Tài nguyên nước bao gồm nước mưa, lượng trữ ẩm, nước sông, hồ, đầm lầy, nước
trong lòng đất và nước ở biển. Trong phạm vi đề tài, chỉ đề cập rõ thêm đặc điểm tài
nguyên nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá có liên quan đến hoạt động cấp nước sạch đô thị.
Về mạng lưới sông ngòi: Hệ thống sông Thanh Hoá có 16 sông chính và nhánh, 4 sông
chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Lạch Bạng. Tổng chiều dài hệ thống 1.072 km,
mật độ xấp xỉ 0,1km/km
2
, các sông đều ngắn (trừ sông Mã dài 528 km), sông có độ dốc lớn
biến thiên từ 5,4% đến 23,7%.
Về nước mặt: Trung bình hàng năm tổng lượng nước mưa rơi trên diện tích Thanh
Hoá khoảng 19 tỉ m
3
, lượng nước bốc hơi trở lại khoảng 9 tỉ m
3
, còn lại 10 tỉ m
3
hình thành
nên dòng chảy mặt của sông suối và dòng chảy ngầm. Nước mặt chủ yếu tồn tại ở hệ thống
sông ngòi [1, tr.135].
Nguồn nước mặt Thanh Hoá rất phong phú về trữ lượng, có thể cung cấp nước cho
Thanh Hoá như 4 hệ thống sông, sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Lạch Bạng; ngoài
ra nhiều hồ lớn, cấp quốc gia như hồ sông Mực, cấp tỉnh như hồ Yên Mỹ, hồ Thung Bằng,
hồ Đồng Ngư Mặc dù vậy, số lượng và chất lượng nước mặt không ổn định mà biến
động theo 2 mùa rõ rệt, mùa lũ và mùa cạn tạo nên vùng ít nước vùng nhiều nước, gây khó
khăn lớn cho việc xử lý và không hiệu quả về kinh tế [1, tr.129].
Về nước ngầm: Theo đánh giá của Tổng cục Địa chất từ thập kỷ 60 đã tiến hành
điều tra, khảo sát đánh giá trữ lượng nước ở một số vùng Bỉm Sơn, Hàm Rồng, Sầm Sơn,
Tĩnh Gia; trữ lượng nước cấp C1là 242.930 m
3
/ngày; trữ lượng nước cấp C2 là 242.930
m
3
/ngày; trữ lượng nước cấp A là 34.300 m
3
/ngày; trữ lượng nước cấp B là 42.560
m
3
/ngày. Ngoài ra trước đây cũng đã thăm dò, khai thác nước ngầm ở một số nơi như nông
trường Đồng Giao, nông trường Hà Trung, nông trường Lam Sơn, công suất các lỗ khoan
đạt từ 200 m
3
/ngày đến 2.000 m
3
/ngày. Như vậy, lượng nước ngầm của Thanh Hoá không
nhiều khoảng 0,3 tỉ m
3
. Mặt khác, chất lượng nước ngầm dùng cho sinh hoạt phải đạt chỉ
tiêu độ pH nằm trong khoảng 6,5-8,5 và độ khoáng hoá nhỏ hơn 01mg/lít, hàm lượng vi
nguyên tố và các thành phần khác trong giới hạn cho phép. Nước ngầm Thanh Hoá nhìn
chung đạt tiêu chuẩn, trừ một vài nơi vùng biển có độ khoáng hoá từ 1-3 mg/lít. Tóm lại,
trong quy hoạch nước ngầm về chọn địa điểm khai thác cần phải khảo sát thêm một số
vùng nữa để có căn cứ chắc chắn; tuy nhiên, những số liệu có được cho thấy vùng đồng
bằng, đặc biệt là thành phố Thanh Hoá, Sầm Sơn là những nơi có trữ lượng nước nhiều,
chất lượng nước đảm bảo có thể khai thác nước ngầm.
Nếu đem chia bình quân lượng nước mưa rơi còn lại hình thành nguồn nước mặt
(9,7 tỉ m
3
), mỗi ngưòi dân được hưởng 2.636 m
3
/năm hoặc 7.221 lít /ngày. So với thế giới
giá trị này đứng thứ 4 , thế giới thấp nhất < 500m
3
và cao nhất 100.000m
3
/người/năm; so
với trong nước giá trị này khá cao, gấp 47 lần nước cấp sinh hoạt cho đô thị lớn (khoảng
150 lít/người/ngày) [1, tr.142].
Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi cơ bản nói trên tài nguyên nước của tỉnh Thanh Hoá
có những khó khăn phức tạp, như sau:
Thứ nhất, nguồn nước mặt thực tế không thật dồi dào: Việc sử dụng không hợp lý
tài nguyên khai thác rừng, canh tác du canh, phá rừng làm dẫy, làm cho xói mòn, rửa trôi
nhanh mạnh, gây nên hiện tượng bồi lắp dòng sông, gây lụt lớn ở đồng bằng, khô hạn ở
miền trung. Theo cân bằng nước trong điều kiện tự nhiên thì Thanh Hoá có nguồn nước
mặt dồi dào. Tuy nhiên, lượng dòng chảy các sông rất biến động, tình trạng nhiều hoặc ít
nước có khi kéo dài, dòng chảy các sông lại chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa lũ tương ứng với
mùa mưa, mùa cạn tương ứng với mùa ít mưa; lượng mưa 2 mùa ở các vùng chênh nhau
và phân phối không đều, nơi nhiều, nơi ít nước. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm
nghiên cứu và Thiết kế thuỷ điện trình bày trong báo cáo "Giải trình kinh tế kỹ thuật quy
hoạch thuỷ điện nước ta" tháng 12 năm 1980 cho biết, đối với Thanh Hoá những năm
nước trung bình, lượng nước dùng so với tổng lượng nước tự nhiên chiếm tỷ lệ nhỏ từ
0,15% đến 44,8%; đối với năm nước kiệt, thiết kế với P=75%, tỷ số này biến đổi từ 0,17%
đến 61,6% và với năm có P=95%, tỷ số này biến đổi từ 0,19% đến 90,1%. Tại khu vực
Lèn là nơi sử dụng nước nhiều nhất, hệ số khai thác tài nguyên nước vượt quá tiêu chuẩn
khai thác bền vững do UNESCO quy định. UNESCO đưa ra tiêu chí khai thác bền vững là
tỷ số dao động từ 30% đến 40%. Nhìn chung nguồn nước sông ngòi của Thanh Hoá thực tế
không thật dồi dào, đặc biệt vào mùa cạn. Xét về lâu dài, việc điều tiết và phân phối lại
nguồn nước là rất cần thiết.
Thứ hai, chất lượng nước bị ô nhiễm nhiều nơi: Hàng chục năm về trước, nước mặt
và nước ngầm ở Thanh Hoá còn khá sạch. Những năm gần đây bị ô nhiễm nặng nề do sử
dụng thuốc trừ sâu bệnh [1, tr.149]; do chất thải của môi trường đô thị và các cơ sở sản
xuất kinh doanh tăng nhanh. Về nông nghiệp, hàng năn Thanh Hoá sử dụng từ 1500 đến
2000 tấn thuốc trừ sâu bệnh. Về môi trường đô thị, tại Thành phố Thanh Hoá các hồ chứa
nước nội và ven thành phố như Hồ Thành, Hồ Máy đèn hoặc bị lấp để xây dựng nhà ở,
hoặc do dùng phân sống nuôi cá và nơi chứa mọi chất thải sinh hoạt; mỗi ngày có 250 m
3
chất thải rắn, nhưng Công ty Môi trường Đô thị mới chỉ gom được 100 m
3
; hệ thống thoát
tiêu nước mới chỉ đạt khoảng 20%, ngoài cống tiêu chảy thẳng ra sông Bến Ngự, còn
nhiều khu dân cư mới xây dựng không có hệ thống thoát nước; các chất thải đều được xả
trực tiếp, hoặc gián tiếp (ngấm qua đất) xuống các dòng sông. Thị xã Sầm Sơn là khu du
lịch cũng chưa có hệ thống tiêu thoát nước và cung cấp nước sạch cho sinh hoạt, chủ yếu
dùng giếng khơi. Tình trạng ứ đọng nước ở vùng trũng, địa hình thấp của các huyện Nông
Cống, Quảng Xương, Hà Trung gây nên hiện tượng yếm khí, gây dịch bệnh và lầy hoá.
Những biến động theo hướng xấu nói trên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nước. Sự lạm
dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, các chất thải không qua xử lý làm cho dòng chảy hồi
quy bị ô nhiễm nặng, đe doạ đến môi trường nước. Một số nơi, nhất là các vùng đô thị và
khu công nghiệp, vùng đồng bằng ven biển có biểu hiện suy thoái chất lượng nước đến
mức báo động.
Thứ ba, yêu cầu về nước tăng mạnh: Dân số tăng nhanh, tốc độ hoá đô thị càng tăng
nhanh đặt ra yêu cầu ngày càng cao về cấp nước, đặc biệt là cấp nước đô thị nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Theo Quyết định số 3023/2006/QĐ-UBND của tỉnh
Thanh Hoá "đến năm 2010 nâng tỷ lệ đô thị hoá của tỉnh lên 20-25%, đến năm 2020 tỷ lệ
hoá của tỉnh đạt 36% trở lên (năm 2006 tỷ lệ 9,8%); đảm bảo đến năm 2015 trở đi 100%
dân số đô thị được sử dụng nước sạch với tiêu chuẩn 100 đến 150 lít/người/ ngày". Hiện
nay, chỉ có khoảng 77% đân số đô thị Thanh Hoá được cấp nước sạch với mức 70
lít/người/ ngày. Do vậy, để thực hiện định hướng nêu trên, Thanh Hoá cần có một chiến
lược bảo vệ tài nguyên nước hữu hiệu, đáp ứng lượng nước cho sinh hoạt đến năm 2015 sẽ
tăng gấp 7,6 lần năm 2006, và năm 2020 sẽ tăng gấp 11,2 lần năm 2006 [53, tr.6].
