Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH TẠI VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.54 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------- -------

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
CÁC PHONG TRÀO ĐẤU TRANH TẠI VIỆT
NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI

1


2


Phần mở đầu
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập
chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Quá
trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có
những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong
xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ
nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, với mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ
chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không
tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ.
Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử
dân tộc, có vai trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong
các phong trào cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng


xâm lược nước ta thì phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo
vệ nền độc lập dân tộc đã bắt đầu. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các
cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó
là cuộc chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tri Phương,
Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực...
Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi "Cần Vương" của Phan Đình Phùng,
Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Cơng Tráng... Những cuộc đấu tranh vơ cùng oanh liệt đó
của Nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Mặc dù bị
đàn áp dã man nhưng các phong trào yêu nước vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, các phong trào đó đã không đi đến thành công. Phong trào nông
dân không giải quyết được mâu thuẫn giữa địa chủ, phong kiến và nơng dân, nhân
dân lao động nói chung. Phong trào u nước muốn phát triển đất nước theo chiều
hướng tư sản và tiểu tư sản không giải quyết được mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
đang phát triển ngày càng mạnh với giai cấp tư sản mà chủ yếu là tư sản Pháp; do đó,
cũng khơng giải quyết được triệt để mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp, không tranh thủ được sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới đang dâng
lên mạnh mẽ. Bài học rút ra ở đây là phải có một tổ chức đủ sức lãnh đạo quần chúng
nhân dân đi tới thắng lợi. Đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam.

3


Phần nội dung

I.

Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng ra đời
1. Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa

Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với

truyền thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược
lớn mạnh. Từ đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc
Pháp, đã nhịm ngó, xâm lược nước ta, mở đầu bằng việc khai thông buôn bán và
truyền giáo. Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều
đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình
nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ
đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế
quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền hành đều
nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trị bù nhìn. Chúng thi
hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương,
rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào,
Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để
trị" của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung
một dịng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống,
chung một tiếng nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy,
người ta hy vọng làm nguội được tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An
Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ
chống lại nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một
"Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dương"...
Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở
mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để
cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền
kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài ngun
và bóc lột nhân cơng rẻ mạt. Bên cạnh sự bóc lột nhân cơng và cướp đoạt tài ngun,
đất đai, bọn thực dân Pháp cịn duy trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa
tơ, lợi tức và các hình thức thuế khố rất nặng nề. Các mâu thuẫn xã hội ngày càng
trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong
kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc

4


Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá
trình cách mạng của nhân dân ta. Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí
Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa
xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi"
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản
xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hố, giai cấp cơng nhân ra đời
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến
bộ nhất định trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì
bản thân giai cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế
quốc Pháp để duy trì quyền lợi của bản thân, một bộ phận khơng ít tiếp tục truyền
thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế
quốc Pháp xâm lược, khôi phục triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh
tụ của phong trào quần chúng nông dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa
chống lại triều đình bán nước. Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư
bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành
hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh
tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có mâu
thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu
ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản
dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ
khơng có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy
trong điều kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và
thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự

do, dân chủ, nên cũng bị phân hố. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ
được khí tiết dù ở hồn cảnh nào cũng khơng ngi lịng cứu nước. Khi có điều kiện,
những trí thức u nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là
ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và
phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một lực lượng

5


đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải
phóng và khơng thể đóng vai trị lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX,
khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại và thành phố phục
vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
(1914-1918), giai cấp cơng nhân cịn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ cịn thấp. Qua
thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng cơng nhân chun
nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong các
hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô sản sống ở thành thị và
nông thôn, thì đội qn vơ sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến hàng triệu người.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và
các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột
của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nơng dân. Đó là cơ sở
khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra
đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng.
3. Giai đoạn khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc
Năm 1958, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ tấn cơng Sài Gịn, sau đó mở
rộng xâm lược Đại Nam. Đầu tiên tại vùng Đơng Nam Bộ, sau đó củng cố vị trí tại

