Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận môn Lịch sử Đảng “Sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức và vận dụng ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.3 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế
tri thức, đội ngũ trí thức Việt Nam là một chủ thể của cách mạng khoa học
và cơng nghệ hiện đại, có vai trị chủ chốt trong nghiên cứu khoa học và
tham gia chuyển giao công nghệ; các kết quả hoạt động nghiên cứu của trí
thức góp phần làm luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng con người, xây dựng và phát
triển nền văn hóa dân tộc.
Nghị quyết Trung ương 7 (khố X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đã xác định:
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức
là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Xây dựng đội ngũ trí
thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền
vững.
Kết luận số 52-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X đánh giá: sau 10 năm thực hiện
Nghị quyết, đã đạt được kết quả quan trọng. Đội ngũ trí thức tăng nhanh về
số lượng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc. Sự gắn bó giữa Đảng với trí thức ngày càng được tăng
cường. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh cơng - nơng trí tiếp tục được củng cố vững chắc.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị quyết còn nhiều hạn chế, bất cập.
Nhiều nội dung của Nghị quyết chậm được cụ thể hóa, thể chế hóa việc tổ
chức thực hiện cịn thiếu đồng bộ, ít đột phá. Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo
đối với đội ngũ trí thức chậm đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển. Đội ngũ
trí thức sáng tạo, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế
cận hẫng hụt. ...
Để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7
khóa X, tơi lựa chọn, nghiên cứu Đề tài “Sự lãnh đạo của Đảng đối với đội
ngũ trí thức và vận dụng ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay” là hết


sức cần thiết.
0


NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TRÍ
THỨC QUA CÁC THỜI KỲ

Vấn đề trí thức Việt Nam được đặt ra tại Hội nghị Trung ương 1
(tháng 10-1930) của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong "Luận cương
chánh trị" của Đảng được thông qua tại Hội nghị này, có phần đánh giá về
các giai cấp trong xã hội Việt Nam. Luận cương khẳng định cách mạng
Đông Dương trong lúc đầu sẽ là cuộc "cách mạng tư sản dân quyền". Động
lực chính của cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, do giai
cấp cơng nhân lãnh đạo. Với trí thức, Luận cương viết:
"Bọn trí thức, tiểu tư sản, học sinh, v.v. là bọn xu hướng quốc gia chủ
nghĩa, chúng nó đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ, chớ
không phải chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho bọn tiểu tư sản mà thôi. Trong
thời kỳ chống đế quốc chủ nghĩa thì bọn ấy cũng hăng hái tham gia, nhưng
chỉ lúc đầu mà thơi; chúng nó khơng thể binh vực quyền lợi cho dân cày
được, vì chúng nó phần nhiều có dây dướng với bọn địa chủ"1.
Sự đánh giá này đối với trí thức Việt Nam là khơng đúng trên thực tế.
Ở đây, chúng ta không bàn về thuật ngữ: "bọn", "chúng nó" để chỉ trí thức
với thái độ khinh miệt, mà chỉ bàn về nhận định, đánh giá trí thức Việt Nam.
Sự thực, trí thức Việt Nam đến thời điểm năm 1930, không hề là đại biểu
quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bản bản xứ, mà phần lớn họ thuộc tầng lớp
những người nghèo; "ông đồ nho bán chữ ni thân"; "chạy ăn từng bữa tốt
mồ hôi", như tú tài Trần Tế Xương (Tú Xương) đã mơ tả trong một bài thơ
của Ơng. Trí thức Việt Nam lúc ấy khơng phải là tất cả có quan hệ với giai
cấp địa chủ Việt Nam và trong thời kỳ chống đế quốc, không phải họ chỉ

hăng hái tham gia lúc đầu, mà đã gắn bó với dân tộc từ đầu đến cuối để
chống thực dân, đế quốc và phong kiến. Những tấm gương của những bậc
trí thức lớn như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh (Phan
Chu Trinh),... đã minh chứng cho việc chống thực dân, đế quốc, phong kiến
rất quyết liệt, từ đầu đến cuối trong cuộc đời của các ông. Khi Đảng Cộng
sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930, rất nhiều trí thức hăng hái
tham gia hoạt động cách mạng như đã nêu ở trên, nhưng trong Luận cương
chánh trị lại khơng phản ánh đúng tình hình đó.
Trong một văn bản của Xứ uỷ Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng ở
Trung Kỳ, năm 1930, viết: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ".
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 96.

1


Người thảo ra bản chỉ thị này là Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ Nguyễn Phong Sắc,
một nhà trí thức, một nhà giáo, đã bỏ nơi quan trường để đi hoạt động cách
mạng, một người rất trung thành với cách mạng, đã bị Pháp bắn chết trong
khi đang hoạt động ở Trung Kỳ. Nhưng trong tư tưởng của nhà trí thức này
lại có phần "tả" khuynh. Điều này phản ánh mâu thuẫn trong nội bộ giữa
những người trí thức với nhau ở cương vị lãnh đạo Đảng. Đây là một sự kỳ
thị đối với trí thức, đẩy trí thức từ chỗ yêu nước sang chỗ phản quốc. Nó
phản ánh nhận thức của những người lãnh đạo cách mạng Việt Nam lúc ấy
là chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng "tả" khuynh của Quốc tế Cộng sản. Do
chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng "tả" khuynh mà một số trí thức đã bị
sát hại.
Trước sự đánh giá thiếu khách quan đó, ngày 20-5-1931, Trung ương
Đảng Cộng sản Đơng Dương ra Chỉ thị gửi Xứ uỷ Trung Kỳ về vấn đề thanh

Đảng ở Trung Kỳ. Chỉ thị viết:
"Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư 1, ra chỉ thị thanh Đảng viết
rõ từng chữ: thanh trừ trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, như vậy
thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ
thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chí tướng"2.
Như vậy, vào thời điểm tháng 5-1931, cái nhìn lệch lạc đối với trí thức
của một số người lãnh đạo đã được Trung ương Đảng uốn nắn. Trung ương
Đảng bắt đầu nhìn thấy vấn đề trí thức và nhìn họ ở góc cạnh tích cực hơn là
tiêu cực. Tuy đã có sự uốn nắn của Trung ương Đảng trong việc đánh giá trí
thức, nhưng vấn đề trí thức vẫn cịn rất nặng nề trong tư tưởng những người
cộng sản Việt Nam giai đoạn 1930-1931, kéo dài đến tận năm 1941, khi có
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), do Nguyễn Ái Quốc, đại
diện Quốc tế Cộng sản, chủ trì, thì vấn đề trí thức mới dần dần được gỡ ra.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941) đặt vấn đề sau khi đánh
đuổi Pháp, Nhật, cách mạng Việt Nam "sẽ thành lập một nước Việt Nam dân
chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân
chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của
chung cả toàn thể dân tộc"3. Hội nghị Trung ương 8 đánh giá tầng lớp trí
thức Việt Nam, vốn có tinh thần u nước và tinh thần dân chủ, ln ln có
mặt trong cuộc vận động chống đế quốc. Nhiều trí thức hăng hái tham gia
phong trào cách mạng, chiến đấu vì lá cờ đại nghĩa của dân tộc. Đặt vấn đề
1

Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ lúc này là đồng chí Nguyễn Phong Sắc.
"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 3, đã dẫn, tr. 157.
3
"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 7, tr. 114.
2