1.2. Quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị
1.2.1. Mục tiêu quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị
Trong quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị, mục tiêu và trách nhiệm được phân
định giữa cơ quan quản lý nhà nước, với các công ty cấp nước và các tổ chức khác thực
hiện sản xuất, cung ứng, tiêu thụ nước sạch đô thị. Trong quản lý nhà nước lại được phân
định giữa cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương. Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chiến lược cấp nước đô thị; uỷ ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm về cung cấp các
dịch vụ cấp nước và phê duyệt những dự án đầu tư dưới 200 triệu đồng, các dự án có quy
mô công suất từ 30.000 m
3
/ ngày trở lên đối với đô thị loại đặc biệt và 10.000 m
3
/ ngày trở
lên đối với các đô thị còn lại phải có ý kiến thoả thuận bằng văn bản của Bộ Xây dựng
trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Công ty cấp nước tỉnh có trách nhiệm cấp
nước cho các khu vực đô thị, bao gồm vận hành các nhà máy nước và mạng lưới phân
phối. Bên cạnh đó, còn nhiều tổ chức chính thức và phi chính thức tham gia trong hoạt
động cấp nước hoặc trong các lĩnh vực liên quan như các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính
phủ quốc tế, hội cấp nước Việt Nam Ngoài ra, các bộ có liên quan, tuỳ theo chức năng
nhiệm vụ của mình chịu trách nhiệm trước Chính phủ đối với hoạt động cấp nước đô thị.
* Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp nước đô thị được xác định
cụ thể trong các chiến lược, chính sách về cấp nước ở cấp Chính phủ. Mục tiêu định hướng
phát triển cấp nước đô thị đến 2020 xác định: (1) 100% dân cư đô thị được tiếp cận với
nước sạch ở mức 120-150 lít/người/ngày; (2) Cải cách toàn bộ hệ thống ngành cấp nước
theo hướng nâng cao năng lực, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và các chính sách có liên quan;
(3) Hiện đại hoá công nghệ, thiết bị và tăng cường phát triển nguồn nhân lực; (4) Huy
động sự đóng góp của cộng đồng và của tất cả các ngành kinh tế. Chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và giảm nghèo xác định đến năm 2005 có 80% dân cư đô thị, đặc biệt là dân
sống xa các đường giao thông được tiếp cận với nước sạch ở mức 50 lít/người/ngày. Chiến
lược Môi trường xác định đến năm 2010 có 95% dân cư đô thị được tiếp cận với nước
sạch.
Với những mục tiêu định hướng chiến lược và các cam kết quốc tế, Bộ Xây dựng
với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về cấp nước đô thị tổ chức thực hiện các nội dung
quản lý nhà nước đối với các loại đô thị và các thị trấn.
* Mục tiêu của hoạt động sản xuất, cung ứng tiêu thụ nước sạch đô thị là phát triển
hệ thống cấp nước đô thị một cách ổn định, đáp ứng yêu cầu tiêu thụ cho sản xuất và tiêu
dùng; thực hiện hạch toán kinh doanh, theo cơ chế thị trường, có điều kiện quản lý đặc thù
của Nhà nước.
Trong hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ nước sạch đô thị có 3 hình thức đang
tồn tại và hoạt động đó là: Cấp nước do các công ty Nhà nước, cấp nước ở các thị trấn và
tự cấp.
- Cấp nước do các công ty Nhà nước
Trong thời gian qua, nhiều công ty cấp nước do uỷ ban nhân dân tỉnh thành lập và
hoạt động theo mô hình doanh nghiệp công ích, được phân cấp quản lý từ cấp trung ương
đến cấp địa phương do nhà nước là chủ sở hữu. Thời còn cấp chủ quản các công ty này
thuộc sự quản lý của Sở Xây dựng hoặc Sở Giao thông công chính (thành phố lớn). Mặc
dù được phân cấp nhưng trên thực tế, quyền tự chủ của các công ty này vẫn bị hạn chế. Uỷ
ban nhân dân tỉnh phê duyệt giá nước và quyết định các vấn đề quan trọng về quản lý, vận
hành như tổng mức sản xuất, tổng vốn đầu tư, tổng quỹ lương; bổ nhiệm chánh phó giám
đốc và kế toán trưởng đã hạn chế tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Các công ty cấp nước không có quyền sở hữu tài nguyên nước hay sử dụng đất.