Nam Kỳ và xâm chiếm miền toàn bộ miền Bắc hậu chiến tranh Pháp - Thanh. Chính
phủ Pháp sau đó tun bố bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đồng thời duy trì chính
quyền phong kiến bù nhìn cho tới thời vua Bảo Đại. Đại Nam chính thức mất đi độc
lập, trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến và bị chia cắt thành 3 miền
sau khi nhà Nguyễn kí Hịa ước Giáp Thân năm 1884. Tuy vậy, phái chủ chiến trên
khắp cả nước tại triều đình và địa phương vẫn mưu khôi phục, xây dựng lực lượng
nhằm lấy lại độc lập.
Sự chia rẽ giai cấp và mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc, giữa địa
chủ và phong kiến, giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa
nổ ra khắp nơi theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản trong suốt những
năm tiếp theo. Một số phong trào lớn có thể kể tới như: Phong trào Cần Vương
(1885-1896) nhằm khôi phục ngôi vua, khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884-1913),
phong trào Đông Du (1906-1908) theo thiên hướng bạo động, phong trào Duy Tân
(1906-1908) theo thiên hướng cải lương, phong trào Đơng Kinh Nghĩa Thục nhằm
nâng cao dân trí, các phong trào yêu nước dân chủ công khai, phong trào chống sưu
thuế Trung Kỳ, phong trào cách mạng quốc gia tư sản, phong trào quốc gia cải
lương của tầng lớp tiểu tư sản thành thị và địa chủ lớp trên.
6


Phong trào Cần Vương dần bị đàn áp bởi ưu thế về hoả lực của Pháp do các
cuộc khởi nghĩa diễn ra ở các vùng đồng bằng (Ba Đình, Nghệ An, Bình Định, Thái
Bình,..). Sau các thất bại liên tiếp, vua Hàm Nghi bị bắt năm 1888, Tống Duy Tân
bị bắt năm 1892, căn cứ tại Bãi Sậy tan rã, Đốc Ngữ bị sát hại tại vùng núi phía Bắc,
Phan Đình Phùng hi sinh năm 1895, phong trào Cần Vương suy yếu và tan rã, trở
thành phong trào giải phóng dân tộc theo ý thức hệ phong kiến cuối cùng của Việt
Nam.
Trong giai đoạn 1858 - trước 1930, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh chống
Pháp anh dũng, bất khuất đã nổ ra nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại, các
lãnh đạo bị xử chém. Tồn tại ở nhiều hình thức, tư tưởng, mục đích khác nhau tuy

nhiên điểm chung là chúng chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt
Nam trong thời đại. Cách mạng nước ta đứng trước khủng hoảng, bế tắc đường lối
nghiêm trọng và yêu cầu cấp thiết là tìm được một đường lối đấu tranh đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn bấy giờ.

II.

Các phong trào yêu nước

1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Ngay từ cuối thế kỷ XIX , khi triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hiệp ước
Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884) đầu hàng thực dân Pháp song phong trào
chống thực dân Pháp vẫn diễn ra mạnh mẽ, tiêu biểu nhất là phong trào Cần Vương
(1885-1896) - một phong trào đấu tranh vũ trang do vua Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết phát động, phong trào chia làm hai giai đoạn :
Giai đoạn một (1885-1888): Đây là giai đoạn phong trào Cần Vương đặt dưới
sự chỉ huy tương đối thống nhất của triều đình . Mở đầu là các cuộc nổi dậy của Văn
Thân Nghệ An và Hà Tĩnh và sau đó liên tục các cuộc nổi dậy ở Quảng Bình, Quảng
Trị, Thanh Hố, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú n, Khánh Hồ, Thái Bình, Nam
Định… nên thời kỳ này phong trào nổ ra rầm rộ tại các tỉnh Bắc và Trung Bộ. Khi
vua Hàm Nghi bị bắt ngày 1/11/1888, phong trào vẫn tiếp tục kéo dài đến thế kỷ XIX
và có xu hướng ngày càng đi vào chiều sâu.
Giai đoạn hai (1888-1896): Phong trào Cần Vương khơng cịn đặt dưới sự lãnh
đạo của triều đình kháng chiến nữa, nhưng vẫn tiếp tục được duy trì và quy tụ xung
quanh những cuộc khởi nghĩa lớn như: Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887) do Đốc học
7


Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo, dựa vào địa thế của ba làng Mở Thịnh,
Thượng Thọ, Mã Khê, nghĩa quân đã xây dựng Ba Đình thành một cứ điểm kháng