2



dân chủ đối với trí thức là đáp ứng đúng nguyện vọng của họ, vì chỉ có tinh
thần dân chủ, trí thức mới có thể phát huy được khả năng sống và khả năng
sáng tạo của mình.
Đại hội I của Đảng (họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935, tại Ma Cao)
có 13 đại biểu dự, trong đó, hầu hết là thành phần công, nông. Trong Điều lệ
của Đại hội, đặt vấn đề kết nạp trí thức vào Đảng Cộng sản Đơng Dương.
Đó là một dấu hiệu tốt. Tuy nhiên, trong Nghị quyết chính trị của Đại hội,
vẫn cịn nặng tư tưởng đánh giá sai các loại trí thức, chẳng hạn như gộp cụ
Phan Bội Châu, một nhà trí thức rất uyên bác, chí sĩ yêu nước, đầy cảm
hứng với nước, với dân, căm thù thực dân xâm lược đến nỗi cháy gan, cháy
ruột vào với "bọn quốc gia cải lương", cùng với "Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Văn Vĩnh, Huỳnh Thúc Kháng". Sự đánh giá này là không đúng với cụ Phan
Bội Châu và không công bằng đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Đến Đại hội II của Đảng (họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, tại xã
Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang), vấn đề trí thức đã được
giải quyết một bước cơ bản. Trong "Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng" do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, đã nêu
rõ quan điểm tư tưởng của Đảng đối với vấn đề trí thức: "Về thành phần,
Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những cơng nhân, nơng dân, lao động
trí óc, thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng" 1. Trong Báo cáo "Hồn thành
giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội"
do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội II, có cái nhìn đúng đắn
về trí thức: Tầng lớp này bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đã mang lại cho họ ít nhiều quyền lợi về vật chất và
tinh thần, nhất là về tinh thần, cho nên họ hăng hái đi theo cách mạng. Khi
tham gia hoạt động, họ "có tinh thần cách mạng và là bạn đồng minh có thể
tin cậy của giai cấp công nhân"2. Tuy nhiên, "họ không thể lãnh đạo cách
mạng, vì do địa vị xã hội của họ, họ có thái độ khơng dứt khốt" 3. Đại hội II

nhận định trí thức là những người chóng giác ngộ, nhưng họ lại "khơng có
lập trường chính trị độc lập" 4. Đại hội II phê phán quan niệm cho rằng, "tiểu
tư sản trí thức Việt Nam lãnh đạo hoặc tham gia lãnh đạo cách mạng là sai".
Về vấn đề này, trong khi nghiên cứu, cịn có những ý kiến khác nhau. Một
số người cho rằng, trong hàng ngũ lãnh đạo cách mạng, từ trên xuống dưới,
hầu hết đều là những trí thức. Vì vậy, xét về mặt thực tế ở Việt Nam và các
1

"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 12, đã dẫn, tr. 37.
"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 12, đã dẫn, tr. 78.
4
"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 12, đã dẫn, tr. 78.
2 ,3

3


nước, trí thức là người lãnh đạo, quản lý. Cịn giai cấp công nhân đã được
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tổng kết là giai cấp lãnh đạo cách mạng với
tư cách ý thức hệ, nhưng phải là giai cấp công nhân đại cơng nghiệp, chứ
khơng phải là giai cấp cơng nhân nói chung. Khi nói đến giai cấp cơng nhân
đại cơng nghiệp là đã hàm chứa những yếu tố trí thức trong đó. Vì chưa rạch
rịi vấn đề này, cho nên vẫn cịn có những nhận thức khác nhau về vị trí của
tầng lớp trí thức. Chính vì những nhận thức khác nhau này mà trong một số
cơ quan, đơn vị, người thủ trưởng và ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị vẫn cịn
có những định kiến đối với trí thức, nhất là trong cơng tác cán bộ, vẫn cịn
muốn đưa thành phần cơng, nơng vào các cương vị lãnh đạo, cịn những
người trí thức thì bố trí cho làm cơng tác chun mơn thuần t.
Mặc dù cịn có những ý kiến đánh giá khác nhau về vấn đề trí thức tại
Đại hội II của Đảng, nhưng nhìn chung, giới trí thức đều cho rằng, Đại hội

II là Đại hội biết tập hợp mọi lực lượng, trong đó có lực lượng trí thức, cùng
nhau đoàn kết chống kẻ thù xâm lược, để bảo vệ nền độc lập, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm nhận thức của Đảng đối với trí thức từ sau Đại hội II của
Đảng ngày càng tiến bộ, làm cho giới trí thức ngày càng tin vào sự lãnh đạo
của Đảng. Nhiều người trí thức rất muốn được đứng trong hàng ngũ của
Đảng. Thí dụ, trong dịp Đảng ta tiến hành đợt kết nạp đảng viên "Lớp 6-11960", một số nhân sĩ, trí thức cao cấp có chân trong Chính phủ đã làm đơn
gửi đến các chi bộ nơi làm việc, yêu cầu được gia nhập Đảng. Bộ Chính trị
Khoá II, ra Nghị quyết số 100-NQ/TW, ngày 20-1-1960, "cho rằng, đây là
một hiện tượng tốt, chứng tỏ ảnh hưởng và sự tín nhiệm của Đảng ta trong
quần chúng nhân dân ngày càng to lớn, đồng thời, cũng chứng tỏ các nhân sĩ
trí thức ấy sau thời gian lâu dài hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng ta,
ngày càng hiểu rõ Đảng ta hơn, và ngày nay, họ chẳng những chỉ quyết tâm
theo sự lãnh đạo về chính trị và tư tưởng của Đảng, mà còn sẵn sàng phục
tùng sự chỉ đạo về tổ chức của Đảng"1. Tuy nhiên, đối chiếu với tình hình
chính trị chung của cả nước, Bộ Chính trị cho rằng, hiện tại, khơng kết nạp
các nhân sĩ, trí thức ấy vào Đảng Lao động Việt Nam là có lợi hơn, vì các
nhân sĩ trí thức ấy hoạt động với danh nghĩa những người không phải đảng
viên có lợi hơn với danh nghĩa đảng viên. Nhiều người cho rằng, việc đặt
vấn đề như Bộ Chính trị là đúng. Thực tế, những nhân sĩ trí thức nổi tiếng,
họ dễ hoạt động hơn khi ở ngoài tổ chức đảng, trên trường chính trị quốc tế,
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 43.

4


họ cũng dễ hoạt động hơn. Điều này đã chứng minh qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, khá nhiều nhân sĩ, trí thức khơng

phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, rất hăng hái tham gia cách
mạng và trở thành những người trí thức nổi tiếng. Bộ Chính trị đã chỉ thị
cho các chi bộ đảng từ nay càng cần phải gần gũi những nhân sĩ trí thức hơn
trong cơng tác, mạnh dạn giao việc cho họ, chú ý phổ biến để cho họ nghiên
cứu các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, và trong các cuộc họp bàn chủ trương
công tác, mời họ tham gia, phát biểu ý kiến. Tuy đã có chỉ thị của Bộ Chính
trị, nhưng trên thực tế, khơng ít cơ quan, đơn vị vẫn sử dụng những nhân sĩ
trí thức này một cách hời hợt. Khơng ít cơ quan, đơn vị còn thành kiến nặng
nề đối với họ. Sử dụng người cịn thiên về cơng, nơng. Trong ngành y tế, hồi
mới giải phóng miền Bắc, có bác sĩ khi mổ một ca người bệnh, cũng phải
xin ý kiến bí thư chi bộ là y tá.
Đại hội III của Đảng (họp từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, tại Hà Nội)
có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, cộng chung là 576 đại
biểu. Trong số 576 đại biểu, chỉ có 30 người có bằng đại học, là bác sĩ, kỹ
sư, luật sư, giáo sư, nhà sử học, gọi chung là trí thức, chiếm tỷ lệ khoảng
hơn 5% tổng số đại biểu; chỉ có 40 người có trình độ văn hố cấp III, 343
người có trình độ văn hố cấp II, 163 người mới học học xong cấp 1.
Các văn kiện của Đại hội III đều nhấn mạnh đến việc xây dựng và
phát triển khoa học và kỹ thuật một cách có trọng điểm, theo từng bước
vững chắc; đi sâu nghiên cứu khoa học ứng dụng. "Cần có kế hoạch dài hạn
và toàn diện đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ lớn mạnh bao gồm hàng vạn
cán bộ chuyên môn về các mặt khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
khoa học xã hội. Những cán bộ này, khơng những phải thơng thạo nghiệp
vụ, mà cịn phải có phẩm chất chính trị tốt, một lịng một dạ phục vụ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; họ khơng những
phải có năng lực độc lập nghiên cứu, mà còn phải biết kết hợp với đông đảo
quần chúng lao động trong công tác khoa học". Tuy nhiên, những vấn đề
trên cũng mới chỉ mang tính định hướng, chứ chưa mang tính giải pháp và
cũng chưa triển khai bằng chính sách của Chính phủ. Vì vậy, sau Đại hội III,
con đường phấn đấu của giới trí thức vẫn cịn mang tính tự phát và tự

nguyện, chứ chưa có chính sách cụ thể đối với họ.
Đại hội IV của Đảng (họp từ ngày14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà
Nội) đánh giá cao những hoạt động của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật
và cán bộ quản lý có trình độ trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp.
5