Mặc dù tỉnh sở hữu các tài sản của công ty cấp nước nhưng không có hợp đồng nào giữa
tỉnh và công ty để phân rõ quyền hạn và trách nhiệm. Các công ty cấp nước cấp tỉnh phần
lớn hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước. Nhiệm vụ chủ yếu của các công ty là sản
xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch; một số công ty có thêm những hoạt động khác như
thi công, lắp đặt hay buôn bán thiết bị, vật tư ngành nước. Nước sạch là hàng hoá đặc thù
với việc tổ chức mạng lưới cung ứng khá tốn kém nên hiện không có sự cạnh tranh giữa
các công ty trong việc cung ứng dịch vụ cấp nước. Hiện nay Chính phủ đang giao cho Bộ
Xây dựng có trách nhiệm đề xuất cải tiến các mô hình tổ chức và cơ chế quản lý các công
ty cấp nước, làm rõ quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và nhà vận hành, nhằm cải tổ cơ
cấu, quy hoạch cấp nước, quản lý thất thoát, thất thu cũng như tránh lạm dụng độc quyền
thông qua việc ban hành các tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật, kinh tế, cổ phần hoá các công
ty cấp nước và chuyển đổi từ mô hình doanh nghiệp công ích sang kinh doanh.
- Cấp nước ở các thị trấn
Có rất nhiều mô hình quản lý khác nhau cho các dịch vụ cấp nước tại các thị trấn. Hiện
tại có thể khái quát trên 5 mô hình: (1) Uỷ ban nhân dân thị trấn trực tiếp quản lý; (2) Quản lý
bởi cộng đồng; (3) Quản lý bởi các hợp tác xã; (4) Công ty cấp nước tỉnh quản lý; (5) Các
công ty cấp nước tư nhân quản lý.
Các công ty cấp nước tỉnh mặc dù chịu trách nhiệm cấp nước cho đô thị loại 4 trở
lên, nhưng trên thực tế uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định về quyền sở hữu đối với dự án cấp
nước tại các thị trấn. Chủ dự án thường là công ty cấp nước tỉnh, trung tâm nước sạch và
vệ sinh nông thôn, uỷ ban nhân dân huyện hoặc thị trấn. Trong các mô hình quản lý nêu
trên, quản lý cấp nước cho các thị trấn chủ yếu do công ty cấp nước tỉnh, uỷ ban nhân dân
thị trấn; các mô hình còn lại thường cấp nước cho các thị tứ và khu vực nông thôn.
Mặc dù các mô hình cấp nước đối với thị trấn trong thời gian qua có những đóng
góp quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia, nâng cao tỷ lệ dân cư đô
thị được tiếp cận với nước sạch, từng bước hoàn thiện hệ thống cung cấp nước sạch trên
phạm vi toàn quốc, nhưng mô hình này ngày càng bộc lộ những bất cập, trong đó quyền sở
hữu tài sản và cơ chế vận hành là những nội dung cốt lõi. Trong một thời gian dài, các chủ
dự án, đặc biệt chủ dự án là uỷ ban nhân dân huyện thị rất tích cực trong việc phát triển
mạng lưới cấp nước. Tuy nhiên, đây không phải là một mô hình thành công vì nó chú
trọng tới việc hình thành tài sản hơn là quản lý và vận hành tài sản, bảo dưỡng tài sản. Kết
quả là, nhiều hệ thống mà người dân không muốn vẫn dược xây dựng; dự án không tính
toán kỹ hiệu quả, dư thừa công suất, chủ quản lý, không đủ năng lực trình độ, nhiều tài sản
bị hư hỏng xuống cấp, chất lượng nước không đảm bảo, thất thoát lớn [30, tr.18].
- Tự cấp
Việc tự cấp tồn tại ở cả nông thôn và khu vực đô thị. nguyên nhân của các tình
trạng tự cấp một cách tự phát chủ yếu do việc cư dân chưa được tiếp cận với nguồn nước
sạch của các công ty cung cấp, hoặc là do không phải trả tiền khi sử dụng nước trong một
số trường hợp như kinh doanh dịch vụ, rửa xe Hình thức tự cấp có thể do một tổ chức
đứng ra đầu tư mua sắm thiết bị để phục vụ nước cho chính tổ chức đó, hoặc có thể kinh
doanh nhỏ để bán nước cho người có nhu cầu. Trường hợp phổ biến nhất là các hộ gia đình
sử dụng giếng khoan, giếng tự đào để khai thác nước phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày [30, tr.18].
Cho đến nay quản lý nhà nước đối với hình thức tự cấp ở các đô thị vẫn còn nhiều
nan giải, mặc dù Luật tài nguyên nước đã được ban hành từ khá lâu. Việc buông lỏng quản
lý do nhiều nguyên nhân, hậu quả của việc khoan giếng, đào giếng bừa bãi thiếu quy
hoạch, phá vỡ gây ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm là một thách thức không nhỏ đối
với các cấp chính quyền.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý hoạt động cấp nước sạch đô thị
- Hoạt động cấp nước là loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh chịu sự kiểm soát
của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đơn vị cấp nước và khách
hàng sử dụng nước, trong đó có xét đến việc hỗ trợ cấp nước cho người nghèo, các khu
vực đặc biệt khó khăn.
