Đại học Huế
Trường đại học sư phạm
Tiểu luận:
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tên: Nguyễn Thị Luận
Số ĐT: 0336921115
Người hướng dẫn:
Ths. Lê Thị Minh Trâm
HUẾ, năm 2019.
2
Mục lục
A.Mở Đầu
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Lý do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Kết cấu đề tài.
Chương 1: Hoàn cảnh Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước và gặp chủ nghĩa Mác – Lê Nin (1911-1920).
1.
2.
3.
4.
Bối cảnh xã hội trong nước và thế giới.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Từ năm 1917 đến tháng 2 năm 1920: Gặp chủ nghĩa MácLê Nin và xác định được con đường cứu nước cho dân
tộc: con đường cách mạng vô sản.
Bước chuyển trở thành người cộng sản (12-1920).
Chương 2: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị chuẩn bị Chu đáo cho sự
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930).
1.
2.
3.
Về chính trị.
Về tư tưởng.
Về tổ chức.
Chương 3: Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.
1.
2.
3.
Các tổ chức cộng sản ra đời.
Hội nghị thành lập Đảng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
B.Nội Dung
C.Kết Luận
D.Tài Liệu Tham Khảo
A.Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Học thiết Mác-Lê Nin về Đảng Cộng sản đã trải qua quá trình
hình thành và phát triển với thuộc tính cơ bản là tính cách mạng và tính
khoa học, đòi hỏi những người cộng sản phải nắm vững và quán triệt
trong thực tiễn, đồng thời phải biết vận dụng sáng tạo phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể của dân tộc mình như điều kiện mà Lê nin chỉ dẫn:
“chúng ta không thể coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi và
bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người chủ nghĩa xã hội cần phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”.
Nguyễn Ái Quốc là một trong số mẫu người cộng sản như thế.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã quán triệt sâu sắc lời chỉ
dẫn trên của Lê Nin và có nhiều sáng tạo độc đáo. Trong chiến lược cách
mạng của Người, quan điểm xây dựng Đảng Cộng sản ở một số nước
thuộc địa để lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là quan
điểm cực kỳ quan trọng. Quan điểm đó được hình thành từ khi Người
đến với chủ nghĩa Mác–Lê Nin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc ta. Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, từ người yêu nước trở thành chiến sỹ cộng sản, Người tự
nguyện phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Hoạt động trong
phong trào cộng sản quốc tế và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc
sớm nhận thức được vấn đề quan trọng đầu tiên của cách mạng: sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi cho sự nghiệp
của cách mạng. Vì vậy, vấn đề thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam
được đề ra, được Người thực hiện một cách khoa học và sáng tạo. Hoàn
cảnh lịch sử, xã hội việt Nam với đặc điểm của nó đặc ra cho việc thành
lập Đảng Cộng sản dù về bản chất không có khác bất cứ Đảng Cộng sản
nào, không phải là việc đơn giản, không thể rập khuôn mấy móc, mà đòi
hỏi sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam – một nước
thuộc địa, nửa phong kiến, đa số là nông dân, còn giai cấp công nhân thì
ít. Trên cơ sở thấm nhuần học thuyết Mác-Lê Nin về xây dựng Đảng
Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo và tiến hành
xây dựng thành công Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Đảng
là do Người sáng lập, là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê Nin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, đồng thời đề ra
được Cương lĩnh cách mạng đúng đắn ngay từ đầu. Những sáng tạo của
Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng ở một nước thuộc địa đã
được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ
XX đã kiểm chứng và chứng minh là đúng đắn và khoa học. Đó là một
cống hiến quan trong của Người vào kho tàng lý luận Mác–Lê Nin về
xây dựng Đảng kiểu mới ở một nước thuộc địa – một lĩnh vực quan
trọng thuộc chiến lược cách mạng.