Đội ngũ này có hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960, năm họp
Đại hội III. Năm 1975, cứ 10 nghìn người lao động, có 1.040 lao động kỹ
thuật (gồm 660 công nhân kỹ thuật, 260 cán bộ trung cấp, 120 cán bộ đại
học và trên đại học). Số bác sĩ, y sĩ tăng gấp 13,4 lần,... Đội ngũ trí thức đã
có sự trưởng thành nhất định.
Đại hội đặt vấn đề sử dụng hết mọi lực lượng lao động xã hội, trong
đó có lực lượng lao động trí thức, gắn kết các lực lượng trí thức trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, tạo thành sức mạnh để cùng với công nhân, nông
dân và các lực lượng lao động khác thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế; kết hợp tốt nhà trường, viện nghiên cứu với cơ sở sản xuất; kết hợp tốt
việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học với hoạt động sản xuất; đào tạo và sử
dụng tốt cán bộ khoa học, kỹ thuật; xây dựng và củng cố các tổ chức khoa
học, kỹ thuật; cải tiến chế độ quản lý và lề lối làm việc nhằm phát huy mọi
khả năng sáng tạo của người lao động, trong đó có lao động trí óc; phát triển
các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Riêng về khoa học xã hội,
văn kiện của Đại hội cho rằng, nhiệm vụ hàng đầu của các ngành khoa học
xã hội, trước hết là triết học, chính trị kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa
học, là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lớn trong đường lối, chính sách
của cách mạng Việt Nam; mở rộng và nâng cao chất lượng nghiên cứu trên
các lĩnh vực sử học, khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn học, nghệ
thuật,...; cải cách mạnh giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và trung học
chuyên nghiệp.
Đại hội đánh giá khá cao về "trí thức giữ vai trị ngày càng quan trọng

trong xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật" 1; đặt
vấn đề đồn kết cơng nhân, nơng dân và trí thức. Cơng nhân, nơng dân, trí
thức xã hội chủ nghĩa cần có sự gắn kết cùng nhau xây dựng xã hội mới.
"Đảng và Nhà nước ta phải đẩy mạnh việc đào tạo một đội ngũ đơng đảo trí
thức có tài năng trên tất cả các ngành hoạt động xã hội, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, có
quyết tâm và nghị lực lớn, dám chinh phục những đỉnh cao của văn hoá,
khoa học, kỹ thuật, đủ sức vận dụng một cách sáng tạo những thành tựu
khoa học, kỹ thuật hiện đại để giải quyết những vấn đề cụ thể của đất nước".
Đại hội yêu cầu các cơ quan đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân cần
quan tâm hơn nữa đến đội ngũ trí thức làm việc trong các cơ quan, đồn thể
của mình, bố trí, sử dụng anh chị em một cách hợp lý, tạo những điều kiện
1

"Văn kiện Đảng Tồn tập", Tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 598.

6


vật chất và tinh thần thuận lợi, trước hết là các phương tiện làm việc,
phương tiện để nghiên cứu, để trí thức có thể nhanh chóng phát triển tài
năng, phục vụ cho sự nghiệp chấn hưng đất nước. Nét riêng của văn kiện
Đại hội IV là đặt vấn đề một cách đứng đắn về việc sử dụng trí thức đã làm
việc dưới chế độ cũ ở miền Nam, "giúp anh chị em chóng trở thành những
người trí thức xã hội chủ nghĩa". "Về phần anh chị em trí thức, cần khắc
phục những nhược điểm như chủ quan, tự mãn, xa rời quần chúng, xa rời
sản xuất, đánh giá không đúng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể,v.v..".
Có thể nói, Đại hội IV có cái nhìn tương đối tồn diện đối với trí thức.
Văn kiện của Đại hội, những đoạn viết về trí thức là khá sâu sắc, có tố chất
khoa học trong đó. Duy chỉ có điều là vẫn bế tắc ở khâu tổ chức thực hiện,

có nghĩa là những chính sách cho từng ngành, nghề mà trí thức hoạt động
vẫn chưa đề ra được, làm cho người trí thức vẫn phải tự xoay xở để làm việc
và mưu sinh.
Giữa hai kỳ Đại hội IV và Đại hội V, Bộ Chính trị Khố IV ra Nghị
quyết số 37-NQ/TW, ngày 20-4-1981, về chính sách khoa học và kỹ thuật.
Nghị quyết nhận định về công tác khoa học và kỹ thuật của Việt Nam đã có
một bước chuyển biến mới trong q trình xây dựng đề án, chính sách khoa
học và kỹ thuật; đã xây dựng được một hệ thống 72 chương trình tiến bộ
khoa học và kỹ thuật trong điểm cấp nhà nước. Đội ngũ cán bộ khoa học và
kỹ thuật, công nhân chuyên nghiệp đã được đào tạo với số lượng đông. "Từ
khi nước nhà thống nhất, tiềm lực khoa học và kỹ thuật được bổ sung thêm
những anh chị em trí thức và cơng nhân kỹ thuật ở các vùng mới giải phóng,
có lịng u nước và hăng hái tham gia xây dựng Tổ quốc". Hệ thống nghiên
cứu của các viện, các trường đại học đã và đang được hình thành. Hệ thống
quản lý khoa học và kỹ thuật từ trung ương đến địa phương đã hình thành và
đang bắt đầu phát huy tác dụng trong việc điều khiển các hoạt động khoa
học và kỹ thuật trên phạm vi cả nước. Hệ thống giáo dục đại học và chuyên
nghiệp, giáo dục phổ thông đã và đang tiếp tục xây dựng.
Nghị quyết cũng đã chỉ ra những nhược điểm và thiếu sót của cơng tác
khoa học và kỹ thuật còn thấp, chưa tương xứng với tiềm lực hiện có, chưa
đáp ứng được những yêu cầu của thực tế đời sống xã hội. "Những kết quả
nghiên cứu khoa học và những tiến bộ kỹ thuật có giá trị chưa được ứng
dụng rộng rãi vào sản xuất và đời sống, gây ra sự lãng phí sức người, sức
của". "Đảng và Nhà nước chưa có một quy hoạch thống nhất về cơng tác
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật,
7


nên đã gây ra tình trạng tự phát và phân tán". "Cán bộ đầu đàn và những
chun gia có trình độ cao trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy cịn ít,