- Phát triển hoạt động cấp nước bền vững trên cơ sở khai thác tối ưu mọi
nguồn lực, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch với chất lượng đảm bảo, dịch vụ văn minh
và kinh tế cho nhân dân và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
- Khai thác, sản xuất và cung cấp nước sạch không phụ thuộc vào địa giới hành
chính.
- Ưu tiên khai thác nguồn nước để cấp nước cho mục đích sinh hoạt của cộng đồng.
- Khuyến khích sử dụng nước sạch hợp lý, tiết kiệm và áp dụng các công nghệ tái
sử dụng nước cho các mục đích khác nhau.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế, cộng đồng xã hội tham gia đầu tư phát triển
và quản lý hoạt động cấp nước [18, tr.2].
* Các hành vi bị cấm trong hoạt động cấp nước sạch đô thị
- Phá hoại các công trình, trang thiết bị cấp nước.
- Vi phạm các quy định về bảo vệ khu vực an toàn giếng nước ngầm, nguồn nước
mặt phục vụ cấp nước.
- Vi phạm các quy định về bảo vệ hành lang an toàn tuyến ống nước thô, đường ống
truyền tải nước sạch, các công trình kỹ thuật và mạng lưới cấp nước.
- Cản trở việc kiểm tra, thanh tra hoạt động cấp nước.
- Trộm cắp nước.
- Gây ô nhiễm nước sạch chưa sử dụng.
- Cung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân khác trong hoạt động cấp nước.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gây phiền hà, sách nhiễu các tổ chức, cá nhân
khác trong hoạt động cấp nước.
- Đơn vị cấp nước cung cấp nước sạch cho mục đích sinh hoạt không đảm bảo quy
chuẩn kỹ thuật theo quy định hiện hành.
- Các hành vi phát tán chất độc hại và các bệnh truyền nhiễm, bệnh dễ lây lan.
- Các hành vi khác vi phạm các quy định của pháp luật về cấp nước.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động cấp nước sạch đô thị
Trong phạm vi đề tài chủ yếu nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về hoạt động
cấp nước sạch đô thị bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
1.2.3.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch cấp nước sạch đô thị
Quy hoạch, kế hoạch cấp nước đô thị được lập, phê duyệt làm cơ sở cho các hoạt
động cấp nước tiếp theo. Khi lập quy hoạch xây dựng phải tổ chức nghiên cứu lập quy
hoạch cấp nước như một bộ phận không thể tách rời của quy hoạch xây dựng.
- Quy hoạch cấp nước đô thị được lập cho giai đoạn ngắn hạn 05 năm, 10 năm; giai
đoạn dài hạn là 20 năm. Thời gian lập đồ án quy hoạch cấp nước đô thị không quá 12
tháng [18, tr.6].
- Nhiệm vụ, căn cứ lập quy hoạch cấp nước đô phải đánh giá và dự báo phát triển
đô thị, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các
ngành; điều kiện tự nhiên và diễn biến môi trường; đánh giá, dự báo nguồn nước, chất
lượng, trữ lượng và khả năng khai thác nguồn nước của đô thị; tổ chức cấp nước đô thị tối
ưu về mọi mặt.
- Tuỳ theo đặc điểm quy mô của từng đô thị, nội dung quy hoạch cấp nước đô thị
phải lựa chọn các công việc thích hợp để thực hiện nhiệm vụ; nội dung còn phải xác định
các chỉ tiêu cấp nước cho từng mục đích sử dụng; lựa chọn nguồn cấp nước, điểm lấy
nước, vị trí, quy mô công suất các công trình cấp nước; xác định cấu trúc mạng lưới đường
ống cấp nước, phân vùng cấp nước cho từng giai đoạn quy hoạch.
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch
cấp nước đô thị trong địa giới hành chính do mình quản lý. Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt (hoặc uỷ quyền cho Bộ Xây dựng phê duyệt), Bộ Xây dựng chủ trì thẩm định nhiệm
vụ, đồ án quy hoạch cấp nước đô thị loại đặc biệt; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt
nhiệm vụ, đồ án quy hoạch cấp nước đô thị (trừ đô thị loại đặc biệt) thuộc địa giới hành
chính do mình quản lý; Bộ Xây dựng xem xét, có ý kiến thoả thuận đối với đồ án quy
hoạch cấp nước đô thị từ loại II trở lên; Sở Xây dựng các tỉnh thẩm định các nhiệm vụ, đồ
án quy hoạch cấp nước đô thị loại thuộc thẩm quyền phê duyệt của Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh.