Pháp kiên cố. Nghĩa quân Ba Đình với tinh thần chiến đấu quả cảm, quyết tâm cao và
sự giúp đỡ của nhân dân đã đánh lui nhiều đợt tấn cơng của địch, tiêu diệt hàng trăm
tên. Ngồi việc xây dựng và bảo vệ căn cứ, nghĩa quân Ba Đình cịn tổ chức các cuộc
phục kích, chặn đánh các đồn xe địch và tập kích tiêu diệt các tốn qn của giặc đi
lẻ. Trước sự phát triển lớn mạnh của nghĩa quân, thực dân Pháp đã huy động một lực
lượng lớn quân lính đàn áp nghĩa quân. Tuy chiến đấu dũng cảm nhưng do lực lượng
quá chênh lệch, cuối cùng khởi nghĩa đã thất bại, căn cứ Ba Đình vỡ, một bộ phận
nghĩa quân rút lên rừng núi gia nhập các toán nghĩa binh khác.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập cho lịch sử đặt ra và từ đây phong
trào cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.
2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Đầu thế kỷ XIX, châu Á thức tỉnh: Phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, ấn Độ…mang
một nội dung mới đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc kết hợp với đấu tranh giành
quyền dân chủ ở nước ta vào những năm đầu thế kỷ XX. Trước những yêu cầu mới
của lịch sử, những phần tử ưu tú trong trong hàng ngũ trí thức phong kiến đã nhận
thấy “quan niệm trung quân ái quốc” thời kỳ Cần Vương khơng có tác dụng tập hợp
nhân dân nữa đúng lúc đó, các tân thư, tân báo của Trung Quốc dội vào nước ta, đáng
kể nhất là các tác phẩm, ẩm băng Thất, Trung Quốc hồn, Mậu Tuất chính biến, Tân
dần tuần báo…của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cũng giới thiệu những tư
tưởng dân chủ tư sản của phương tây. Dưới lăng kính của tư tưởng lập hiến, các trào
lưu tư tưởng đó đã cổ vũ, hướng họ theo lý tưởng của cuộc cách mạng Pháp năm
1789, cuộc vận động Duy Tân năm 1898 và cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở
Trung Quốc, giúp họ đoạn tuyệt những tư tưởng quân chủ lập hiến chuyển sang tư
tưởng cộng hồ. Mặt khác, cơng cuộc xây dựng đất nước thành công của tư bản Nhật
càng củng cố niềm tin của các sỹ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các phong trào: Phan Bội Châu, phong trào Đông
Du và phong trào Duy Tân.
Với quan điểm “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ngay từ đầu Phan Bội Châu

đã kiên trì giành độc lập bằng con đường bạo lực. Vì vậy, từ đầu thế kỷ XX, ơng đã
chuẩn bị công cuộc bạo động đánh Pháp. Tuy nhiên, như ông nói: “Là một người
trong tay khơng có một miếng sắt , trên mặt đất khơng có lấy một chỗ đứng chân,
chẳng qua chỉ là một thằng tay không chân trắng , tài hèn sức yếu, mà lại đòi vật lộn
8


với hùm beo có nanh dài vuốt nhọn” và: “ Đến nỗi này tôi không thể nào không sang
con đường bạo động. Vẫn biết bạo động với tự sát đều là việc làm của những kẻ kiến
thức hẹp hịi, khơng biết lo xa, nhưng nếu tình thế buộc phải tự sát thì thà rằng xoay
ra bạo động, thà chết cịn hơn. Nếu bạo động thì may ra trơng được có chỗ thành
cơng trong mn một. Huống gì tơi đã suy đi tính lại, lúc này bỏ sự bạo động ra thì
khơng cịn việc gì đáng làm nữa”. Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên
ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà
nước theo mơ hình qn chủ lập hiến của Nhật. Vào tháng 5/1904, Phan Bội Châu,
Cường Để và trên hai mươi đồng chí họp tại nhà riêng của ơng.
Nguyễn Hàm bí mật lập ra Duy Tân hội, mục đích của hội là “cốt sao khơi
phục được nước Việt Nam, ngồi ra chưa có chủ trương gì khác”. Ơng tổ chức
phong trào Đơng Du (1906-1908), tức phong trào đi du học ở phương tây và ông cho
rằng nên cầu viện Nhật Bản là nước đồng Văn, đồng chủng. Những người du học
sinh được đào tạo về văn hố và qn sự cần thiết cho cơng cuộc đánh Pháp cứu
nước và kiến thiết đất nước. Phong trào Đông Du ngày càng lớn mạnh, thực dân Pháp
một mặt tiến hành khủng bố, mặt khác tiến hành cấu kết với Nhật trục xuất những
người yêu nước Việt Nam ra khỏi nước Nhật trong đó có cả Phan Bội Châu. Phan
Bội Châu nhận thấy được bản chất của chủ nghĩa thực dân chúng đều như nhau, đều
đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân. Chủ trương dựa vào Nhật đánh Pháp
không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời cơ. Giữa lúc đó cách mạng Tân Hợi bùng nổ
và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam quang phục hội (1912) với
ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải
phóng dân tộc nhưng cuối cùng cũng thất bại.