cán bộ có năng lực về tổ chức và quản lý còn thiếu nhiều. Đội ngũ cán bộ
khoa học xã hội phát triển chậm hơn so với một số ngành khoa học khác".
Hệ thống các cơ quan nghiên cứu, các cơ quan quản lý khoa học và kỹ thuật
các cấp chưa được quy hoạch chặt chẽ, tổ chức chưa hợp lý, chức năng và
nhiệm vụ chưa rõ ràng, chỉ đạo thiếu tập trung, thống nhất, cịn nặng về
hành chính, nhẹ về khoa học. Thực ra, trong lúc này, một số lớn cán bộ quản
lý khoa học và kỹ thuật còn thiếu hiểu biết về khoa học và kỹ thuật, mang
nhận thức tư tưởng chủ quan áp đặt lên khoa học và kỹ thuật, làm cho hoạt
động khoa học và kỹ thuật hoạt động khó khăn. Những thiếu sót đó "đã làm
cản trở đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào thực tiễn sản
xuất và đời sống, đã hạn chế sự phát triển khoa học và kỹ thuật".
Để đáp ứng với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, Nghị quyết đề
ra phương hướng phấn đấu là "phải tạo ra một bước chuyển biến mới trong
hoạt động khoa học và kỹ thuật", cụ thể là tập trung vào việc xây dựng
chính sách khoa học và kỹ thuật. Đối với Việt Nam, từ một nước nông
nghiệp lạc hậu chuyển sang một nước công nghiệp hiện đại, thì "chính sách
khoa học và kỹ thuật nước ta cần hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ thiết
thực phục vụ phát triển sản xuất, ổn định và từng bước nâng cao đời sống
của nhân dân, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước".
Khoa học và kỹ thuật cần tập trung nghiên cứu các quy luật phát triển của tự
nhiên, xã hội và con người Việt Nam, các mối quan hệ quốc tế, nhằm phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, phấn đấu
xây dựng thành công nền khoa học và kỹ thuật tiên tiến của nước Việt Nam
mới. Nền khoa học và kỹ thuật nước nhà phải có khả năng tạo ra những giá
trị nhận thức mới để chỉ đạo hành động, đủ sức giải quyết những vấn đề
khoa học và kỹ thuật trước mắt và lâu dài, do sản xuất và đời sống xã hội
đặt ra; đón trước và mở ra cho nền kinh tế - xã hội những phương hướng
phát triển mới. Phát triển khoa học và kỹ thuật phải toàn diện, đồng bộ và
cân đối, tập trung vào những trọng điểm, các ngành khoa học và kỹ thuật
mũi nhọn, các chương trình ưu tiên; kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiện,

khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội; chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển
khai; quan tâm đầy đủ đến nghiên cứu cơ bản có định hướng. Tất cả phải
tìm ra con đường phát triển kinh tế, khoa học và kỹ thuật thích hợp nhất,

8


những bước đi thích hợp nhất với hồn cảnh cụ thể của nước ta, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước.
Nghị quyết nêu khá chi tiết về phương hướng tiến bộ khoa học và kỹ
thuật, như vấn đề nông nghiệp, cải tạo đất đai, giống cây trồng và vật nuôi,
kỹ thuật trồng rừng, khoa học và kỹ thuật về biển, thuỷ lợi, nghiên cứu về cơ
cấu bữa ăn; công nghiệp cơ khí, luyện kim, cơng nghiệp nhẹ, cơng nghiệp
thực phẩm, công nghiệp dược phẩm, công nghệ vi sinh, năng lượng, nhiên
liệu, dầu khí, than, hố chất, ngun liệu, vật liệu, địa chất, khai khống;
giao thơng vận tải, thơng tin bưu điện, bảo vệ sức khoẻ,...
Nghị quyết đã nêu những vấn đề khá cụ thể về phương hướng hoạt
động của khoa học về điều tra cơ bản, về tổ chức nền kinh tế và đời sống xã
hội, cải tiến kinh tế và quản lý xã hội; khoa học tự nhiên; khoa học xã hội.
Về khoa học điều tra cơ bản, tổ chức nền kinh tế và đời sống xã hội,
cải tiến quản lý kinh tế và xã hội, Nghị quyết nhấn mạnh đến việc điều tra
cơ bản về các vấn đề tài ngun khống sản, dầu mỏ, khí đốt, bơxít, tài
ngun biển và thềm lục địa. Phát triển đồng bộ những phương hướng
nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho việc hoàn thiện công tác quản lý kinh tế và
xã hội; xây dựng những căn cứ khoa học cho việc cải tiến hệ thống tổ chức
quản lý kinh tế và xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở, cho việc
áp dụng các phương pháp quản lý phù hợp với trình độ phát triển của nền
sản xuất và xã hội.
Về khoa học tự nhiên phải nhằm vào việc xây dựng cơ sở khoa học
cho việc tìm kiếm, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên

nhiên và mơi trường nước ta, sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng,
nhiên liệu, nguyên liệu, phục vụ cho việc phát triển các ngành kỹ thuật công
nghiệp, nông nghiệp, ý tế. Nghiên cứu những vấn đề về toán học, điều khiển
học, vật lý, cơ học, hoá học, sinh học, khoa học về trái đất.
Về khoa học xã hội, tập trung nghiên cứu các quy luật của cách mạng
xã hội chủ nghĩa; đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người
mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phát triển mạnh các ngành khoa học kinh
tế, chủ nghĩa xã hội khoa học, triết học, xã hội học, luật học, các khoa học
lịch sử, khoa học ngữ văn.
Trí thức là những người thực hiện những nhiệm vụ khoa học và kỹ
thuật quan trọng này. Vì vậy, vấn đề trí thức phải được xem là vấn đề quan
trọng hàng đầu trong phát triển khoa học và kỹ thuật.
9


Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên, vấn đề đặt ra trong Nghị
quyết là phải ra sức xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật và cơng
nhân lành nghề theo một quy hoạch thống nhất, có cơ cấu và trình độ phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước; có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ cho hợp lý, nhằm phát huy hết
khả năng của từng người trí thức và tiềm lực của tồn đội ngũ trí thức. "Vấn
đề cấp bách hiện nay là phải tổ chức, sử dụng tốt hơn đội ngũ cán bộ khoa
học và kỹ thuật hiện có"1. "Có cán bộ đầu đàn và chuyên gia trình độ cao
trong nghiên cứu, giảng dạy và sản xuất, cán bộ có năng lực về tổ chức và
quản lý trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học
xã hội"2.
Nghị quyết đề cập đến vai trò của các cấp uỷ đảng và tăng cường sự
quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước đối với khoa học và kỹ thuật;
đồng thời, nhấn mạnh đến cán bộ khoa học và kỹ thuật phải ra sức phấn đấu

rèn luyện để trở thành người chiến sĩ trên mặt trận khoa học và kỹ thuật,
"vừa cách mạng, vừa khoa học, có phẩm chất và năng lực, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, trung thực, đoàn kết, hăng say công
tác, bền bỉ học tập, nghiên cứu và qua thực tiễn mà không ngừng sáng tạo,
phát minh"3.
Nghị quyết viết: "Cần khẳng định rằng, trong điều kiện kinh tế càng
khó khăn, trình độ kỹ thuật của sản xuất càng thấp kém, thì càng phải chú
trọng đầu tư cho các hoạt động khoa học và kỹ thuật, cho công tác đào tạo
cán bộ khoa học và kỹ thuật và công nhân kỹ thuật" 4. "Mặt khác, phải tạo ra
cho được một sự chuyển biến lớn trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế của
hoạt động khoa học và kỹ thuật làm cho việc đầu tư cho khoa học và kỹ
thuật trong thực tế trở thành hướng đầu tư có lợi nhất cho nền kinh tế quốc
dân".
C.Mác đã nói khoa học là một động lực thúc đẩy lịch sử tiến triển, là
một động lực cách mạng. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong Nghị quyết này là phải
làm thế nào để đưa khoa học trở thành một động lực thúc đẩy lịch sử và
động lực cách mạng.
Đại hội V của Đảng (họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, tại Hà Nội)
tiếp tục tư tưởng của Đại hội IV là đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật,
1