- Người có thẩm quyền phê duyệt đồ án quy hoạch cấp nước đô thị ban hành quy
định về quản lý quy hoạch cấp nước đô thị. Nội dung quy định bao gồm: (1) Quy định về
vị trí, vai trò, chức năng, quy mô các công trình cấp nước; (2) Quy định về phạm vi bảo vệ,
hành lang an toàn đối với các công trình cấp nước và mạng lưới đường ống của hệ thống
cấp nước; (3) Phân công và quy định trách nhiệm quản lý của các cấp chính quyền đô thị
và các tổ chức, các nhân liên quan trong việc thực hiện và quản lý quy hoạch cấp nước đô
thị; (4) Các quy định khác. Quy hoạch cấp nước đô thị được điều chỉnh trong các trường
hợp có sự điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội; có sự biến động lớn về
trữ lượng, chất lượng nguồn nước so với dự báo.
1.2.3.2. Đầu tư phát triển cấp nước sạch đô thị
* Lựa chọn đơn vị cấp nước
- Đơn vị cấp nước có thể lựa chọn và được lựa chọn làm chủ đầu tư một, một số
hoặc đồng bộ tất cả các hạng mục của hệ thống cấp nước để kinh doanh bán buôn, bán lẻ
nước sạch. Đối với địa bàn đã có tổ chức, cá nhân đang thực hiện dịch vụ cấp nước thì tổ
chức, cá nhân đó được chỉ định là đơn vị cấp nước. Đối với địa bàn chưa có đơn vị cấp
nước thực hiện dịch vụ cấp nước, việc lựa chọn đơn vị cấp nước được tiến hành theo các
quy định của pháp luật về đấu thầu và điều kiện cụ thể của từng địa phương.
- Các công trình nguồn cấp nước đã được xác định theo quy hoạch cấp nước được
công bố, kêu gọi đầu tư và tổ chức đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư; đơn vị cấp nước đã thực
hiện đầu tư xây dựng giai đoạn trước có thể dược xem xét, chỉ định làm chủ đầu tư giai
đoạn sau.
- Khuyến khích, tạo điều kiện các tổ chức, cá nhân chủ động nghiên cứu, đăng ký
làm chủ đầu tư các dự án đầu tư phát triển cấp nước.
- Uỷ ban nhân dân các cấp, ban quản lý khu công nghiệp tổ chức lựa chọn đơn vị
cấp nước trên địa bàn do mình quản lý. Đối với phạm vi cấp nước liên tỉnh, Bộ Xây dựng
tổ chức lựa chọn đơn vị cấp nước đối với các công trình cấp nước đô thị, khu công nghiệp.
* Đầu tư xây dựng công trình cấp nước
- Đầu tư xây dựng công trình cấp nước phải phù hợp với quy hoạch phát triển cấp
nước. Đầu tư phát triển mạng phân phối, đấu nối tới các khách hàng thuộc trách nhiệm,
thẩm quyền của đơn vị cấp nước. Quy mô đầu tư phải phù hợp với nhu cầu thực tế và đón
đầu quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch cấp nước không
quá 5 năm, tránh đón đầu quá xa nhằm phát huy hiệu quả đầu tư.
- Quản lý chất lượng xây dựng công trình cấp nước phải tuân theo các quy định của
pháp luật về xây dựng. Các công trình cấp nước có quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng phải
được kiểm tra, chứng nhận sự phù hợp về chất lượng của công trình trước khi đưa vào khai
thác, sử dụng.
- Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước được lập, thẩm định, phê duyệt và
triển khai phải tuân thủ các quy định của Nhà nước.
- Khi nghiên cứu lập dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước mà làm thay đổi
một cách cơ bản điều kiện chất lượng dịch vụ và mức giá nước sạch, phải tiến hành tổ
chức điều tra, khảo sát lại các tiêu chí và tham vấn ý kiến cộng đồng; lựa chọn phương án
kỹ thuật, công nghệ, quy mô công suất và khả năng nguồn vốn thích hợp để bảo đảm hiệu
quả kinh tế tổng hợp của dự án; dự thảo nội dung Thoả thuận thực hiện dịch vụ cấp nước
giữa Uỷ ban nhân dân và đơn vị cấp nước.
- Các dự án có quy mô công suất từ 30.000 m
3
/ ngày trở lên đối với đô thị loại đặc
biệt và 10.000 m
3
/ ngày trở lên đối với các đô thị còn lại phải có ý kiến thoả thuận bằng
văn bản của Bộ Xây dựng trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt [18, tr.18].
* Nguồn tài chính để đầu tư
- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước: tập trung chủ yếu cho các mục tiêu phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; trong nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước nêu trên, trái
phiếu Chính phủ là một trong những kênh huy động vốn quan trọng. Chẳng hạn, giai đoạn
2001-2005 Chính phủ đầu tư 300 ngàn tỷ đồng từ nguồn ngân sách thì trái phiếu Chính
phủ trên 73 ngàn tỷ đồng. ở cấp chính quyền địa phương, gần đây nhiều địa phương cũng
bắt đầu nghiên cứu để áp dụng các hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
chính quyền địa phương để huy động vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng, mà điển hình là
Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai
Tại công ty cấp nước tỉnh nguồn vốn ngân sách dùng làm vốn đối ứng theo yêu cầu
của các tổ chức cho vay hoặc tài trợ vốn.
- Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Là nguồn vốn tập trung hỗ trợ cho
các lĩnh vực phát triển kinh tế- xã hội, trong đó dự án cấp thoát nước chiếm xấp xỉ 10%.
Vốn ODA hỗ trợ đáng kể cho ngân sách của Chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu
kinh tế; đối với các dự án phát triển cấp thoát nước thì đây là nguồn vốn chủ yếu [26,
tr.28].
- Hệ thống ngân hàng: Ngày càng nhiều dự án phát triển cấp nước sử dụng vốn vay
ngân hàng thương mại, hiện tại và lâu dài thì đây vẫn là kênh chủ đạo trong việc đáp ứng
nhu cầu vốn cho đầu tư của Việt Nam, trong đó có cấp thoát nước.
- Hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển và Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ hỗ trợ phát triển
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội cấp Quốc gia, nguồn vốn từ Chính phủ
giao để đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước Quỹ đầu tư
phát triển được thành lập để huy động các nguồn vốn phục vụ đầu tư kết cấu hạ tầng kinh
tế- xã hội của từng địa phương; Những năm vừa qua các quỹ này đã đóng góp đáng kể
trong việc cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng của nước ta.
- Quỹ quay vòng cấp nước: Chính phủ cho phép thành lập Quỹ quay vòng cấp nước
do Ngân hàng phát triển Việt Nam quản lý nhằm tạo nguồn tài chính ưu đãi, sẵn có cho
các dự án đầu tư phát triển cấp nước đô thị nhỏ và khu dân cư tập trung.
- Đầu tư từ doanh nghiệp: Doanh nghiệp cũng tham gia tích cực vào dự án phát
triển cấp nước bằng nguồn vốn tự có và vốn vay. Luật cũng đã cho phép doanh nghiệp
được phát hành trái phiếu để đa dạng hoá hình thức huy động vốn cho dự án đầu tư.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư: Nhà nước mở rộng cho các
nhà đầu tư thuộc mọi thành phần tham gia đầu tư vào từng khâu của quá trình cấp nước.
Nhà nước cho phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, đây là một kênh huy
động vốn thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cấp nước nói riêng.
Thị trường vốn Việt Nam đã có những phát triển mạnh, mở ra một kênh huy động vốn
trung dài hạn mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và của doanh nghiệp, đồng thời
thúc đẩy quá trình minh bạch hoá hoạt động của các doanh nghiệp. Để khuyến khích, Nhà
nước hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào như điện, đường; bồi
thường, giải phóng mặt bằng và một phần chi phí đầu tư, cho những vùng đặc biệt khó khăn
về nguồn nước; ưu tiên sử dụng các nguồn tài chính ưu đãi, không phân biệt đối tượng sử
dụng; ưu tiên hỗ trợ lãi suất sau đầu tư các dự án cấp nước sử dụng vốn vay thương mại; miễn
tiền sử dụng đất
Tuy nhiên, mức độ tự chủ của các công ty cấp nước đô thị còn yếu và đặc biệt là
chính sách giá nước chưa phù hợp, không đảm bảo được sự bền vững về tài chính cho
doanh nghiệp là nguyên nhân cơ bản hạn chế các thành phần kinh tế tham gia đầu tư.
1.2.3.3. Cơ chế chính sách
Bao gồm các quy định pháp lý, nghị định, thông tư, quyết định và các quy định
khác có liên quan đến hoạt động cấp nước sạch đô thị:
Nghị định số 179/1999/NĐ-CP ngày 30/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ Quy
định thi hành Luật Tài nguyên nước với mục đích thiết lập chính sách, quyền và nghiã vụ
của các tổ chức, cá nhân về quản lý tài nguyên nước;
Quyết định số 63/1998/QĐ-TTg ngày 18/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ Về phê
duyệt Định hướng phát triển cấp nước đô thị Quốc gia đến năm 2020;
Chỉ thị số 40/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/12/1998 Về việc
tăng cường công tác quản lý và phát triển mạng lưới cấp nước đô thị;
Chỉ thị số 04/2004/CT-TTg ngày 20/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ Về đẩy
mạnh công tác quản lý cấp nước và tiêu thụ nước sạch;
Quyết định số 104/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ Phê
duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn;
Thông tư liên tịch số 03/1999/TTLT/BXD-BVGCP ngày 16/6/1999 của Bộ Xây
dựng, Ban Vật giá Chính phủ Hướng dẫn phương pháp định giá và thẩm quyền quyết định
giá tiêu thụ nước sạch đô thị, khu công nghiệp, cụm dân cư nông thôn;
Thông tư liên tịch số 104/2004/TTLT-BTC-BXD ngày 8/11/2004 của Bộ Tài chính,
Bộ Xây dựng Hướng dẫn nguyên tắc, phương pháp xác định và thẩm quyền quyết định giá
tiêu thụ nước sạch tại các khu đô thị, khu công nghiệp, cụm dân cư nông thôn;
Quyết định số 1329/2002/QĐ-BYT ngày 18/4/2002 của Bộ trưởng Bộ Y tế Ban
hành tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống;
Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ Về việc
phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị;
Quyết định số 38/2005/QĐ-BTC ngày 30/6/2005 của Bộ Tài chính Về khung giá
tiêu thụ nước sạch sinh hoạt;
Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ Về sản
xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch.