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Nguyễn
Ái Quốc(Hồ Chí Minh) sáng lập và rèn luyện, đã giành được thắng lợi
và tạo nên kỳ tích trong thế kỷ XX. Cũng từ thực tiễn lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta trở thành người lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam,
được toàn thể dân tộc coi là Đảng của mình. Gần 30 năm Đảng lãnh đạo
công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu rất quan trọng. Hiện
nay, tiếp tục công cuộc đổi mới CNH-HĐH đất nước, phấn đấu vì mục
tiêu đân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đòi hỏi
Đảng ta phải thường xuyên đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực sức
chiến đấu của Đang là nhiệm vụ then chốt – nhiêm vụ sống còn của sự
nghiệp cách mạng của đảng và của đân tộc ta. Việc nghiên cứu những
sáng tạo, cống hiến của Nguyễn Ái Quốc trên con đường sáng lập Đảng
để vận dụng vào giai đoạn cách mạng hiện nay là việc rất cần thiết, vừa
có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa lý luận. Vì những lý do trên tôi chọn
đề tài “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Công
sản Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ quá trình tìm ra con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
và vai trò của Người đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng như những công lao to lớn của Người với sự hình thành, phát triển
của Đảng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nêu được bối cảnh lịch sử quốc tế và trong nước khi Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Trình bày được công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với việc tìm ra
con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam (1911-1920).
Nghiên cứu sự chuẩn bị chu đáo của Nguyễn Ái Quốc về mặc
chính trị, về tổ chức, về tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: là vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Ở Châu Âu.
Về thời gian: Từ ngày 5-6-1911 đến ngày 28-1-1941 sau 30
năm Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp của hai
phương pháp. Ngoài ra còn có phương pháp phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh, đối chiếu, khái quát.
B.Nội Dung
Chương 1: Hoàn cảnh Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
và tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc (1911-1920).
1.
Bối cảnh xã hội trong nước và thế giới.
Vào giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
thống trị ở Anh, Đức, Pháp và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước
này, giai cấp tư sản tăng cường áp bức bóc lột giai cấp công nhân, và
cũng tại đây phong trào công nhân phát triển từ “tự phát sang tự giác”
khiến cho mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ
nghĩa tư bản đòi hỏi phải có lý luận tiên phong chỉ đường. Để đáp ứng
đòi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên ngôn Đảng cộng sản. Lý
luận của chủ nghĩa Mác khẳng định quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư
bản, nhường bước cho xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa, đồng thời
chỉ rõ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa
và đã căn bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách áp bức thực
dân ở khắp các nước Á, Phi và Mỹ La tinh. Thế giới bị chia cắt làm hai:
một khu vực gồm các nước công nghiệp phát triển, thường được gọi là
phương Tây và khu vực còn lại là bao gồm các nước thuộc địa, thường
được gọi là phương Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa là làm
thế nào để được giải phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa vói chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Nó trở
thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với
phong trào cách mạng ở chính quốc.
Sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra dồn dập, báo
trước bước chuyển biến trong tình hình quốc tế. Cuộc xung đột, tranh
giành quyền lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1914 - 1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ
nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc,
Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ... bão táp cách mạng với “Phương Đông thức
tỉnh” là nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này.
Trong bối cảnh đấy, Lê nin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục
phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý
luận cách mạng vô sản có thể thành công ở một số nước, thậm chí trong
một nước tư bản phát triển trung bình; đồng thời nêu lên nguyên lý về
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô
sản ở các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc chung. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lê
Nin là đúng với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917 dưới sự lãnh đạo của Người. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao
đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa.
Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng bị chi phối bởi
những điều kiện lịch sử đó. Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm. Ý
thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ
ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên và giặc ngoại xâm trong hàng
nghìn năm lịch sử đã hung đúc cho dân tộc Việt Nam những truyền
thống tốt đẹp: yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất,
đoàn kết thống nhất...Dân tộc Việt Nam không ngừng giữ gìn và phát
huy truyền thống tốt đẹp đó.
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm
lược nước ta, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Việt
Nam. Dưới chế độ khai thác, bóc lột và thống trị của thực dân Pháp, xã
hội Việt Nam có nhiều biến đổi. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
dưới hình thức thực dân du nhập vào và quan hệ bóc lột phong kiến
được duy trì. Cơ cấu giai cấp xã hội thay đổi: giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai cấp cũ, rồi kéo
theo sự thay đổi về ý thức xã hội và đời sống. Cùng thời điểm đó, các
trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản dồn dập du nhập vào nước ta: tư tưởng
của Cách mạng Nga 1905 dưới tác động của nước Nhật duy tân, chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của
Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, tư tưởng của cách mạng Pháp...Dưới
ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng trên, phong trào yêu nước Việt Nam
chuyển sang khuynh hướng mới mà ta thường gọi là cuộc vận động dân
tộc dân chủ tư sản mà tiêu biểu là phong trào Đông Du của Phan Bội
Châu, Đông Kinh nghĩa thục của Lương Văn Can, cải cách dân chủ của
Phan Chu Trinh...sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào nối
tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp man rợ của thực dân Pháp.