"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 42, đã dẫn, tr. 153, 128.
"Văn kiện Đảng Toàn tập", tập 42, tr. 128.
3
"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 42, đã dẫn, tr. 159, 169, 170.
4
"Văn kiện Đảng Toàn tập", Tập 42, đã dẫn, tr. 170.
2

10



bởi vì, đối với nước ta, những yêu cầu về năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, về sản xuất hàng xuất khẩu, sản phẩm cơ khí, luyện kim, hoá chất,
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng,... đang đề ra những đòi hỏi rất lớn
ở khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và những nhà khoa
học, nhà trí thức làm việc trên các lĩnh vực này. Tuy độ sắc viết về trí thức
trong văn kiện Đại hội V không bằng văn kiện Đại hội IV, nhưng cũng đã
nêu được một số vấn đề về trí thức. Theo văn kiện Đại hội V, đội ngũ trí
thức nước ta phát triển khá nhanh. Trong 5 năm, kể từ Đại hội IV đến Đại
hội V, số lượng trí thức tăng thêm 78%. Cả nước tính đến thời điểm năm
1982, cả nước hiện có trên 260 nghìn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học
và trên đại học. "Anh chị em trí thức đã tích cực phấn đấu, cống hiến nghị
lực và tài năng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một số cơng
trình nghiên cứu và tác phẩm nghệ thuật của ta đã đạt trình độ cao"1.
Đại hội VI của Đảng (họp từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, tại Hà
Nội) là Đại hội ghi dấu mốc đổi mới tồn diện, trong đó, đã mở ra cho trí
thức một hướng đi mới, thể hiện vấn đề dân chủ đối với trí thức: "Đối với trí
thức, điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng
năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển. Phá
bỏ những quan niệm hẹp hịi, khơng thấy tằng lớp trí thức ngày nay là
những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng giáo dục và lãnh đạo,
ngày càng gắn bó chặt chẽ với cơng nhân, nơng dân" 2. Lần đầu tiên, "Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (gọi tắt là
Cương lĩnh năm 1991), được Đại hội VII của Đảng thông qua vào năm
1991, ghi: "Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp
cơng nhân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo".
Đại hội VI bàn nhiều về vấn đề tư tưởng, có liên quan đến vấn đề trí
thức, cho rằng, "đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các

quy luật đang hoạt động trong thời kỳ q độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản
đơn hố, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những
thành kiến khơng đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật
của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó, khơng chú ý vận
dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú
1
2

"Văn kiện Đảng Tồn tập", Tập 43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 121.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 115.

11


ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước anh em".
Đại hội VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991, tại Hà
Nội), có 1.176 đại biểu dự. Trong số này, có 19 người đạt trình độ văn hố
cấp I, chiếm tỷ lệ 1,62% so với tổng số đại biểu; 188 người đạt trình độ văn
hố cấp II, chiếm tỷ lệ 15,99%; 969 người đạt trình độ văn hố cấp III,
chiếm tỷ lệ 82,4%; 78 người có trình độ trung học chuyên nghiệp, chiếm tỷ
lệ 6,63%; 743 người có trình độ đại học, cao đẳng và trên đại học, chiếm tỷ
lệ 63,18%, trong đó có 158 người là phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư cấp I, II.
Trình độ lý luận chính trị và quản lý kinh tế: 840 người, chiếm tỷ lệ 71,42%,
đạt trình độ lý luận cao cấp; 257 người, chiếm tỷ lệ 21,85%, đạt trình độ lý
luận trung cấp; 461 người, chiếm tỷ lệ 39,2%, đã qua đào tạo quản lý kinh
tế;152 người, chiếm tỷ lệ 12,93%, đã học quản lý nhà nước. Như vậy, thành
phần trí thức trong Đại hội chiếm đa số. Điều đó chứng tỏ trình độ trí thức,
tri thức trong Đảng đã được nâng lên rất nhiều so với những năm trước đó,

phản ánh q trình nỗ lực học tập của các đảng viên. Văn kiện Đại hội đánh
giá cao những đóng góp của giới trí thức trong cơng cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội xác định: "Mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri
thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo,
có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà
trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chun mơn
sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần"1.
Đại hội VIII của Đảng (họp từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996, tại Hà
Nội) phân tích sâu sắc vấn đề phát triển trí tuệ của người Việt Nam thể hiện
trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Hội nghị Trung ương 2, Khoá VIII, ra Nghị quyết số 02-NQ-HNTW,
ngày 24-12-1996: "Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000", đặt
vấn đề xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa biết kế thừa, tiếp thu tinh hoa truyền thống dân
tộc, vừa làm chủ tri thức và khoa học công nghệ hiện đại, "thực sự coi giáo
dục là quốc sách hàng đầu". Quán triệt tinh thần giáo dục - đào tạo là sự
1

"Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 81.

12


nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn dân; phát triển giáo dục gắn
với những nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học và
công nghệ; thực hiện công bằng trong giáo dục, đào tạo; giữ vững vai trị

nịng cốt của trường cơng lập đi đơi với đa dạng hố các loại hình giáo dục,
đào tạo.
Hội nghị Trung ương 2, Khoá VIII ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW,
ngày 24-12-1996: "Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá và nhiệm vụ đến năm 2000" đặt ra mục
tiêu và những nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực: khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Cùng với giáo dục
và đào tạo, "khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu", là động lực phát
triển kinh tế, xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác định khoa học và công nghệ là nội dung
then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp; phát triển khoa
học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân; phát huy năng lực
nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp với tiếp thu thành tựu khoa học
công nghệ của thế giới; phát triển khoa học và công nghệ gắn liền với bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái; bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền
vững.
Đại hội IX của Đảng (họp từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, tại Hà Nội)
đặt vấn đề: "Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt
đối với nhà khoa học có cơng trình nghiên cứu xuất sắc"1.
Đại hội X của Đảng (họp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, tại Hà Nội)
đặt vấn đề một cách rõ ràng về sử dụng trí thức, trọng dụng nhân tài: "Thực
hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng cơng
trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và cơng nhân kỹ thuật có tay
nghề cao".
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, Khoá X (tháng 7-2008) về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, đánh giá một cách khách quan, khoa học về đội ngũ trí thức Việt
Nam hiện nay, thẳng thắn chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu kém của họ, trên
cơ sở đó mà định ra nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Cái mới mà

chúng tơi cảm nhận được trong Nghị quyết này là Đảng không chỉ đánh giá
về đội ngũ trí thức, mà cịn kiểm điểm cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức.
1

"Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 37.

13


Đây là lần đầu tiên, Đảng có một nghị quyết riêng về vấn đề trí thức. Như
vậy, phải mất một thời gian dài, kể từ ngày thành lập Đảng, vấn đề trí thức
mới được làm sáng tỏ, mới được đặt ngang hàng với vấn đề cơng nhân và
nơng dân. Đó là một bước tiến lớn về lý luận và thực tiễn trong việc giải
quyết vấn đề trí thức.
Đại hội XI của Đảng (họp từ ngày 12 đến ngày 19/01/2011, tại thủ đô
Hà Nội) tiếp tục đặt vấn đề xây dựng nền tảng “liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo”; đặt vấn đề: “khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo
điều kiện để người dân được học tập suốt đời”. Đặc biệt đối với nhân tài,
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định rõ: “Có chính sách đặc biệt đối
với nhân tài của đất nước”.
Đại hội XII của Đảng (họp từ ngày họp từ ngày 20-01-2016 đến ngày
28-01-2016, tại Thủ đơ Hà Nội), xác định: Xây dựng đội ngũ trí thức ngày
càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn
trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả
cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tơn vinh xứng đáng
những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân
tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của
các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nói tóm lại, quan điểm nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi
thành lập đến nay về vấn đề trí thức là một q trình từ nhận định, đánh giá
chưa đúng, cịn chủ quan đến nhận định, đánh giá đúng, khách quan. Điều
này phán ánh tư duy của Đảng trong việc nhìn nhận trí thức đã có những đổi
mới; trí tuệ của Đảng trong việc định đường lối, chính sách đối với trí thức
đã được nâng lên cùng với q trình đổi mới đất nước.
II. THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CỦA TỈNH BẮC
GIANG

1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm đến xây
dựng và phát triển đội ngũ trí thức; ban hành nhiều văn bản quan trọng đối
với trí thức và tổ chức tập hợp trí thức; cụ thể:
14


- Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 11/11/1998 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
- Hội nghị Trung ương 2, Khoá VIII, ra Nghị quyết số 02-NQ-HNTW,
ngày 24/12/1996: "Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố và nhiệm vụ đến năm 2000".
- Hội nghị Trung ương 2, Khoá VIII ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW,
ngày 24/12/1996: "Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hố và nhiệm vụ đến năm 2000".
- Thông báo kết luận số 145-TB/TW ngày 09/7/2004 của Ban Bí thư
về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW đối với Liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.