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, có liên quan đến hoạt động cấp nước
sạch đô thị đối với ngành cấp nước được phân chia tương đối cụ thể, rõ ràng. Định hướng,
chiến lược phát triển cấp nước do Chính phủ phê duyệt và thống nhất quản lý về hoạt động
cấp nước. Các Bộ ngành Trung ương tuỳ theo chức năng nhiệm vụ của mình có trách
nhiệm quản lý nhà nước, nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách có liên quan đến hoạt
động cấp nước trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền; hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện đối với các hoạt động cấp nước.
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước, tổ chức và phát triển
các hoạt động cấp nước trên địa bàn do mình quản lý; lựa chọn và thành lập mới đơn vị
cấp nước, hỗ trợ, tạo điều kiện và tổ chức giám sát thoả thuận dịch vụ cấp nước. Các công
ty cấp nước có nhiệm vụ tổ chức sản xuất an toàn, cung cấp ổn định, đảm bảo chất lượng
nước, áp lực, lưu lượng và tính liên tục theo quy chuẩn kỹ thuật và hợp đồng dịch vụ cấp
nước; cơ chế chính sách đối với công ty cấp nước bao gồm các quy định theo hướng đổi
mới doanh nghiệp, phù hợp với cơ chế thị trường, tăng cường tự chủ tài chính, đảm bảo
tính ổn định, bền vững và phát triển.
1.2.3.4. Quản lý giá tiêu thụ nước sạch, chống thất thu, thất thoát nước
* Quản lý giá tiêu thụ nước sạch đô thị
Thủ tướng Chính phủ giao cho các cơ quan quản lý nhà nước ban hành các văn bản
liên quan đến giá nước sạch như: nguyên tắc tính giá nước; căn cứ lập, điều chỉnh giá
nước; trình tự lập và trình phương án giá nước; thẩm quyền quyết định giá nước phù hợp
với định hướng Chiến lược cấp nước đô thị. Theo đó, liên Bộ Tài chính-Xây dựng hướng
dẫn về nguyên tắc tính giá nước sạch phải được tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí sản
xuất hợp lý để doanh nghiệp duy trì và phát triển, khuyến khích nâng cao chất lượng nước,
chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, sử dụng nước tiết kiệm; Giá được xác định theo khối
lượng tiêu thụ và mục đích sử dụng phù hợp với đặc điểm tiêu dùng nước, nguồn nước,
điều kiện sản xuất thực tế và khả năng chi trả của khách hàng đồng thời phải nằm trong
khung giá của Nhà nước. Giá nước được xem xét điều chỉnh khi có biến động về chi phí
sản xuất, sự thay đổi chế độ chính sách của nhà nước. Doanh nghiệp cấp nước lập phương
án giá nước cho từng nhóm đối tượng theo mục đích sử dụng và trình UBND tỉnh xem xét,
quyết định phê duyệt [2, tr.1].
Như vậy, Nhà nước quy định khung giá; doanh nghiệp được đề xuất giá qua phương
án, không có quyền định giá; Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định giá nước sinh hoạt
phù hợp với khung giá.
Đối với giá tiêu thụ nước sạch theo mục đích sử dụng căn cứ vào giá tiêu thụ nước
sạch bình quân, khung giá của Nhà nước và căn cứ vào cơ cấu đối tượng tiêu thụ nước để
xác định hệ số tính giá theo nguyên tắc, tổng các mức giá bình quân cho các đối tượng
bằng mức giá tiêu thụ bình quân; hệ số tính giá tiêu thụ nước sạch tối thiểu bằng 0,8 và tối
đa bằng 3.
* Chống thất thu, thất thoát nước
Thất thoát nước là lượng nước mất đi không sử dụng, thường là do đường ống, phụ
kiện, công trình bị hư hỏng để rò rỉ mất nước. Thất thu nước là lượng nước sử dụng nhưng
không thu được tiền, thường là nước không qua đồng hồ hoặc nước lấy từ vòi nước trái phép.
Tình hình thất thoát thất thu tiền nước hết sức bức bách đối với các công ty cấp nước trên toàn