Trước bối cảnh quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân tộc
là yêu cầu căn bản của xã hội Việt Nam, là nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam, là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, đến đầu thế kỷ
XX, ở Việt Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải
phóng dân tộc. Cách mạng Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như
không có đường ra”.
Vượt qua sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc đó,
vượt lên những hạn chế của sĩ phu yêu nước đương thời, bằng thiên tài
trí tuệ, bằng cuộc khảo sát khắp thế giới trong thập niên thứ hai của thế
kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 – 5 – 1890 tại làng Hoàng Trù, nay
thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình
nhà nho yêu nước. Cha của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
(1862 - 1929), quê làng Sen, xã Kim Liên, mẹ là bà Hoàng Thị Loan
(1868 - 1901). Nguyễn Ái Quốc là con thứ ba, trên Người còn có chị gái
là Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954) và anh trai Nguyễn Sinh Khiêm
(1888 - 1950).
Năm 1895, cụ Nguyễn Sinh Sắc đi dự thi Hội, đưa vợ và con về
Huế sinh sống. Sau khi đỗ phó bảng, Nguyễn Sinh Sắc đi coi thi hương
ở Thanh Hóa, cùng lúc đấy bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư và
cả hai đều qua đời (tháng 2 - 1901). Sau khi vợ mất, Nguyễn Sinh Sắc
đưa con về sống ở quê nội làng Sen.
Năm 1905, cậu bé Nguyễn Sinh Cung lúc này đã đổi tên là Nguyễn
Tất Thành học ở trường tiểu học Pháp – Việt tại Vinh. Tháng 5 – 1906,
Người theo cha vào Huế, học tiếp ở Trường Tiểu học Đông Ba, sau đó
học ở Trường Quốc học Huế (1908 - 1909). Tháng 4 – 1908, Người
tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Thừa Thiên.
Tháng 1- 1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng
8 – 1910, Người chia tay cha và vào dạy học ở Trường Dục Thanh, Phan
Thiết. Tháng 2 – 1911, Người vào Sài Gòn, sau đó làm phụ bếp trên
chiếc tàu của người Pháp mang tến Đô đốc Latuso Tơrêvin. Ngày 5-61911, tại bến Nhà Rồng với tên gọi là Văn Ba hay anh Ba, Người ra đi
tìm đường cứu nước.
Trong thời thơ ấu đến khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất
Thành đã sớm kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quê
hương và của gia đình. Người đã trải qua những gian khổ cùng với gia
đình và thấu hiểu, cảm thông với nỗi khổ nhục của người dân mất nước.
Hành trang của Người là sự am hiểu kiến thức văn hóa nhất đinh,
thông thạo Hán ngữ, chữ quốc ngữ, sớm tiếp thu và chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây và sách báo tiến bộ của nước Pháp. Năm 1923,
trong cuộc gặp gỡ với nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Người đã kể lại:
“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: TỰ
DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI. Đối với chúng tôi, người da trắng nào
cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và thưở ấy, tôi rất muốn
làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng
sau những chữ ấy”.
Bên cạnh đó, Người cũng chịu nhiều ảnh hưởng và rất khâm phục
tư tưởng yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Vương Thúc
Quý, Đặng Thái Thân...những nhà yêu nước đáng kính. Tuy nhiên, vượt
lên trên hết, với tấm lòng yêu nước sâu sắc, thiên tài trí tuệ, tầm nhìn xa
trông rộng và nghị lực cá nhân phi thường, Nguyễn Ái Quốc đã có sự
suy nghĩ độc đáo là hướng sang phương Tây để xem xét, nghiên cứu
thực chất của “văn minh” tư bản chủ nghĩa. Trả lời nhà văn Mỹ Anna
Xtơrông, Nguyễn Ái Quốc đã nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông
cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình
thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại
cho là Mỹ. Tôi thấy phải ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ
làm ăn ra sao, thì tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Như vậy, việc chọn hướng đi đúng trong quá trình tìm đường cứu
nước là sự đột phá mới trong tư duy chính trị, thể hiện bản lĩnh độc lập,
sáng tạo của Người, mở ra cơ hội lớn cho dân tộc Việt Nam với việc tích
hợp tinh hoa văn hóa nhân loại, mở đường cho dân tộc phát triển đi lên.