- Ngày 25/7/2008, Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) ban hành
Nghị quyết số 27/NQ-TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết đã đánh giá cao
vai trị, vị trí của trí thức, đưa ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu đến năm 2020
và 5 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức.
- Kết luận của hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá IX) về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ.
- Kết luận số 242-TB/TƯ ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết T.Ư 2 (khóa VIII) về phương hướng phát triển giáo
dục và đào tạo đến năm 2020.
- Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị khố X về
tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các
hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa đất nước.
- Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020.
- Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
- Kết luận số 90-KL/TW ngày 4/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí
thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

15


- Kết luận số 86-KL/TW, ngày 24/1/2014 của Bộ Chính trị về chính
sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa
học trẻ.

- Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học
tăng cường về làm phó chủ tịch xã khó khăn.
- Đề án thí điểm tuyển chọn 500 trí thức trẻ tình nguyện về các xã
tham gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013-2020.
2. Chủ trương, chính sách của tỉnh Bắc Giang
2.1. Về tổ chức tập hợp trí thức
* Đối với Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh
- Tỉnh uỷ Bắc Giang đã ban hành Chương trình hành động số 46CTr/TU ngày 03/10/2008 thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khố X) về
xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước. Kế hoạch số 06-KH/TU ngày 19/02/2011 của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước.
UBND tỉnh đã quyết định thành lập Liên hiệp hội năm 2000, khi mới
thành lập, cán bộ đều là kiêm nhiệm; năm 2004 được bố trí 02 biên chế
chuyên trách: Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký và Chánh Văn phịng; có 7 hội
thành viên với 2 vạn hội viên. Đến nay, Liên hiệp hội Bắc Giang đã trải qua
4 kỳ Đại hội, sau gần 20 năm hoạt động đã có 25 hội thành viên với trên 7
vạn hội viên. Được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, đến nay bộ máy
tổ chức của cơ quan Thường trực Liên hiệp hội từng bước được kiện toàn,
hiện tại lãnh đạo Liên hiệp hội có Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và Tổng Thư ký
chuyên trách; tổ chức bộ máy gồm: Văn phòng và 03 Ban (Ban Tư vấn phản
biện; Ban Khoa học và Kỹ thuật và Ban Thông tin) với 8 biên chế, 02 hợp
đồng theo Nghị định 68 và 02 hợp đồng công việc, đa số là cán bộ trẻ, trong
đó 100% cán bộ cơng chức, viên chức có trình độ đại học, 05 đồng chí trình
độ thạc sỹ, 05 đồng chí trình độ cao cấp lý luận chính trị. Năm 2013, Tỉnh
uỷ đã quyết định thành lập Đảng đoàn Liên hiệp hội; cơ quan Liên hiệp hội
có chi bộ Đảng, tổ chức cơng đồn, chi đồn thanh niên.
Liên hiệp hội được thành lập là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức
Bắc Giang hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trong q trình

hoạt động, mặc dù cịn gặp nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách, biên chế
hạn hẹp, cơ sở vật chất thiếu thốn, nhưng Liên hiệp hội đã có nhiều đổi mới
16


trong hoạt động, vai trò, vị thế của Liên hiệp hội dần được khẳng định, xứng
đáng là tổ chức chính trị-xã hội của đội ngũ trí thức tỉnh trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Chất lượng các hoạt động tham gia thực hiện xã hội
hoá hoạt động khoa học và công nghệ; tổ chức các cuộc thi, hội thi sáng tạo
kỹ thuật; phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật; tư vấn, phản biện, giám định
xã hội… được nâng lên.
* Đối với Hội Văn học- Nghệ thuật
- Tỉnh uỷ Bắc Giang đã ban hành Chương trình hành động số 42CT/TU ngày 01/8/2008 về thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục
xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
- UBND tỉnh đã thành lập Quỹ hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật
(2003); ban hành Quyết định số 626/2013/QĐ-UBND ngày 25/11/2013 ban
hành Quy chế xét tặng Giải thưởng văn học nghệ thuật Sông Thương.
Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Giang tiền thân là Hội Văn học Nghệ
thuật Hà Bắc được thành lập ngày 30-1-1980 (Quyết định số 58/QĐ-UBND
của UBND tỉnh Hà Bắc). Đến nay, có 07 chi hội (văn học, nhiếp ảnh, mỹ
thuật, âm nhạc, sân khấu, văn nghệ dân gian, kiến trúc, với tổng số 161 hội
viên.
Gần 40 năm qua với sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, Hội đã khắc
phục khó khăn về đời sống, điều kiện hoạt động, đồn kết, sáng tạo xây
dựng phát triển khơng ngừng. Hội đã chú trọng tập hợp hội viên, văn nghệ
sỹ, quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, đào tạo chun mơn
nghiệp vụ chính trị, ngày càng khẳng định vị thế trong đời sống chính trị-xã
hội địa phương. Chất lượng hoạt động của hội tiếp tục được nâng cao, nội
dung, phương pháp hoạt động phong phú, qua đó thực sự trở thành nơi thu
hút, tập hợp giới văn nghệ sỹ, tạo bầu khơng khí dân chủ, lành mạnh cho các

hội viên phát huy khả năng sáng tạo những tác phẩm mang hơi thở cuộc
sống đến các tầng lớp nhân dân.
2.2. Về cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức
Trên cơ sở vận dụng đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị, xây dựng cơ chế, chính sách trong khả năng của địa phương, tạo
điều kiện tối đa cho trí thức tỉnh nhà phát huy năng lực sáng tạo, cống hiến.
Đặc biệt là đã ban hành được Chiến lược phát triển đội ngũ trí thức Bắc