Phong trào Duy Tân (1906-1908), được Phan Chu Trinh và một số sĩ phu yêu
nước chủ trương tiến hành trong lúc phong trào Đông Du, những hoạt động của Duy
Tân Hội diễn ra sôi nổi. Phan Chu Trinh kịch liệt lên án bọn vua quan phong kiến
thối nát, tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ Tư Sản với các yêu cầu, “khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”, hơ hào mở mang trường học, phát triển công thương
nghiệp, cải cách phong tục, chống lề thói phong kiến cổ hủ, xem đó là điều kiện để
giải phóng dân tộc: “Khơng cần hô hào để đánh Pháp chỉ cần đề xướng dân quyền ,
dân đã giác ngộ quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần mưu tính những việc
khác"
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã
diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức
đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư
sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất
nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên khơng đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự
9


nghiệp giải phóng dân tộc, chưa có đường lối chính trị rõ ràng và một hình thức tổ
chức chặt chẽ.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm
chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước,
nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp
cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân
Việt Nam. Từ đây, ngọn cờ lãnh đạo cách mạng chuyển sang giai cấp vô sản. Cách
mạng Việt Nam bắt đầu một quá trình phát triển mới về chất.
3. Phong trào cách mạng theo khuynh hướng cách mạng vô sản
Cách mạng vô sản được định nghĩa là cuộc cách mạng xã hội, với đối tượng
tham gia chính là giai cấp công nhân với mục tiêu là cố gắng lật đổ giai cấp tư sản áp
bức bóc lột. Có nhiều quan điểm liên quan đến việc lãnh đạo phong trào cách mạng,

như được dẫn dắt bởi những người tiên phong chuyên nghiệp (Lenin), hay bởi toàn
bộ lực lượng đơng đảo giai cấp cơng nhân (Rosa Luxemburg). Ở góc nhìn của
Alexander Berkman, ơng cho rằng một cuộc cách mạng thành cơng cần phải thay đổi
sâu rộng “tính cách xã hội”, loại bỏ quyền lực đàn áp của một giai cấp với những
giai cấp khác.
Tại Việt Nam, trước khi Đảng ra đời năm 1930, nhiều phong trào quy mô đã
nổ ra trên khắp cả nước dưới nhiều hình thức và lãnh đạo khác nhau, song đều chưa
thành công.
a. Giai đoạn tự phát (1919-1925)
Sau khởi đầu quá trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp tại
Việt Nam, giai cấp công nhân đã ra đời và dần tăng về số lượng kể từ sau chiến tranh
thế giới thứ Nhất. Các phong trào công nhân thường rải rác ở cấp quy mô nhỏ hẹp do
sự yếu thế của giai cấp công nhân và thiếu sự lãnh đạo dẫn dắt chủ trương: cuộc bãi
công của công nhân viên chức ở các cơ sở tư nhân (1922), bãi công nổ ra tại các
nhà máy (1924), các thợ máy tại xưởng đóng tàu Pháp đã tổ chức bãi công, không
sửa chữa chiến hạm tại cảng Ba Son (1925)...
Phong trào công nhân đã phát triển dần về thời gian, hình thức, số lượng
tham gia bãi cơng, tuy vẫn cịn nhiều hạn chế. Hầu hết các phong trào đều diễn ra tự
phát, tập trung chủ yếu vào vấn đề kinh tế mà chưa ý thức được sứ mệnh giải phóng
áp bức. Chỉ có duy nhất cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son 8/1925 là có yếu tố
lãnh đạo, tổ chức.
b. Giai đoạn tự giác (1926-1929)
Sau năm 1925, nhờ những điều kiện thuận lợi đã thúc đẩy phong trào cách
mạng Việt Nam nói chung và phong trào cơng nhân nói riêng
10


Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc cùng 9 thành viên ưu tú của Tâm Tâm xã
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Cũng trong năm đó, Hội Phục
Việt được lập ra bởi một số cựu tù chính trị và một nhóm sinh viên trường Cao

đẳng sư phạm Hà Nội.
Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (17/6-18/7/1924) Nguyễn Ái Quốc đã
nêu lên tầm quan trọng của nhân dân thuộc địa châu Á, châu Phi đối với cách mạng
vô sản. Đại hội đã ban hành các nghị quyết quan trọng góp phần lớn trong các
phong trào cách mạng dân tộc trên toàn thế giới.
Ởtrong nước, nhờ vào tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (06/1925),
báo Thanh Niên, tác phẩm “Đường Kách Mệnh” và phong trào “Vô sản hóa”
(1925-1929), lý luận cách mạng Chủ nghĩa Mác Lênin đã được truyền bá rộng rãi ở
nước ta
Thời kì này có nhiều sự kiện mang tính đột phá như: 20 cuộc bãi công của
công nhân đã nổ ra sau lễ tang của Phan Châu Trinh (1926), phong trào yêu nước
theo khuynh hướng vô sản nở rộ khắp cả nước với 27 cuộc đấu tranh (1926-1927),
xây dựng lực lượng dồi dào cho phong trào cách mạng vô sản (1928), khuynh
hướng vô sản bùng nổ ngày càng mạnh mẽ, với khoảng 40 cuộc đấu tranh có quy
mơ và chất lượng đã nổ ra ở các trung tâm kinh tế từ Bắc vào Nam (1928-1929)
Hình thức đấu tranh ở giai đoạn này chủ yếu là bãi cơng, mục đích đấu tranh
về cả kinh tế và chính trị. Quy mơ rộng khắp cả nước, có sự lãnh đạo tại nhiều nhà
máy, xí nghiệp bởi các Đảng và đồn kết của quần chúng nhân dân. Cơng hội Nam
Kỳ tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đã liên hệ với Tổng liên đoàn Lao động Pháp. Bên
cạnh đó, các phong trào kết hợp chặt chẽ các khẩu hiệu kinh tế và chính trị, liên kết
với cơng nhân từ nhiều nhà máy thuộc những ngành kinh tế khác nhau.
Từ đó, sức mạnh của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản tiếp
tục được củng cố và phát huy mạnh mẽ. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng
giác ngộ tư tưởng chính trị, phát triển cuộc đấu tranh có tổ chức, đi từ tự phát tới tự
giác, có sức quy tụ và dẫn dắt sâu rộng trên cả nước.
c. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì người thanh
niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới, du
hành gần ba mươi năm qua 3 đại dương, 4 châu lục, gần 30 quốc gia. Người đến những

nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ người đã nghiên cứu tìm tịi
phát hiện ra một chân lý chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của
mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các
nước thuộc địa. Nơi đâu có người nghèo như ở xứ mình,
11


họ đều bị bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người cũng đã nghiên cứu,
xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789). Năm 1917,
Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. Tại đây, Người đã được tiếp nhận những
thông tin đầu tiên về Cách mạng Tháng Mười Nga sau khi giành thắng lợi. Từ chỗ
chưa biết V.I.Lenin là ai, thậm chí cịn khơng biết nước Nga ở đâu, dần dần Người
nhận ra rằng trên thế giới đã xảy ra một sự kiện lớn lao chưa từng có: Một dân tộc đã
lật đổ bọn áp bức bóc lột mình, tự tổ chức quản lý mọi công việc đất nước, không
cần bọn chủ và bọn toàn quyền.
Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam,
giành độc lập tự do cho tổ quốc là con đường tiến hành cuộc cách mạng vô sản do
Đảng cộng sản đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo. Khi nhắc đến luận
điểm này Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
người cho rằng giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay là lật đổ áp bức bóc lột
xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Tuy giai cấp cơng nhân Việt Nam mặc dù ít
về số lượng, trình độ văn hố khoa học cịn thấp nhưng vẫn là giai cấp cách mạng
nhất. Trong xu thế thời đại mà đặc biệt là thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười
Nga họ có đủ khả năng để hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thơng
qua chính Đảng của mình.
Thơng qua việc truyền bá chủ nghĩa Marx - Lenin vào Việt Nam, chuẩn bị tiền
đề sáng lập Đảng Cộng Sản sau này, Người đã chỉ rõ con đường, mục tiêu phương
hướng cũng như phương pháp cách mạng mà giai cấp công nhân phải tiến hành
thông qua luận điểm sau:
● Kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam là thực dân Pháp và tay sai bù nhìn.

Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thế giới.
● Xác định vị trí của cuộc cách mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vơ
sản. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách
mạng vô sản. Trong điều kiện của Việt Nam, phải do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
● Người cho rằng cách mạng ở chính quốc và cách mạng thuộc có mốc quan hệ
với nhau, bố trí cho nhau và đặc biệt nhấn mạnh ở luận điểm cách mạng thuộc
địa có khả năng thắng lợi mạnh ở luận điểm cách mạng chính quốc bởi người
thấy được vai trò quan trọng của các nước thuộc địa, nhìn thấy được sức
mạnh của dân: truyền thống lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.
● Phương hướng cách mạng thuộc địa: đầu tiên là tiến hành giải phóng dân tộc,
tiếp theo là giải phóng giai cấp và cuối cùng là giải phóng con người. Chúng
ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
12


mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn
ít người.
● Lực lượng làm nhiệm vụ đáng đế chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) là liên minh
cơng - nơng - trí thức, coi cơng nhân là động lực chính là gốc của cách
mạng, trong đó công nhân nắm quyền lãnh đạo, dựa trên lực lượng đại đồn
kết dân tộc.
● Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.
● Phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng tức là sự kết hợp
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
● Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới và tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Trên cơ sở tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh và sự hoạt động cách mạng không
hết mệt mỏi của Người để truyền bá chủ nghĩa Marx - Lenin vào Việt Nam, ba tổ chức

cộng sản đầu tiên ở Việt Nam đã lần lượt ra đời: Đông Dương cộng sản đảng, An Nam
cộng sản đảng, Đơng Dương cộng sản liên đồn, cả ba tổ chức cộng sản này đều lấy chủ
nghĩa Marx - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng lý luận. Song sự tồn tại ba
Đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn, yêu cầu mới đặt ra là phải thống nhất
ba tổ chức đảng thành một chính Đảng duy nhất. Dưới sự chỉ đạo của quốc tế cộng sản
Nguyễn ái Quốc với vai trị và uy tín của mình là đứng ra triệu tập hội nghị hợp nhất ba
đảng và ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam với nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của lịch sử, đánh dấu sự thay đổi căn
bản trong đường lối cách mạng Việt Nam. Nó là sự kết hợp của chủ nghĩa Marx Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Việt Nam, thúc đẩy sự
lớn mạnh của cách mạng Việt Nam bởi vì đây là sự kết hợp của một đường lối chính
trị đúng đắn với một lực lượng cách mạng hùng hậu, có đủ bản chất của giai cấp tiên
phong gánh vác trách nhiệm lịch sử dân tộc. Sau khi Đảng được thành lập, cao trào
cách mạng nổ ra mạnh mẽ ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mà đỉnh cao là
phong trào xô viết Nghệ tĩnh 30 - 31 đánh dấu bước tiến mới của cách mạng Việt
Nam, mở đầu cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 - 1945 với sự ra
đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước công - nông đầu tiên ở
Đông Nam Á
4. Phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì người
thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng
13


mới gần ba mươi năm bôn ba khắp các châu lục. Người đến những nước thuộc địa và
những nước đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ người đã nghiên cứu tìm tòi phát hiện ra
một chân lý chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau
khổ của giai cấp công nhân với nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước
thuộc địa. Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng tháng mười, đề cương về vấn đề dân