2.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Năm 1911, với cái tên Văn Ba, Người bắt đầu công cuộc tìm
đường cứu nước. Người đi qua Xinggapo, Côlômbia, Xri Lanca, Ai Cập
và cập cảng Mácxây (7-1911), rồi trải qua các nước châu Phi. Năm
1912, Người đến nước Mỹ sinh sống. Cuối năm 1913, Người trở về
Luân Đôn (Anh). Với hai bàn tay, cùng sức lao động của mình, Người đã
làm rất nhiều công việc gian khổ, từ anh phụ bếp, quét tuyết, hầu bàn,
cho đến anh chụp ảnh...để kiếm sống, vừa nghiên cứu, tìm hiểu tình hình
các nước, tìm hiểu con đường cứu nước cho dân tộc.
Từ đó, Người đã nhìn thấy và nghiên cứu được những vấn đề hết
sức có ý nghĩa trong việc giải phóng dân tộc qua các cuộc điển hình trên
thế giới
Người nhận ra những hạn chế của các nhà yêu nước đương
thời. Mặt dù khâm phục lòng yêu nước của họ nhưng Người
không đồng ý đi theo con đường cứu nướ của họ. Và ở đây
Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chế của tầm nhìn để tìm
cho dân tộc mình một con đường cứu nước mới.
Người đã thấy được Cách mạng dân chủ tư sản không thể
đem lại độc lập và hạnh phúc thự sự cho nhân dân các nước
nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
Đi theo con đường của cách mạng tháng mười Nga, đi theo
Quốc tế Cộng sản.
Bằng những điều tai nghe, mắt thấy, Nguyễn Ái Quốc sớm có ý
thức phân biệt giữa người giàu và người nghèo, giữa kẻ bóc lột và người
bị bóc lột...Người sớm có ý thức gai cấp, thương yêu những người lao
động nghèo khổ ở thuộc địa. Theo Người, bất cứ ở đâu, dù màu da hay
tiếng nói khác nhau, nhưng thế giới loài người có hai loại người: người
bóc lột và người bị bóc lột và cũng chỉ có một tình hữu ái mà thôi, tình
hữu ái vô sản. Từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng động minh của
nhân dân các dân tộc bị áp bức.
3.
Từ năm 1917 đến tháng 12 năm 1920: Gặp chủ nghĩa Mác –
Lênin và xác định được con đường cứu nước cho dân tộc: con
đường cách mạng vô sản.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động
mạnh mẽ tới nhận thức của Nguyễn Ái Quốc- đây là cuộc “cách mạng
đến nơi”. Nguời từ Anh trở lại Pháp và hoạt động trong nhóm Những
người yêu nước Việt Nam ở Thủ đô Pari. Ở đây, Người có điều kiện tiếp
thu thông tin của thế giới, Người tham gia các hoạt động chính trị hướng
về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lê Nin.
Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quộc tham gia Đảng Xã hội Pháp “Chỉ
vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy
nhất theo đuổi lý tưởng cao quý cuả cách mạng Pháp: TỰ DO, BÌNH
ĐẲNG, BÁC ÁI”, là một chính đảng tiến bộ nhất ở Pháp lúc đó. Tháng
6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giói
thứ nhất họp ở Vécxây, Tổng thống Mỹ Uynxơn tuyên bố đảm bảo vệ
quyền dân tộc tự quyết cho các nước nhược tiểu. Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp, ngày 18-6-1919, Người
gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm 8 điểm đòi
quyền tự do cho nhân dân Việt Nam), nhằm tố cáo chính sách của Pháp,
đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam. Dù không được chấp nhận nhưng nó vẵn
gây tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế, các nước thuộc địa của Pháp.
Và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rỏ hơn vầ bản chất của đế quốc, của thực
dân.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc tác phẩm Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lê nin đăng trên báo L’Humanite, số ra ngày 16 và 17-7-1920.
Trong tác phẩm này, V.I. Lê nin phê phán mọi luận điểm sai lầm của
những người đứng đầu Quốc tế II, về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa,
lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng
thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản là phải giúp đỡ thật sự
phong trào cách mạng của các nước lớn thuộc địa và phụ thuộc, nhấn
mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng
cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung là đế quốc và phong
kiến. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng vì Luận cương đã chỉ rõ cho
Người thấy con đường giải phóng dân tộc mình.
“Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”
(Người đi tìm hình của nước-Chế Lan Viên)
Tác phẩm của V.I. Lê Nin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con
đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể
lại sự kiện quan trọng đó, Người đã nói: Luận cương của Lê Nin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta!”.
Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Và từ đây, Nguyễn Ái Quốc nhận ra: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Như vậy, cho thấy Nguyễn Ái Quốc đã khác với các nhà yêu nước
đương thời, Người có một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng
tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn để đánh giá các học thuyết, tiếp thu
kinh nghiệm thế giớ có chọn lọc.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được
thể hiện nỗi bậc trong viêc vận dụng học tuyết Mác-Lê Nin, vạch ra
đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
4.
Bước chuyển trở thành người cộng sản (12-1920).
Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội toàn quốc lần
thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp diễn ra tại thành phố Tua, cách Pari
237km. Với tư cách là đại biểu Đông Dương, Người đã phát biểu ý kiến
tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương
và đề nghị Đảng Xã hội Pháp cần phải hoạt động một cách thiết thực để
ủng hộ những người bản xứ bị áp bức.
Ngày 29-12-1920, Đại hội Tua tiến hành bỏ phiếu quyết định việc
Đảng ở lại Quốc tế II hay gia nhập Quốc tế III. Với đa số phiếu (3.208
tán thành; 1.022 phiếu chống), Đảng Xã hội Pháp đã tán thành gia nhập
Quốc tế III. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III
(Quốc tế Cộng sản) và tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế
Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp cùng với những người vừa bỏ
phiếu tán thành Quốc tê Cộng sản. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở
thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là
người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu chuyển biến quyết định
trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Sau cuộc bỏ phiếu, nữ đồng chí Rôdơ (Rose), người ghi tên bản tốc
ký Đại hội, hỏi Nguyễn Ái Quốc: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho
Quốc tế III? Người trả lời: Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào
là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ
một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa... Tự do
cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.
Về sự kiện này, Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê nin, tin
theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên
cứu lý luận Mác – Lê nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”.
Sau đó ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc
tại Quốc tế cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động đặc biệt là
dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17/6-8/7/1924),
làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn cho cách
mạng Việt Nam: con đường Cách mạng Vô sản. Nguyễn Ái Quốc tiếp
tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng
vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
Chương 2: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị chu đáo cho sự thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930).
Từ năm 1920 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động
thiết thực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự hình thành tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên
nước Pháp, Liên Xô và ở Trung Quốc đã tác động không nhỏ đến sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Trong quá trình hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc tìm đến với
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tìm thấy con đường cứu nước, đưa cách mạng
Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Đây được coi là sự kiện có
tính chất bước ngoặt, khẳng định công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc,
sự chuẩn bị đầu tiên cho bước chuyển mạnh mẽ về chất của cách mạng
Việt Nam. Nói về vai trò của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lê nin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm
nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản”.
1.
Về tư tưởng:
Do cách mạng thuộc địa không được quân tâm đúng mức nên
Nguyễn Ái Quốc đã đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết
báo,…để tuyên truyền về vấn đề thuộc địa và cách mạng thuộc địa.
Cuối năm 1917, Người lao đầu vào cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hôi Pháp, lập ra Hội những người
Việt Nam yêu nước với tờ báo để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở
Pháp.
Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các
nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp
thuộc địa, sau đó Sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết
nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Sự thật, Đời sống công nhân, Tạp chí
Cộng sản,Tập san Thư tín quốc tế,… Qua các bài báo, Nguyễn Ái Quốc
đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân
Pháo ở các nước thuộc địa, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa người
cộng sản và nhân dân lao động. Đây cũng là thời gian Người thu thập tư
liệu cho tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp
được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên
cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động
thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều
phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản
chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân
các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh
giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Đồng thời, Người
tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con
đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó
giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước
thuộc địa và phụ thuộc.
Năm 1925, Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách
mệnh đã vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh tinh thần đấu
tranh của quần chúng. Tuyên truyề những vấn đề chiến lược và sách
lược của cách mạng, gắn bó cách mạng vô sản ở chính quốc với cách
mạng giả phóng dân tộc ở thuộc địa.