17


Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Bắc Giang là tỉnh đầu tiên
trong toàn quốc ban hành được Chiến lược về phát triển đội ngũ trí thức.
UBND tỉnh và các cấp, các ngành đã quan tâm công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đội ngũ trí thức. Cơng tác quy hoạch đã
được thực hiện đồng bộ ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã), cơ bản bảo đảm chất
lượng, số lượng, cơ cấu theo quy định. Hằng năm, tiến hành rà soát, bổ
sung, bảo đảm quy hoạch động và mở, đã lựa chọn những trí thức tiêu biểu,
có năng lực, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ để đưa vào quy hoạch, tạo nguồn
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng. Phối hợp tổ chức đào tạo với các
trường đại học và các học viện, cử đi đào tạo theo Đề án 165 của Ban Tổ
chức Trung ương…để nâng cao trình độ chun mơn, lý luận chính trị và
ngoại ngữ cho đội ngũ trí thức.
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 144-QĐ/1998/UBND về việc
hỗ trợ kinh phí cho cán bộ sau khi có quyết định công nhận các học vị thạc
sỹ, tiến sỹ hoặc học vị tương đương. Ban hành Quyết định số 30/2001/QĐUB về hợp đồng lao động đối với sinh viên đã tốt nghiệp đại học chưa có
việc làm, nhằm tạo việc làm cho người lao động và nguồn bổ sung cho đội
ngũ cán bộ, công chức của tỉnh. Chủ trương thu hút cán bộ có trình độ
chun mơn cao về tỉnh cơng tác. Thực hiện Dự án thí điểm tuyển chọn 600

trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về làm phó chủ tịch xã khó
khăn; Đề án thí điểm tuyển chọn 500 trí thức trẻ tình nguyện về các xã tham
gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013-2020... Chính sách trọng
dụng và tơn vinh trí thức được quan tâm: Tỉnh có kế hoạch bố trí, sử dụng
hợp lý đội ngũ trí thức; bổ nhiệm trí thức có đủ năng lực vào các chức danh
lãnh đạo, quản lý; quan tâm trí thức trẻ, trí thức nữ, trí thức là người dân tộc
thiểu số. Lựa chọn trí thức tiêu biểu trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, nghệ
thuật, để đề nghị phong tặng danh hiệu nhà giáo, thầy thuốc, nghệ sĩ nhân
dân, ưu tú. Tổ chức lễ Vinh danh tài năng trẻ Bắc Giang.
Quan tâm tạo mơi trường cho trí thức hoạt động, cống hiến: UBND
tỉnh đã ban hành Quyết định số 75/2011/QĐ-UBND ngày 09/3/2011 quy
định hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật tỉnh, góp phần tập hợp, phát huy trí tuệ của đội ngũ trí
thức tham gia tư vấn, phản biện, nâng cao chất lượng chương trình, đề án và
những chính sách do UBND tỉnh ban hành. Hằng năm, tổ chức Hội thi sáng
tạo kỹ thuật và Cuộc thi sáng tạo thanh, thiếu niên, nhi đồng, thông qua hội
thi, cuộc thi đã có hàng ngàn giải pháp của các tổ chức, cá nhân, trí thức
18


khoa học công nghệ và các em học sinh trên địa bàn tỉnh đăng ký tham dự,
trong đó hơn 500 mơ hình, giải pháp kỹ thuật đã được trao giải thưởng,
nhiều giải pháp, mơ hình, ý tưởng thiết thực và hiệu quả đã góp phần mang
lại lợi ích cho tổ chức, doanh nghiệp.
Đội ngũ trí thức của tỉnh đã tích cực tham gia đề xuất, triển khai thực
hiện các dự án, đề tài áp dụng vào thực tiễn trên các lĩnh vực, góp phần đẩy
mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào đời sống, xã hội, thúc đẩy phát
triển kinh tế -xã hội, xố đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân.
Các biện pháp, chính sách trên của tỉnh về xây dựng đội ngũ trí thức
đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
III. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUN NHÂN CỦA
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ CƠNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC TỈNH BẮC GIANG
1. Về hạn chế, yếu kém
1.1. Đối với đội ngũ trí thức
Đội ngũ trí thức Bắc Giang hiện còn nhiều bất cập, chưa hợp lý, mất
cân đối về số lượng, chất lượng, cơ cấu (chun mơn, giới tính, dân tộc, lĩnh
vực ngành nghề, địa bàn phân bố...) Trí thức trình độ tiến sĩ cịn ít, chiếm tỉ
lệ rất thấp (0,03%), lại phân bố không hợp lý. Chưa có đội ngũ chuyên gia
đầu ngành, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa có tập thể khoa học mạnh, có khả
năng giải quyết những vấn đề cấp bách trong phát triển kinh tế-xã hội địa
phương.
Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý còn hạn chế về tư duy và tầm
nhìn; chất lượng, hiệu quả cơng việc chưa cao, chưa thực sự đề cao tính chủ
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Sự cải thiện năng
lực cạnh tranh và quản trị chưa thật sự ổn định, thiếu vững chắc; một số chỉ
số quản trị và hành chính cơng của tỉnh có thứ hạng thấp hoặc rất thấp. Hoạt
động của đội ngũ trí thức khoa học và cơng nghệ cịn lúng túng, chưa có
nhiều nghiên cứu có giá trị. Chưa có những giải pháp khoa học và cơng
nghệ có tính cơ bản và đột phá cho các vấn đề kinh tế-xã hội. Chưa có sự
gia tăng hàm lượng trí tuệ trong các sản phẩm nông nghiệp, du lịch... Thiếu
các nghiên cứu cơ bản, các dự án nghiên cứu, triển khai có khả năng thúc
đẩy sự phát triển các ngành kinh tế có thế mạnh của tỉnh. Năng lực nắm bắt
19


những vấn đề mới, khả năng nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học
và công nghệ, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ cịn thấp. Đóng góp chưa

rõ rệt trong bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, trong xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới; ít có cơng trình, tác phẩm văn học
nghệ thuật xứng tầm với truyền thống văn hóa.
Đóng góp thực tế của đội ngũ trí thức cịn chưa tương xứng với tiềm
năng. Cịn chưa thể hiện tốt vai trị của mình trên các hoạt động phản biện
và giám định xã hội; tổng kết thực tiễn trong lãnh đạo, quản lý; trong tư vấn
đề xuất chính sách, giải pháp để giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong
phát triển kinh tế-xã hội; trong tuyên truyền đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, cịn thiếu
tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh nêu các chính kiến của cá
nhân trong tranh luận khoa học. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu
ý thức trách nhiệm và lịng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu
trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức khơng thường xun học
hỏi, tìm tịi, trau dồi chun mơn nghiệp vụ, thiếu chí khí và hồi bão. Nhiều
trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý
chí phấn đấu vươn lên về chun mơn.
1.2. Đối với cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức
Các chính sách biện pháp về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức từ
Trung ương đến địa phương chưa đồng bộ, thiếu cụ thể, chậm ban hành,
thiếu nguồn lực thực hiện, trong một số lĩnh vực cịn duy trì lâu dài tình
trạng bất hợp lý. Vì vậy chưa tạo được động lực cho sự phát triển đội ngũ trí
thức nói chung, trí thức Bắc Giang nói riêng.
Chưa có cơ chế chính sách cụ thể về tập hợp đội ngũ chuyên gia; tỷ lệ
tập hợp đội ngũ trí thức khoa học và cơng nghệ cịn thấp. Việc tập hợp, phát
huy trí tuệ của đội ngũ trí thức có trình độ chun mơn cao, là người Bắc
Giang đang cơng tác ở ngồi tỉnh có mặt cịn hạn chế. Chưa tổ chức được
nhiều hoạt động thiết thực để phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức tỉnh nhà.
Nội dung cụ thể hố các văn bản của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh về xây dựng và
phát triển Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh còn chậm, nhất là

xây dựng các cơ chế, chính sách tạo điều kiện tập hợp, phát huy đội ngũ trí
thức của tỉnh.