tộc thuộc địa của Lênin và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng cộng sản
Pháp... chủ nghĩa Mác - Lênin chân lý cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng
định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người xác định con đường giải
phóng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, giành độc lập tự do cho tổ quốc là con
đường tiến hành cuộc cách mạng vô sản do Đảng cộng sản đội tiên phong của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
Khi nhắc đến luận điểm này Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, người cho rằng giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay là
lật đổ áp bức bóc lột xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Tuy giai cấp cơng nhân
Việt Nam mặc dù ít về số lượng, trình độ văn hố khoa học cịn thấp nhưng vẫn là
giai cấp cách mạng nhất. Trong xu thế thời đại mà đặc biệt là thắng lợi vĩ đại của
cách mạng tháng Mười Nga họ có đủ khả năng để hồn thành sứ mệnh lịch sử của
giai cấp cơng nhân thơng qua chính Đảng của mình. Thơng qua việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Trên cơ sở tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh và sự hoạt động cách mạng
không hết mệt mỏi của Người để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, ba
tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam đã lần lượt ra đời: Đông Dương cộng sản đảng,
An Nam cộng sản đảng, Đơng Dương cộng sản liên đồn, cả ba tổ chức cộng sản này
đều lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng lý luận. Song
sự tồn tại ba Đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn, yêu cầu mới đặt ra là
phải thống nhất ba tổ chức đảng thành một chính Đảng duy nhất.
Dưới sự chỉ đạo của quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc với vai trị và uy tín
của mình là đứng ra triệu tập hội nghị hợp nhất ba đảng và ngày 3/2/1930 Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam với nền tảng lý luận là
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của lịch sử, đánh dấu
sự thay đổi căn bản trong đường lối cách mạng Việt Nam. Nó là sự kết hợp của chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Việt Nam,
thúc đẩy sự lớn mạnh của cách mạng Việt Nam bởi vì đây là sự kết hợp của một
đường lối chính trị đúng đắn với một lực lượng cách mạng hùng hậu, có đủ bản chất
của giai cấp tiên phong gánh vác trách nhiệm lịch sử dân tộc. Sau khi Đảng được

thành lập, cao trào cách mạng nổ ra mạnh mẽ ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mà đỉnh cao là phong trào xô viết Nghệ Tĩnh 30 - 31 đánh dấu bước tiến mới của
14


cách mạng Việt Nam, mở đầu cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 1945 với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước công - nông
đầu tiên ở Đông Nam Á.
5. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
a. Nguyên nhân khách quan:
● Cuộc đấu tranh của ta nằm trong tình thế bị động, nên Pháp đã dập
tắt nhanh chóng.
● Lực lượng ta và địch khơng cân xứng, ta đấu tranh khi địch vẫn
cịn mạnh, địch có trang vũ khí hiện đại hơn ta.
● Khuynh hướng phong kiến đã lỗi thời, bế tắc về đường lối đấu tranh.
b. Nguyên nhân chủ quan:
● Các phong trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn chế về
giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa
tập hợp được rộng rãi các lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp
được 2 lực lượng cơ bản công nhân và nông dân cho nên thất bại.
● Ta gặp phải sai lầm trong quá trình đấu tranh yêu câu người Pháp thực
hiện cải lương, phản đối chiến tranh và cầu viện nước ngoài.Những
cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các phong trào mang tính tự phát,
trong nội bộ chia rẽ
● Ta chưa tập hợp được sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy được
khả năng lãnh đạo của giai cấp công nhân và chưa đồn kết được họ
● Chưa có chính Đảng lãnh đạo. (Các phong trào thất bại như: Phong trào
Cần Vương, cuộc khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Đông du, Duy tân)

III.


Bài học thực tiễn và thành công sau này

Từ bài học lịch sử của cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, cho thấy ý
nghĩa to lớn, quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc khơi dậy và phát
huy truyền thống yêu nước, thực hiện đánh giặc “toàn dân”, “toàn diện”. Một trong
những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 chính là do triều đình
nhà Nguyễn đã khơng quy tụ và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, truyền thống
yêu nước của nhân dân. xây dựng được khối đại đồn kết tồn dân tộc vững chắc, từ đó
phát huy cao độ lịng u nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất
khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức
mạnh tổng hợp đó, quân và dân ta đã vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách. Vì vậy,
điều tiên quyết để có thể giành lại được tự do chính là xây dựng được khối đại đoàn kết
toàn dân tộc vững chắc, từ đó phát huy cao độ lịng u
15


nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn
quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, từ đó quân dân ta mới có thể vượt
qua mn vàn khó khăn, thử thách. Bên cạnh đó, những cuộc kháng chiến cuối thế
kỷ 19 cũng đã để lại những bài học quý giá cho chúng ta về việc khơng nên tư duy
theo lối mịn, mỗi người đều nên cố gắng tìm những con đường của chính họ, từ đó
có được những bài học riêng cho bản thân. Việc dựa dẫm vào người khác luôn là một
lựa chọn khơng sáng suốt, vì vậy việc cố gắng phát triển bản thân, chịu trách nhiệm
cho lựa chọn của bản thân là điều chúng ta nên cố gắng học hỏi.
Và sau này, nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà từ đó Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương
Cảng, Trung Quốc đã được tổ chức từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930, từ đó đã
quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự

kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, giải
quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, trở thành giai cấp lãnh
đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển
mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp
lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành
động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn từ đó giành lại
được độc lập sau này.

16


Phần kết luận
Qua quá trình tìm hiểu đã chỉ ra được sự cố gắng, nỗ lực cũng như tinh thần
yêu nước bất khuất ngàn đời của dân tộc ta. Dù cho có phải đối mặt với sự chênh
lệch lực lượng, vũ khí, hay chiến thuật qn sự, cha ơng ta khơng bỏ cuộc, thể hiện
truyền thống u nước và khí phách anh hùng của dân tộc, tiêu biểu cho cuộc kháng
chiến tự vệ của nhân dân ta cuối thế kỉ XIX. Tuy rằng các cuộc khởi nghĩa đều đi đến
thất bại do sự khác biệt quá lớn về lực lượng cũng như vũ khí, cũng như Các phong
trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn chế về giai cấp, về đường lối
chính trị, cũng như chưa tập hợp được hai lực lượng cơ bản công nhân và nơng dân,
nhưng cũng nhờ vào chính những cuộc khởi nghĩa này đã tiếp thêm tinh thần cho
nhân dân, trở thành bài học quý giá để sau này Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã thành cơng
trong việc tạo nên một chính Đảng duy nhất, từ đó đánh đổ được ách xâm lược của
thực dân Pháp, dành lại được độc lập, chính quyền cho người dân Việt Nam.
Đồng thời, q trình lịch sử đánh đuổi ngoại xâm, gìn giữ dân tộc, nước nhà
đã khẳng định tầm quan trọng, vai trị khơng thể thay thế của Đảng. Đảng là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị Việt Nam. Đảng chính là nhân tố chủ
chốt, quyết định mọi thắng lợi và mọi đường lối đúng đắn để phát triển đất nước.
Là những sinh viên của trường Đại học Ngoại Thương, chúng tơi cần cố gắng

học tập, rèn luyện tích cực tham gia tuyên truyền về Đảng, bài trừ các yếu tố chống
Đảng cực đoan để góp phần nâng cao vị thế của Đảng, đẩy mạnh quá trình phát
triển của đất nước.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
(Dành cho bậc đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Hà Nội, Nxb
Chính Trị Quốc gia Sự thật, 2021
- Triệu Quang Xuyên, Đảng Cộng Sản Việt Nam - nhân tố hàng đầu quyết
định mọi thắng lợi, Hà Nội, Báo Bảo vệ pháp luật, 2022
- Nhiều tác giả (2010) Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam (1885–
1945). Wikipedia.
- Nguyễn Thị Thanh (2021) Lịch sử ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Cổng thông tin điện tử phường Cự Khối.
- Cách mạng vô sản (2010). Wikipedia.

18


MỤC LỤC
Phụ lục……………………………………………………………………………....1
Phần mở đầu..………………………………………………………………………2
Phần nội dung………………………………………………………………………3
I. Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng ra đời…………………………………….3
1. Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc
địa…………………………………………………………………………….3
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hố, giai cấp cơng nhân ra

đời………………………………………………………………………...….4
3. Giai đoạn khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc………………...….5
II. Các phong trào yêu nước…………………………………………………...6
1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến……………………….6
2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản………………....….......…...7
3. Phong trào cách mạng theo khuynh hướng cách mạng vô sản…………..9
a. Giai đoạn tự phát (1919-1925).....................................................................................................9
b. Giai đoạn tự giác (1926-1929).....................................................................................................10
c. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam....………………………………...10
4. Phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản….……....…..12
5. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX………………………………………………………...14
III.
Bài học thực tiễn và thành công sau này………………………………….14
Phần kết luận………………………………………………………...……....….....16
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………...17
-

19



×