Ngoài viết báo, viết sách, tham luận tại các Hội nghị quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc còn trực tiếp giảng bài, chủ thảo luận, sử dụng nhiều
hình thức, biện pháp tuyên truyền chủ nghĩ Mác-Lênin, con đường,
phương pháp cách mạng cho thê hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân Việt
Nam.
Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho sự thành lập Đảng, có
ý nghĩa rất quan trọng. Vì giống như Lênin đã nói “Không có lý luận
cách mệnh, thì không có cách mệnh, vận động…. Chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiêm cách
mệnh tiền phong”.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải làm
theo chủ nghĩa ấy”. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô
sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam.
2.
Về chính trị:
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan
điểm của Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa
ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người
khẳng định, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng
cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc
cho đồng bào.
Tác phẩm Đường cách mệnh của Người ra đời là về sự chuẩn bị
tập trung và chu đáo về lý luận chính trị của Đảng ta, đặt nền tảng tư
tưởng cho đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở
“chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, nhưng cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô
sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở
“chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước
nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc,
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn
được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực
cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn
nhỏ,điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Do vậy,
Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải là việc của một hai người”.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách
mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư
tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của công
nhân.
3.
Về tổ chức:
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô
sản-cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào
quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh
giành tự do độc lập”. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để
tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người
đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước
hoạt động-để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản.
Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm
tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản
đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm
cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau
đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ
nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ
bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh
đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và
trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền
chủ nghĩa Mác-Lênin và về phương hướng phát triển của cuộc vận động
giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần,
mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 41927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi
Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô, những đồng chí
khác trong Tổng bộ đã tiếp tục việc xuất bản và hoạt động cho đến tháng
2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải).
Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các
trung tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo
Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa
chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị. Từ giũa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội đã
tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn
Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau khi được đào tạo,
các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách
mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được đào tạo ở
Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản
phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung
Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở
lại Mátxcơva và sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều
nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở về Châu Âu và hoạt động ở Xiêm
(tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi
dưỡng cho những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường
cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam,
trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng
đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên
phong. Đường Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng
và phương pháp đấu tranh cho cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng
nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về
tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng được thể hiện
rõ trong tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ
bộ dược thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở
Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên chưa phải là
chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan
điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới sự
ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan
trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân
ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh
mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt
Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ
chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chương 3: Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng.
1.
Các tổ chức cộng sản ra đời
Với sự nổ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc
và những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào
yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý
thức giác ngộ vaflaapj trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những
cuộc đấu tranh của thợ truyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng
lớn, nội dung chính trị ngày càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh
của công nhân trong năm 1928-1929 tăng gấp 2,5 lần so với 2 năm
1926-1928.
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách
mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không
còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trước tình hình đó, tháng
3-1929, những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ họp tái số nhà 5D, phố
Hàm Long, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Ngày
17-6-1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà
312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng
sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng
kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh
niên yêu nước ở Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản, lần lượt tổ chức
những chi bộ cộng sản. Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở
Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài
Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng chịu tác động mạnh mẽ
của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên- đã đi theo khuynh hướng cách
mạng vô sản. Tháng 9-1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách
mạng đảng họp bàn việc thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Đến cuối tháng 12-1929, tại Đại hội các đại biểu liên tỉnh tại nhà đồng
chí Nguyễn Xuân Thanh-Ủy viên Ban Chấp hành liên tỉnh, nhất trí quyết
định “Bỏ tên gọi Tân Việt. Đặt tên mới là Đông Dương Cộng sản liên
đoàn”. Khi đang Đại hội, sợ bị lộ, các đại biểu di chuyển đến địa điểm
mới thì bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930. “Có thể coi những ngày
cuối tháng 12-1929 là thời điểm hoàn tất quá trình thành lập Đông
Dương Cộng sản liên đoàn được khởi đầu từ sự kiện sông bố Tuyên đạt
tháng 9-1929”.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nữa
cuối năm 1929 đã khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu
nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu
thế và nhu cấu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ
chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi
Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng
cách mạng chân chính, không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu
thống nhất về tổ chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng
lớp nhân dân ngày càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách
mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai
trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết
đối với cách mạng Việt Nam lức bấy giờ.
2.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với
tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái
Quốc đến Hồng Kông triệu tập Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam
Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam.
Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết
định lấy ngày 3-2 dương lịch làm ngày thành lập Đảng). Trong Báo cáo
gửi Quốc tế Cộng sản, ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng
tôi họp vào ngày mồng 6-1. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng
sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề có liên quan đến phong trào
cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải
làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác
định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản…
Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”
Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An
Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị:
1)
2)
Đại biểu của Quốc tế Cộng sản nói lý do cuộc hội nghị;
Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản về:
a. Việc hợp nhất tất cả các nhóm cộng sản thành một tổ chức
chung, tổ chức này sẽ là một Đảng Cộng sản chân chính:
b.
Kế hoạch thành lập tổ chức đó.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và
thống nhất:
1.
2.
3.
4.
5.
Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất
các nhóm cộng sản Đông Dương;
Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;
Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai
đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc,
thông qua các văn kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lượt vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh
đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng
sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo chủ nghĩa
cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và
dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu
trong bộ phận Đảng”. Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ
chức một Trung ương lâm thời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hệ
thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ, thành bộ hay
đặt biệt bộ và Trung ương.
Ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
chính đảng duy nhất được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp
ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị,
Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân nhịp thành lập Đảng . Mở đầu,
Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách
mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) thể hiện bước
phát triển biện chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam-sự
phát triển về chất từ Hội Viết Nam cách mạng thanh niên đến 3 tổ chức
cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
3.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Trong các văn kiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của
Đảng và Sách lượt vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát
triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của Cách mạng
Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam như sau:
Mục tiêu chiến lược: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
Nhiệm vụ chủ yếu: Chống đế quốc và chống phong kiến để giành
độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Cụ thể:
Về xã hôi:
Dân chúng được tự do tổ chức.
Nam nữ bình quyền,…
Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Về kinh tế:
Thủ tiêu hết các thứ quốc trái;
Thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa
Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý;
Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm công
chia cho dân cày nghèo;
Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;
Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;
Thi hành luật ngày làm tám giờ,…
Lực lượng cách mạng:
Lực lượng cơ bản: công nhân và nông dân.
Các lực lượng khác: dân cày, tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
các tầng lớp nhâ dân,…Còn bọn phú nông, trung, tiểu địa
chủ, và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập.
Phương pháp tiến hành: Con đường bạo lực cách mạng của quần
chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được thỏa hiệp. Bất
kể giai cấp nào, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải
đánh đổ.
Tinh thần đoàn kết quốc tê: Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đồng thời phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới. Cách mạng Việt
Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới.
Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản
giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. “Đảng là đội
tiên phong của đội quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng phản ánh một cách súc tích
các luận điểm của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh
chính trị, độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính
chất xã hội thuộc địa nữa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của
thế kỹ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt
Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ của các
giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn
kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng
và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách
lược đã đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải
thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi
cho cách mạng, với uy tín chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp,
Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức
cộng sản. những văn kiện được thông qua trong hội nghị hợp nhất dù
“vắn tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài
cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử
mới.
C. Kết Luận
Nguyễn Ái Quốc sinh ra và lớn lên khi chủ quyền đất nước đã lọt
vào tay thực dân Pháp. Việt Nam trở thành một nước thuộc địa, nữa
phong kiến. Xã hội và gia cấp đều phân hóa sâu sắc. Các phong trào đấu
tranh theo ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư sản đều bất lực và thất
bại trước lịch sử. Đó là kết cục của sự bế tắc về đường lối và khủng
hoảng về lãnh đạo. Nhận thức được tình hình này, Nguyễn Ái Quốc ra đi
tìm đường cứu nước vào ngày 5-6-1911. Từ đây lịch sử cách mạng Việt
Nam mở ra một trang mới thoát khỏi sự bế tắc về đường lối, khủng
hoảng về lãnh đạo. Một chính đảng duy nhất của dân tộc: Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm
gương sáng về tinh thần cách mạng ý chí kiên cường bất khuất, toàn tâm
toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hy
sinh suốt đời phấn đấu về sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội.
Nguyễn Ái Quốc người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa; giũa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản.
Người đã tiếp thu phát huy tốt nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam
và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của
cách mạng ngày nay, tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin. Người đã sáng lập
ra Đảng Cộng sản Việt Nam và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách
mạng chân chính của giai cấp công nhân. Người luôn chăm lo rèn luyện
cán bộ, đảng viên và không ngừng bồi dưỡng thế hệ sau cho đất nước.