20


Chủ trương thu hút cán bộ có trình độ chun mơn cao về tỉnh cơng tác
mới thực hiện thí điểm, chưa triển khai đồng bộ thành các chính sách cụ thể;
cơng tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức có một số trường hợp không theo quy
hoạch, chủ yếu là do nhu cầu cá nhân; việc đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự
gắn với bố trí sử dụng.
Các chính sách phát triển đội ngũ trí thức chưa được đồng bộ: Mức độ
hài lịng của cán bộ, của chính đội ngũ trí thức và người dân về các chính sách:
đào tạo, bồi dưỡng; bố trí sử dụng; mơi trường làm việc; chế độ đãi ngộ,…ở
mức thấp.
Chưa có các chính sách đầy đủ và hiệu quả để phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ trí thức. Thiếu quy hoạch, kế hoạch và biện pháp hiệu quả
cho việc học tập nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn (học thạc sĩ, tiến
sĩ) cho trí thức cơng chức, viên chức. Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ
sau khi được học tập, đào tạo và luân chuyển chưa hợp lý. Chưa có giải
pháp thỏa đáng trong khắc phục khó khăn và động viên đối với con em tỉnh
nhà trong học tập. Còn một bộ phận sinh viên tốt nghiệp đại học chưa được
bố trí việc làm phù hợp với ngành nghề được đào tạo; chưa quan tâm đúng
mức việc tạo nguồn, định hướng nghề nghiệp, phát hiện nhân tài và chưa có
kế hoạch cụ thể về bồi dưỡng nhân tài.
Môi trường làm việc của trí thức chưa thực sự thuận lợi, cịn nhiều
hạn chế và khó khăn, chưa tạo lập được nhận thức chung của xã hội về sự
tôn trọng, đánh giá công bằng, khách quan đối với trí thức. Cịn thiếu các
diễn đàn, trung tâm nghiên cứu hiện đại, cơ chế phối hợp cho hoạt động của
trí thức; điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, nơi làm việc còn thiếu thốn, dẫn

tới chảy máu "chất xám".
Chế độ đãi ngộ đối với trí thức tuy đã có nhiều cố gắng và có những
giải pháp mang tính đột phá, nhưng chính sách thu hút trí thức, thu hút
người tài, bố trí, đề bạt vào các vị trí xứng đáng, tơn vinh, tưởng thưởng
những trí thức có thực tài, có cống hiến… đều chưa đạt được hiệu quả cao.
2. Nguyên nhân của những yếu kém
2.1. Nguyên nhân khách quan:
Do xuất phát điểm kinh tế-xã hội, trình độ khoa học và cơng nghệ của
tỉnh Bắc Giang còn thấp, yêu cầu ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản
xuất và đời sống chưa cao. Thiếu nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học

21


và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo. Vì vậy vai trị của trí thức chưa được
phát huy và chưa được xã hội nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ.
Cơ chế thị trường một mặt kích thích sự phát triển của khoa học và
cơng nghệ, hình thành đội ngũ trí thức; mặt trái của kinh tế thị trường làm
nẩy sinh tâm lý thực dụng, chú trọng lợi ích trước mắt, thiếu quan tâm đúng
mức cho phát triển lâu dài, thiếu đầu tư bài bản.
Hệ thống các văn bản giữa Đảng và Nhà nước về xây dựng tổ chức
Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam còn chưa thống nhất; nên
việc triển khai cụ thể hoá các chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển Liên
hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật của tỉnh và tập hợp trí thức cịn gặp
nhiều khó khăn.
2.2. Ngun nhân chủ quan:
Một số cấp uỷ đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trị, vị
trí của đội ngũ trí thức, nên chưa quan tâm sử dụng và chưa đầu tư thỏa
đáng về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc…để phát huy vai trị của trí thức.
Nhiều chủ trương của Ðảng về cơng tác trí thức đã được ban hành,

nhưng chậm triển khai vào cuộc sống, chưa kịp thời cụ thể hóa thành cơ chế
chính sách của địa phương.
Thiếu cơ chế hoạt động để tăng cường sự gắn kết giữa Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh với các hội thành viên, giữa các nhóm trí
thức theo chun mơn, nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm và hoạt động của
các hội thành viên.
Cơng tác đánh giá, sử dụng trí thức cịn bất hợp lý, thiếu những cơ
chế thích hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, tiến cử và trọng dụng
nhân tài. Tỉnh chưa có chính sách đãi ngộ trong việc tập hợp, phát huy trí
tuệ của trí thức trong và ngồi tỉnh nhất là lực lượng trí thức có trình độ cao
tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
IV. QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC BẮC GIANG TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
1. Các quan điểm
- Phát triển đội ngũ trí thức tỉnh Bắc Giang phải gắn với việc thực
hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể và phát triển kinh
tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của tỉnh. Đầu tư xây dựng đội ngũ
trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Xây dựng đội ngũ trí thức của tỉnh

22


vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp
và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị.
- Thực hiện Chiến lược phát triển đội ngũ trí thức Bắc Giang là nhằm
tạo ra sự chuyển biến có tính đột phá trong phát triển nguồn nhân lực địa
phương. Phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn
lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; coi trọng phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục;
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với ứng dụng khoa học và công

nghệ. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học và cơng
nghệ ngày càng cao; đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là
những thành tựu khoa học và cơng nghệ mới, có khả năng tăng hàm lượng
trí tuệ trong các sản phẩm thế mạnh, chủ lực, có truyền thống ở địa phương.
- Xây dựng đội ngũ trí thức trên hai mặt: Đức và Tài; hoàn thiện ba
tố chất căn bản của người lao động trí óc: Tri thức, kỹ năng và thái độ. Có tri
thức chuyên sâu, đủ khả năng giải quyết những vấn đề thực tiễn phát triển
của địa phương đặt ra; có kỹ năng thành thạo trong tổ chức nghiên cứu,
truyền bá và ứng dụng những thành tựu tiên tiến của khoa học và công nghệ
vào đời sống kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; hình thành chuẩn mực đạo đức nhân cách của đội ngũ trí thức
mới, biết sống lao động cống hiến vì sự giàu mạnh của quê hương đất nước,
vì hạnh phúc của nhân dân. Chống chủ nghĩa cơ hội thực dụng.
- Xây dựng đội ngũ trí thức Bắc Giang là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và của tồn xã hội, trong đó trách nhiệm của cấp ủy Ðảng và chính
quyền các cấp giữ vai trị quyết định. Phát huy vai trị của trí thức, đầu tư
thỏa đáng về cơ sở vật chất cho hoạt động chuyên môn, đãi ngộ xứng đáng,
tạo mọi điều kiện để trí thức sáng tạo, cống hiến. Tạo mơi trường và điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở
đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách phát
hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ trí thức với nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. Phát triển đội ngũ trí thức Bắc
Giang đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng nhằm tạo động lực cho nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, từ đó cải thiện chất lượng lao động
của cơng nhân, nông dân, viên chức, người lao động trong doanh nghiệp…
nói chung, trên cơ sở đó, tạo ra những tiền đề cần thiết cho phát triển đội
ngũ trí thức, góp phần củng cố khối liên minh cơng nhân-nơng dân-trí thức
23



và doanh nhân, làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng
thuận xã hội.
2. Nhiệm vụ và giải pháp
2.1- Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính
quyền đối với cơng tác xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức
Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, Nghị quyết 05-NQ/HĐND ngày 11/7/2014 của HĐND tỉnh về
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020, tầm
nhìn 2030, các cấp uỷ, chính quyền quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ các giải pháp phát triển đội ngũ trí thức Bắc
Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong cán bộ, đảng viên của
tỉnh.
Quán triệt và đổi mới nhận thức về mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong điều kiện tồn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và vai trị quan trọng của trí thức với tư cách là nguồn
nhân lực chất lượng cao, yếu tố có ý nghĩa quyết định trong trong cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Phát huy năng lực
sáng tạo của đội ngũ trí thức, trên cơ sở xây dựng cơ chế, chính sách tuyển
chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng và tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức làm
việc, cống hiến.
Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung đã đề ra trong
Chương trình hành động số 46-CTr/TU ngày 03/10/2008 của Tỉnh uỷ thực hiện
Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về "xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước"; Chương trình hành động số 42-CTr/TU ngày
01/8/2008 thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khố X) về
tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; Kế
hoạch số 06-KH/TU ngày 19/02/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện
Chỉ thị số 42-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật

trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Kế hoạch số
71-KH/TU ngày 19/8/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thực hiện Kết luận số
90-KL/TW 04/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 (khoá X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
Triển khai cụ thể hoá và thực hiện Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết Trung ương 8 (khố XI) về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục
24


×